• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trọn đời bên em
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 29
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 29
  • Sau

Chương 7

THEODORE CỐ NHỚ XEM lần mình cảm thấy giận dữ như thế này là khi nào. Rất lâu trước đây, có lẽ là từ ngày Melinda rời đi, bỏ lại anh và đứa trẻ. Trăm ngàn suy nghĩ sục sôi trong anh, nhưng Theodore cố che giấu thật kỹ. Suốt bữa tối, anh lờ tịt cô Brandonberg đi, không thể không cảm thấy mặc cảm trước cô. Bàn ăn lại chìm vào im lặng, lạy Chúa trên cao, đây là cách mà bữa ăn phải như thế! Anh đã nhận đủ những gì mình có thể nhận từ một kẻ cao tay như cô, và cũng chẳng định mở miệng để nói vài lời xã giao với một đứa con nít miệng lưỡi sắc sảo nhưng vắt mũi chưa sạch, kẻ không hề có khái niệm làm thế nào để tôn trọng những người hơn tuổi.

Giây phút căng thẳng trên bàn ăn trôi qua, Theodore tìm thấy sự an ủi ở nơi anh yêu thích nhất. Anh rời khỏi bàn và không nói nửa lời với những người còn lại, nhấc mũ ra khỏi chiếc móc sau cửa, cầm đèn dầu và bước vào bóng đêm về phía nhà kho. Màn đêm nhộn nhịp giai điệu của dế, nhưng anh chẳng buồn nghe. Ánh trăng hôm nay sắp tròn, nhưng anh cũng chẳng buồn nhìn. Đầu anh cúi gằm xuống, vô thức tiến vào màn đêm.

Cửa nhà kho kêu kẽo kẹt khi anh đẩy nó mở ra. Đây là thế giới của anh. Nơi anh có toàn quyền kiểm soát và không ai có thể cười nhạo hay phát hiện ra những thiếu sót của anh. Anh để cơn giận dữ được làm theo những gì nó muốn khi vô thức di chuyển để chạm vào những vật quen thuộc, tìm một can dầu và tra vào bản lề cửa, hầu như không nhận thức được chính mình đang làm gì.

Những từ ngữ anh chỉ có thể đoán mà chẳng định hình được chính xác là gì cứ khuấy đảo mọi suy nghĩ của anh.

Bất cần đạo lý. Hay chữ. Kháy đểu. Nghĩ đi nghĩ lại, những từ ngữ này khiến anh cảm thấy mình ngu dốt và bất lực. Đã bao lần anh ước mình có thể đọc được tiếng Anh? Những người quanh anh đều nói tiếng Na Uy. Mẹ đã dạy anh tiếng Anh khi anh còn là một cậu bé, nhưng vào thời gian đó, chẳng một thứ ngôn ngữ nào khác là cần thiết ở đây cả. Mọi thứ, dù vậy, đã thay đổi. Luật lệ thay đổi. Trẻ em giờ đã thành thạo ngôn ngữ của quốc gia mới thay vì ngôn ngữ cũ, và chỉ những kẻ kỳ cựu mới bám trụ được thứ ngôn ngữ của quê hương mình.

Sao anh lại có thể dốt đặc đến thế? Máu trong người sôi sục một lần nữa khi anh nhớ lại lời nói của cô giáo. Anh đóng sầm cửa nhà kho, trở lại xưởng ngựa, cảm giác bực bội và bất lực lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dốt đặc ư? Dốt đặc. Dốt đặc. Đúng. Cô chẳng khác gì một đứa trẻ nhưng lại biết nhiều hơn những thứ anh biết trong suốt cuộc đời mình. Nhưng sao cô dám ném toẹt sự thật đó vào mặt anh cơ chứ?

Tay anh vẫn còn run rẩy nhưng bằng cách nào đó, anh đã kiềm chế được.

Chẳng có từ nào gọi là “nà” ở đây cả.

Không có “nà” sao? Anh nghĩ. Có lẽ cô đúng, nhưng ai chả biết anh vẫn thường dùng từ “nà” thay cho “là”, thậm chí Kristian cũng biết điều đó, và anh cũng đã học hết lớp Bảy rồi đấy chứ!

“Cô ta sẽ không phải nà kẻ khiến mình cảm thấy mình chả khác gì một kẻ đần độn thêm lần nào nữa”, anh lớn tiếng thề, cố tình sử dụng từ “nà” trong câu nói của mình. “Vì mình sẽ không bao giờ nà kẻ mở miệng nói chuyện với cô ta và cho cô ta cơ hội đó.”

Anh cảm thấy những ngón tay mình tê liệt. Bên ngoài những con dế vẫn cất tiếng hát. Bên trong, mọi thứ im lặng như tờ và bất động. Sau đó, anh bắt đầu miễn cưỡng nói to lần nữa.

“Cô ta... n...”, anh dừng lại, ngẫm nghĩ, nhớ lại cách nói của những giáo viên trước đây. “Cô ta sẽ không phải... là... người khiến mình cảm thấy mình là một kẻ đần độn thêm lần nào nữa, vì mình... vì mình sẽ không cho cô ta cơ hội n... làm điều đó.”

Anh lại suy nghĩ thêm chút nữa, tiếp tục, “Cô ta thậm chí còn nà một đứa nhãi ranh vắt mũi chưa sạch”; sau đó sửa lại, “Cô ta... thậm chí... là... một... đứa nhãi ranh vắt mũi chưa sạch”.

Khuôn mặt cô hiện ra rõ ràng, hàng lông mày xếch lên, đôi mắt xanh sáng lấp lánh khi cô hiên ngang chặn anh lại với vẻ giận dữ, khiến Alamo, Bắc Dakota, nghe như thể chỉ là một nơi bần cùng của thế giới. Cô ta thì quá tốt cho Alamo sao? Chỉ giống như Melinda thôi, mặc dù cô ấy sẽ chẳng bao giờ khó chịu về ngôn ngữ của anh. Nhưng giờ thì điều đó quan trọng gì cơ chứ? Cô ấy đã đi rồi. Thứ khiến anh tức giận chính là sự thật tay sai mới của nhà trường đã dấy lên những ký ức sôi sục của anh dành cho Melinda, người mà trong nhiều năm trở lại đây, anh đã chôn sâu những ký ức về cô ấy.

Lẽ ra anh nên đá Linnea Brandonberg ra ngoài khi có cơ hội. Chà, khi mọi thứ cần phải như thế thì nó cũng đã chẳng còn quan trọng nữa. Tay sai mới của nhà trường sẽ chỉ ở đây một năm, giống như những kẻ khác. Cô ta sẽ không quay trở lại đây nữa.

Anh có thể lờ tịt cô đi trong vòng một năm... được không?

Nhưng khi dạo một vòng quanh xưởng ngựa đến lúc mệt lử, anh phát hiện ra rằng lờ tịt cô là nhiệm vụ bất khả thi, cũng nhiều như sự thật là cô đang ở trong nhà anh. Tiến về phía sân nhà, mắt anh lướt tới cửa sổ tí hon của phòng cô. Anh dừng lại, mất bình tĩnh trước suy nghĩ sẽ chạm mặt cô dưới lầu. Mày nà... mày sẽ không để cho kẻ ngạo mạn nhỏ bé đó khiến mày phải cân nhắc tới việc vào nhà đấy chứ, phải không Teddy?

Anh kiên quyết tiếp tục bước qua chỗ cối xay gió, tiến về phía căn nhà. Rồi anh thở phào một hơi nhẹ nhõm khi phát hiện ra mọi người đều đã lên giường. Mẹ hẳn là người để đèn sáng chờ anh.

Anh bước vào căn phòng ngủ đơn giản, cũ kỹ của mình, rồi tới chỗ tủ quần áo, nơi được phủ một chiếc khăn che màu trắng có viền móc xanh lam. Anh nhìn nó chằm chằm một lúc lâu trước khi đặt đèn dầu xuống và chạm vào họa tiết con bướm thêu trên đó, nhớ đến bàn tay mảnh dẻ của một người phụ nữ đang cầm kim và khung thêu để khâu vá hòng xua đi nỗi cô đơn của cô. Tay anh lướt dọc theo lớp viền loang lổ khiến chiếc khăn bị xô lệch.

Thật đáng buồn, anh vuốt phẳng nó, sau đó miễn cưỡng mở tủ tìm kiếm bên dưới đống quần áo một bức ảnh mà anh đã chẳng hề để mắt đến nó trong nhiều năm liền. Nó được để trong chiếc khung gỗ hình ô van có mặt kính, trông nữ tính đến lố bịch so với bàn tay to lớn, chai sạn của anh. Vẻ ngoài tinh tế của người phụ nữ xinh đẹp trong bộ đồ màu nâu đỏ đang mỉm cười với anh như cô đã từng làm trong suốt hai năm quý giá mà anh có cô bên cạnh.

Nỗi đau lại nhói lên trong lồng ngực. Melinda. Ôi, Melinda, anh cứ tưởng mình quên được em rồi.

Anh đặt bức tranh lên tấm khăn mà cô đã thêu, nhìn ngắm cô một lúc và đặt khung ảnh về chỗ cũ, tắt đèn rồi nằm xoài ra, gối đầu lên hai cánh tay. Thậm chí cả trong bóng tối, anh vẫn có thể thấy khuôn mặt cô đang mỉm cười cùng vẻ hấp dẫn làm say mê lòng người mà chẳng người phụ nữ nào có thể làm được trước đây, kể cả sau này cũng thế. Anh nhắm mắt lại, nuốt nước bọt một cách khó khăn, buộc mình phải nằm yên một chỗ.

Sự cô đơn là thứ mà anh thường cam chịu chấp nhận, đó cũng là đặc thù của con người nơi đây và cái cách mà cả cuộc đời họ đã sống. Nhưng đêm nay, nó lén lút len lỏi vào tim anh khiến tim anh đập thình thịch với cơn đau nặng trĩu mà anh chẳng tài nào kiểm soát nổi.

Anh mới chỉ ba mươi tư tuổi. Anh đã sống được ba phần tư cuộc đời chưa nhỉ? Hay mới chỉ một nửa? Liệu anh có phải sống tiếp thêm ba mươi tư năm nữa đơn độc trên chiếc giường này hay không? Mỗi ngày ra đồng rồi về nhà, chẳng ngồi chung bàn với một ai khác ngoài mẹ, con trai và anh trai mình sao? Rồi khi không còn mẹ và con trai bên cạnh để chia sẻ, anh phải làm sao đây?

Chẳng có ai khác ngoài John, người mà anh yêu quý. Đúng thế, nhưng John sao có thể nào bù đắp được những khoảng trống mà Melinda để lại. Rất ít khi anh lại ước ao có một người phụ nữ nào đó trong đời có thể thay thế được cô. Trực giác cho anh biết kể cả anh có muốn một ai đó, thì ở nơi này, ở quanh đây, anh cũng chẳng thể tìm nổi khi mà nửa số phụ nữ trong vùng đều có quan hệ họ hàng với anh, nửa còn lại đã kết hôn hoặc già đủ để trở thành mẹ của anh.

Anh không hiểu điều gì đã khiến mình suy nghĩ nhiều về phụ nữ như lúc này hay tại sao nỗi buồn bã lại đánh mạnh vào mình như thế khi giữa vụ mùa đang ở quãng thời gian cao trào, điều luôn làm anh có cảm giác hài lòng. Anh cũng không hiểu được rất nhiều thứ khác, và nếu như có bất cứ điều gì khiến Teddy Westgaard cảm thấy ngu ngốc và thiếu thốn, đó không phải là sự thiếu hiểu biết. Anh ước gì lúc này có ai đó để mình giãi bày tâm sự về Melinda, về nỗi đau mà cô gây ra cho anh trong suốt từng ấy năm về trước, rằng sự tổn thương đó vẫn mãnh liệt kể cả khi anh nghĩ rằng mình đã làm chủ được nó. Nhưng làm gì có ai ở đây cho anh nói chuyện chứ? Và làm sao một thằng đàn ông lại viện cớ giãi bày tâm trạng theo cách như vậy được?

Không ai trong số những người anh biết có thể làm thế.

Không một tâm hồn nào anh biết, có thể làm thế.

Trên chiếc giường trên lầu, Linnea dỏng tai lắng nghe tiếng Theodore về nhà, chuẩn bị nghỉ ngơi. Cô nhớ lại cách cư xử lạnh lùng của anh dành cho mình lúc tối, sự cô lập mà cô cảm thấy khi anh đóng sầm cánh cửa trước mặt mình. Nó khiến cô muốn khóc, dù cô không thực sự hiểu tại sao. Theodore đã sai, còn cô đã đúng. Và chỉ bởi vụ tranh cãi với kẻ cứng đầu như anh mà cô gần như không thể chìm vào giấc ngủ.

Cô kiên quyết lật người nằm sấp, vùi mặt vào đống gối để ngăn cơn nhức nhối trong đáy mắt. Mọi thứ với cô đang trở nên tuyệt vọng. Cô nhớ lại cuộc đối thoại với Nissa ngay sau vụ đối đầu với Theodore. Cô đã cho rằng Nissa chắc chắn sẽ đứng về phía cô, nhưng người phụ nữ già lại chỉ an ủi cô một chút.

“Chúng ta không nói cho cháu chuyện những cậu bé sẽ không tới trường vì biết cháu sẽ phật lòng”, Nissa nói. “Dù sao thì cháu cũng không thể thay đổi suy nghĩ của Teddy được đâu. Thằng bé cũng từng có vài cuộc tranh cãi tương tự với các giáo viên khác từng tới đây dạy học. Sự thật là thế, đó là lý do tại sao đa số bọn họ chẳng bao giờ quay trở lại đây để dạy thêm năm thứ hai. Có lẽ cháu sẽ quen với việc đó. Những thanh niên sẽ không đi học cho tới khi mùa vụ hoàn thành và chúng ta đã hết lúa để thu hoạch.”

“Và khi nào vụ mùa mới kết thúc?”

“Vào giữa tháng Mười hoặc khoảng đó. Mọi thứ sẽ tiến hành nhanh hơn khi đội gặt thuê tới.”

“Đội gặt thuê ư?” Họ còn tìm đâu ra đội gặt thuê khi đang huy động gần như toàn bộ đàn ông và thanh niên trai tráng trong vùng, những người có khả năng thu hoạch và làm mùa vụ cơ chứ? Và nếu như có thể chi trả cho đội gặt thuê, tại sao Theodore không làm điều đó luôn từ bây giờ, khi mà điều đó sẽ tốt hơn cho Kristian?

“Ngay sau khi mùa vụ ở Minnesota xong xuôi, đàn ông bên đó sẽ tới đây gặt thuê.”

Và thế là Linnea đành đơn độc trong cuộc chiến tranh giành những thanh niên lớn tuổi để chúng được tới trường đủ chín tháng như những gì chúng xứng đáng nhận được. Kristian đã mười sáu, nhưng mới chỉ học tới chương trình lớp Tám. Họ không hiểu được lý do rằng chỉ trong sáu tháng ngắn ngủi, cậu bé sẽ không thể hoàn thành toàn bộ chương trình học hay sao?

Những giọt nước mắt nhanh chóng xuất hiện trên gương mặt cô. Cô đổ lỗi cho họ về nỗi thất vọng cùng những kỳ vọng tan vỡ của cô, về cả một ngày dài đầy cố gắng mà cô đã phải chịu đựng, thứ khiến cô phải trằn trọc từng cơn, và cả vì cuộc đối đầu với Allen Severt lẫn Theodore. Nhưng khi nước mắt biến thành cơn nức nở, nó không còn liên quan đến học thuật, những băn khoăn hay suy nghĩ về Allen Severt, mà là về Theodore Westgaard, người cùng dùng bữa tối với cô rồi lại rời khỏi nhà mà chẳng một lần liếc nhìn cô hay công nhận sự tồn tại của cô.

Cô cũng bị đối xử tồi tệ hơn thế mỗi khi họ bước qua nhau suốt vài ngày sau đó. Lần duy nhất anh mở miệng với cô là khi cô ép anh lên tiếng bằng cách chào anh trước. Nhưng lúc đó anh cũng chẳng buồn nhướng mắt nhìn cô. Và nếu cô đang ở trong phòng thì anh sẽ ra khỏi đó càng nhanh càng tốt. Chủ nhật tiếp theo họ vẫn chạm mặt và đứng cạnh nhau trong nhà thờ, cô nhận thức rõ anh đã cẩn thận thế nào để đảm bảo tay áo của mình không chạm vào tay áo cô.

Sự thù địch của anh đã trở thành gánh nặng trong tim cô. Mỗi lần anh chìa đôi vai lạnh lùng ra, cô chỉ muốn nắm chặt cánh tay anh, muốn anh hiểu ở cương vị giáo viên, cô không thể làm gì khác. Cô muốn vạch trần linh hồn mình và thú nhận với anh rằng cô đang rất đau khổ khi phải sống chung với sự băng giá của anh. Cô muốn anh lại thân thiện với mình để không khí căng thẳng trong nhà sẽ biến mất.

Chẳng có gì giống điều này từng diễn ra trong đời cô. Cô chưa từng gây thù với ai trong số bạn bè của mình, dù rằng Theodore không thực sự là bạn. Nhưng sự khinh bỉ anh dành cho cô bằng cách coi cô như không khí còn kinh khủng hơn thái độ trung lập mà họ từng có trước thời điểm cô đôi co với anh và gọi anh là đồ dốt đặc cán mai. Ngồi cạnh anh, cảm nhận sự khinh thị anh dành cho mình khiến trái tim Linnea héo dần héo mòn.

Mục sư Severt dõng dạc tuyên bố mọi người sẽ hát bài Thánh ca số 203. Tiếng đàn organ vang lên, Linnea liền cầm một quyển Thánh ca lên, huých nhẹ cánh tay Theodore.

Anh cứng người. Cô lén nhìn anh dưới chiếc mũ gắn lông vũ, rụt rè nở nụ cười với anh. Anh nhận ra cô đang muốn đề nghị nhiều điều hơn là chỉ chia sẻ với anh cuốn sách. Anh cũng nhận ra mình đang ở dưới Mái nhà của Chúa, nơi không có chỗ cho những hành động đạo đức giả. Khi giơ tay giữ lấy một góc cuốn sách, anh cũng không cố tình lừa cô để cô tin rằng mình có khả năng đọc được những từ trong các đoạn Thánh ca.

Và mặc dù dường như được xoa dịu khi ở trong nhà thờ, anh vẫn chẳng hé răng nói với cô lấy nửa lời trong suốt tối Chủ nhật. Anh cắm mặt vào ăn, rồi rời khỏi bếp để thay quần áo làm việc. Khi quay lại và đi ngang qua căn phòng, anh thoáng thấy cô nhìn mình chằm chằm từ bên kia phòng. Những ngón tay cô vặn xoắn vào nhau, môi hé ra như thể cô đang đấu tranh xem có nên mở miệng hay không.

Anh chờ đợi, cảm thấy dạ dày trống rỗng vì tò mò, kỳ vọng dâng lên từ tận sâu trong tim anh. Đôi mắt xanh lam của cô mở to và sợ hãi. Hai vệt hồng tươi làm bừng sáng đôi gò má. Khoảnh khắc đó dường như dài bất tận, nhưng rồi ánh mắt cô cụp xuống. Cô nuốt nước bọt và khép môi lại. Anh thất vọng bước khỏi phòng, không thốt ra một lời.

Cô dành cả chiều ngồi trong phòng, sửa bài và soạn giáo án cho tuần kế tiếp. Dưới lầu, Nissa đang ngủ thiếp trên giường. Ngôi nhà trở nên yên tĩnh khi bên ngoài nắng đã tắt, bầu trời hướng bắc chuyển sang xám xịt, tiếng sấm khẽ rền.

Suy nghĩ của Linnea dần lạc khỏi công việc nhà trường. Cô liếc ra ngoài cửa sổ, chú tâm vào sự thay đổi của thời tiết. Những suy nghĩ của cô lang thang đến cuộc chiến mà cô và Theodore đã gây ra, kết quả của sự phản kháng mà không ai trong số họ có khả năng kết thúc nó. Nơi này chẳng có ai để cô có thể thảo luận cùng, vì thế cô quyết định sẽ nói chuyện với Lawrence.

“Còn nhớ Theodore không? Chà, em sợ anh ta lắm, em vẫn chưa ổn định lại được. Chúng em đã có một cuộc tranh cãi gay gắt, giờ thì anh ta chẳng buồn nói chuyện hay nhìn em nữa.”

Chỉ mặc quần áo lót, Linnea đối mặt với hình bóng của cô trong gương, ép tay lên ngực, những ngón tay chạm vào xương quai xanh trên cổ họng, trong khi vẻ thất vọng và mất tinh thần bao phủ lên khuôn mặt cô. “Em phải làm gì bây giờ, Lawrence?”

Cô ngừng lại, ngón tay run rẩy và tiếp tục, “Chậc, em cho là cả hai đều có lỗi. Anh ta rất cứng đầu, và em thì... em đã vô cùng khó chịu với anh ta”. Đột nhiên vai cô chùng xuống. “Anh ta xứng đáng bị như thế, Lawrence. Anh ta là một kẻ vô cùng cứng đầu! Anh ta nghĩ rằng phần còn lại của thế giới này đều có lỗi khi muốn được học cao hơn anh ta, và toàn bộ thời gian khi anh ta mở miệng...”, cô đột ngột ngừng lời, quay trở lại bên chiếc gương. “Ôi, vâng... em... em...”

Cô lại vung tay lên, tức giận với sự miễn cưỡng của Lawrence khi cô kết tội, “Thế nên em đã gọi anh ta là đồ dốt đặc cán mai! Vậy thì sao?”. Cô tiến về phía chồng bài vở mà mình đang sửa, chạm vào nó, sau đó quay ngoắt lại, mắt mở to. “Xin lỗi ư? Chắc chắn là anh không có ý như thế đâu! Tại sao chứ, anh ta mới là người phải xin lỗi em!”

Lúc tiếng sấm đầu tiên rền rĩ trên bầu trời, Theodore hướng về phía bờ ruộng, ngồi tựa lưng vào một lớp kim loại vững chắc, giữa đồng lúa mì.

Anh xem đồng hồ. Đã bốn giờ, đây có lẽ là ngày đầu tiên họ phải nghỉ sớm đến thế trong hơn ba tuần qua. Giải lao một chút có thể khiến họ khá hơn, dù rằng nếu cơn mưa ập xuống, việc phơi khô lúa mì sẽ bị chậm trễ.

Trở về nhà, Theodore để Kristian tắm táp cho những con ngựa. Anh bước vào căn bếp trống trải, lập tức tiến về phía lò để tìm chút nước ấm. Cầm khay trà trên tay, anh dừng lại, đầu hơi nghiêng về một phía. Giờ thì ai đang ở đây và thăm hỏi cô ta trong phòng cô ta nhỉ? Anh lắng nghe để tìm kiếm một giọng nói khác, nhưng chẳng có bất cứ thứ gì như anh tưởng. Dưới lầu, phòng ngủ phát ra những tiếng khịt mũi nhè nhẹ của Nissa. Ánh mắt bối rối nhìn lên trần nhà, Theodore nhón chân bước về phía cầu thang, lãng quên khay trà trong tay.

“Em chỉ không biết mình sẽ phải làm gì nếu như không có anh, Lawrence. Anh... ôi, anh là người bạn tốt nhất mà em từng có. Giờ thì hãy dịu dàng và ôm eo em đi nào. Trời đột nhiên lạnh quá!”

Theodore chờ đợi, nhưng sau đó tất cả đều yên tĩnh. Anh nghe tiếng bước chân của cô, mắt dõi dọc theo trần nhà. Lawrence ư? Đang sấm sét thế này, thì ai là Lawrence? Và anh ta đang làm gì trong phòng cô? Anh lại nghiêng đầu, chờ đợi tiếng đàn ông trả lời. Nhưng nhiều phút trôi qua mà vẫn chẳng có một giọng nam nào vang lên. Họ đang làm gì mà lại yên tĩnh đến thế?

Theodore đổ nước vào trong bồn, rửa mặt mũi chân tay cũng lặng lẽ như cái cách mà anh đã làm công việc này trong suốt cuộc đời, tiếp tục tò mò nghe ngóng. Nhưng chẳng mấy chốc Kristian đã trở lại nhà kho, đóng sầm cửa chớp, đánh thức Nissa khỏi giấc ngủ. Bà lảo đảo bước ra, đeo kính lên và bình luận về thời tiết.

Theodore quay người lại, lau khô mặt rồi thì thầm hỏi, “Ai đang ở trên lầu với cô ta thế?”.

Nissa dừng bước. “Trên lầu á? Hử, làm gì có ai.”

“Vậy cô ta đang nói chuyện với ai?”

Nissa chăm chú lắng nghe một lúc. “Con bé... ờ... có lói chuyện với ai đâu.”

“Con nghĩ mình đã nghe thấy tiếng nói chuyện.”

Câu nói này không tác động gì tới Theodore cho đến khi anh trở lại xưởng ngựa và nhận ra mẹ đã nói ngọng từ “nói”. Đút hai tay vào yếm quần, anh tiếp tục bước đi, và sửa lại, “Cô ấy không nói chuyện với ai cả”.

Tiếng đập mạnh từ cửa chớp và cuộc trò chuyện bên dưới đưa Linnea trở lại hiện thực. Đột nhiên cô ý thức được ngoài trời đã tối đen thế nào. Áp tay lên cửa sổ, cô chăm chú nhìn ra ngoài và thấy một tia sét đánh xuống ở phương bắc. Vậy là họ đã trở về sớm hơn và không thể quay lại đồng sau khi vắt sữa.

Cô tựa người vào thành giường, hai cánh tay ôm lấy đầu gối, nghịch ngợm những đầu ngón tay, rầu rĩ và chăm chú nghiên cứu chúng.

“Có lẽ anh nói đúng, Lawrence”, cô nói, rồi đứng dậy.

Cô không cần phải hỏi xem liệu giờ này Theodore có thể ở đâu; bằng cách nào đó, cô biết. Những tia chớp ngày càng gần, cơn mưa bắt đầu đổ xuống trong lúc cô bước vào nhà kho. Cánh cửa bên ngoài bật mở. Khi nó đóng lại sau lưng, cô dừng lại, để mắt thích nghi với bóng tối. Những chiếc cửa sổ phía bên trái chỉ mang lại chút ánh sáng mơ hồ, nhưng đủ để cô biết nhà kho cũng ngăn nắp như chốn riêng tư nhỏ bé của Theodore ở phía kia. Cánh cửa đó lúc này đang mở, luồng sáng màu cam từ chiếc đèn dầu hắt lên vạt áo cô.

Cô chỉ nhìn thấy một nửa lưng của Theodore. Sau khi rời khỏi nhà thờ, anh đã thay lễ phục thành quần yếm nhưng vẫn mặc sơ mi trắng. Anh đang chống khuỷu tay lên gối và cầm thứ gì đó, hình như đang đánh bóng nó, vai anh rung lắc nhịp nhàng. Cô nhón thêm một bước nữa để nhìn thấy trọn vẹn hình dáng anh. Cô dõi theo những cơ bắp trên cánh tay áo được xắn lên khi anh tiếp tục nhiệm vụ. Căn phòng trở nên gần gũi, ấm cúng và tràn ngập mùi xà phòng, dầu lẫn mùi của lũ ngựa.

Trông anh mới cô đơn làm sao! Bàn tay anh ngừng chuyển động, nhưng anh vẫn ngồi như cũ, lơ đãng xem xét miếng giẻ trong tay. Cô nín thở, vẫn duy trì vẻ ảm đạm. Cô có thể nghe thấy tiếng anh thở và tự hỏi anh đang nghĩ gì khi cúi đầu xuống thấp và trông cô độc đến thế.

“Theodore?”

Anh giật mình quay lại đối mặt với cô và đỏ bừng mặt khi khiến chiếc ghế chỉ giữ được thăng bằng trên hai chân trước khi đổ xuống sàn.

“Tôi có làm phiền anh không?”

Anh đang ngồi đó để suy nghĩ về cô, và sự xuất hiện của cô phía sau anh thực sự là làm phiền, đúng thế. Tay cô siết lại phía sau lưng, khiến ngực cô trở nên đầy đặn hơn, và mặc dù đã giữ ánh mắt xoáy sâu vào mắt cô, anh vẫn bắt kịp ánh sáng lóe lên từ chiếc đồng hồ màu vàng đeo ở chỗ đầy đặn nhất nơi ngực trái của cô.

“Không!”

“Tôi không cố ý làm anh giật mình.”

“Tôi không biết nà cô đã đứng đó.”

“Là, không phải nà.” Câu nói thốt ra trước khi cô kịp ngăn nó lại, khiến cho cô phải bặm môi.

“Cái gì cơ?”

“Không có gì.” Lúc này đến lượt cô đỏ mặt.

Sự im lặng lại bao trùm lấy họ, căng thẳng, như khi họ gặp và bước qua nhau trong nhà bếp.

“Tôi có thể vào không?”

“Được thôi.” Anh vẫy chiếc giẻ một cách lo lắng. “Chắc chắn rồi. Nhưng ở đây nà... không...”, anh giậm chân. “Không rộng rãi cho lắm.”

Cô cảm thấy không thoải mái cũng nhiều như anh. “Đủ thêm cho một người nữa chứ?”, cô hỏi. Khi anh không trả lời, cô bước vào phòng, chắp tay sau lưng, mắt liếc nhìn bức tường trưng bày da thú. “Đây chính là nơi anh thường dùng để tiêu khiển trong thời gian rảnh rỗi hả?”

“Đây nà...”, anh cố nghĩ một từ chính xác, nhưng bằng cách nào đó, tâm trí lại trở nên lộn xộn khi cô đứng trong phòng. “Không có thứ gì đó tương tự như “lày” trong một cái trang trại.”

“Ừm...” Cô soi kỹ những bộ yên cương treo gọn gàng, lần này lờ tịt lỗi phát âm của anh đi.

“Anh đang làm gì thế?”

“Đánh bóng đinh.”

“Ồ, sao lại phải làm thế?”

Anh chăm chú hướng ánh mắt nhìn cô khi cô nghiêng đầu để xem xét các vật trên cao. Câu hỏi mới hay làm sao! Thế mà cô lại cho rằng anh dốt đặc cán mai ư? “Vì nếu không làm thế, mồ hôi ngựa sẽ khiến nó rỉ mất, và khói từ... khói từ ngoài kia cũng sẽ khiến nó bị hỏng.” Anh gật đầu về khu chính nhà kho.

“Thật sao?” Cô quay lại đối mặt với anh, mắt mở lớn. “Tôi chưa từng biết điều đó. Thật thú vị!”

Theodore chưa bao giờ thấy chuyện này thú vị, mà chỉ là sự thật. “Nhưng, tôi cho là anh biết rõ mọi thứ cần thiết để quản lý một nông trang.” Cô lang thang xa hơn vào phòng, ánh mắt anh dõi theo cô, bị cuốn hút vào cảnh tượng đó, không hiểu nổi tại sao cô lại tới đây. Cô thong thả tiến về phía máy cưa, giơ tay chải lên miếng lót da cừu, đột ngột thay đổi ý định.

“Ồ! Tôi suýt quên khuấy mất”, cô quay lại, giơ một cái bẫy chuột từ phía sau lưng ra. “Tôi có một vị khách không mời ở trường. Kristian đã kiếm cái bẫy này cho tôi nhưng tôi e là mình không biết đặt nó. Anh có thể dạy tôi không?”

Anh liếc xuống cái bẫy chuột, sau đó quay lại nhìn cô, trong tích tắc, cô cho rằng anh sẽ cười toe toét. Nhưng anh không làm thế mà chỉ nghĩ rằng người phụ nữ có ăn có học này cũng có những điểm dốt đặc.

“Cô không biết cách đặt bẫy chuột thật sao?”

Cô nhún vai. “Cha tôi luôn là người làm những việc này trong cửa hàng, vì thế trước giờ tôi chưa từng thử. Nissa đã cho miếng pho mát vào bữa trưa của tôi, nhưng tôi đã làm vài thứ khá ngu ngốc, và cũng sợ bị kẹp vào tay.”

“Cửa hàng gì?”

“Cha tôi sở hữu một cửa hàng giao dịch tại Fargo. Những con chuột rất thích gặm nhấm các bao tải bột mì.”

Mắt anh hơi nheo lại. “Tôi tưởng cha cô là luật sư chứ nhỉ?”

Cô nhìn anh chằm chằm trong im lặng, bị phát hiện vì đã nói dối. Ánh mắt cô hạ xuống chiếc bẫy chuột, sau đó cũng mở lời với vẻ ăn năn. “Đó là lời nói dối. Ngày hôm đó, anh... anh khiến tôi bối rối đến nỗi phải nghĩ ra thứ gì đó thật nhanh, vì tôi...” Cô ngước lên nhìn bằng ánh mắt vô tội, sau đó lại cụp mắt xuống. “Tôi sợ anh sẽ không đưa tôi đi cùng, tôi lại chẳng biết phải nói gì để khiến anh thay đổi ý định.”

Vậy ra sau cùng thì cô nhỏ ngay thẳng này cũng chẳng ngay thẳng cho lắm. Nhưng má cô giờ đã nhuộm màu hây hây như những bông mẫu đơn, và cô đang tập trung vào chiếc bẫy chuột như thể sợ phải ngước lên nhìn lần nữa. Những móng tay được cắt tỉa gọn gàng bấm vào cạnh gỗ. Anh xòe một bàn tay to lớn ra. “Đưa nó cho tôi. Tôi sẽ dạy cô thứ gì đó mới mẻ.”

Cô ngẩng đầu lên, ánh mắt họ giao nhau. Cô nhẹ nhõm khi phát hiện ra Theodore đang có chút thực lòng. Cô đặt chiếc bẫy chuột vào tay anh, anh liền mang nó tới bàn làm việc, và cô đành miễn cưỡng đứng thật gần anh.

Anh nhìn lại qua vai. “Nào, cô có tới đây không?”

“Ôi... có!”

Họ đứng cạnh nhau, cô nghĩ rằng mình chưa từng thấy đôi bàn tay nào lại to lớn đến thế. Anh cắt, và khâu một miếng da thành hình vuông nhỏ thay cho miếng pho mát. “Đầu tiên là phải đặt mồi. Ở chỗ này.”

“À, dĩ nhiên, ở đó. Tôi chưa ngốc đến thế.”

Anh cúi xuống. Còn cô nhìn lên. Họ đều muốn mỉm cười. Cô để ý thấy anh có đôi lông mi dài bất thường. Anh chú ý tới đôi mắt xanh sâu thẳm của cô sáng lên như ánh đèn dầu phản chiếu trên chiếc đồng hồ vàng nơi ngực cô. Họ ép bản thân phải tập trung vào bài học.

“Giữ nó thật phẳng và ép cánh cung về phía còn lại.”

“Ép cung ra sau”, cô lặp lại, và ngước lên nhìn. “Thứ này gọi là cung sao?”

“Đúng thế.”

“Sao hả?” Anh thật sai lầm khi liếc nhìn vào mắt cô, chiếc bẫy liền văng khỏi bàn và rơi xuống sàn.

Cô bắt đầu cười khúc khích, còn anh thấy mặt mình dần nóng lên.

“Tôi cũng có thể làm tốt như thế”, Linnea chọc anh. Cô cúi xuống, nhặt chiếc bẫy lên, sau đó đưa nó cho anh.

Anh bối rối nhận lấy và bắt đầu lại, tìm miếng da vuông, đặt nó vào vị trí và ép cung ra sau. “Đặt thanh khóa vào vị trí phía dưới mép...” Anh cẩn thận rút tay ra. “Ở chỗ kia.” Anh thấy nhẹ nhõm khi lần này đã hoàn thành việc đặt bẫy. Anh vươn tay lấy chiếc tua vít khỏi hộp dụng cụ rồi dùng nó để thử bẫy. “Giờ thì cô có thể thử.” Anh bỏ tua vít trở lại hộp, đẩy cái bẫy về phía cô.

“Được rồi.” Anh dõi theo tay cô, suy nghĩ về chuyện chiếc bẫy đột nhiên bung ra có thể khiến ngón tay nhỏ bé của cô bị bầm tím ra sao. Nhưng cô đã khéo léo hoàn thành công việc này, chiếc bẫy được nhanh chóng gắn mồi nằm trên bàn.

Bên ngoài cơn bão ngày càng mạnh. Trong ô cửa sổ hình vuông nhỏ bé, khuôn mặt họ tương phản với bầu trời xanh đen ngoài kia, xưởng ngựa trở nên yên ắng tột cùng. Mùi da, ngựa, và hương gỗ già bao bọc họ trong sự an toàn.

“Theodore?”, cô lên tiếng trong không khí tĩnh lặng. Mưa hắt ngoài cửa sổ, trong phòng sáng trưng và khô ráo, nhưng không khô như cổ họng Theodore lúc này, khi cả hai người họ vẫn tiếp tục không rời mắt khỏi bàn tay nhau. “Thực ra tôi không hẳn tới đây để học cách sử dụng bẫy chuột. Tôi chỉ muốn tới để xin lỗi.”

Anh quay sang nhìn cô, đầu cô vẫn cúi gằm xuống khi cô nói tiếp, “Tôi tới để xin lỗi anh”.

Anh vẫn chẳng nghĩ ra điều gì để đáp trả.

“Tôi cho rằng mình đã làm tổn thương anh khi chế nhạo vì anh phát âm không đúng chính tả, và gọi anh là đồ ngu ngốc. Tôi rất xin lỗi vì đã làm thế, Theodore.”

Anh nhìn vào cằm cô, nhanh chóng đánh mắt sang nơi khác trước khi mắt họ chạm vào nhau. “Không sao!”

“Thật không? Vậy tại sao anh lại không nói chuyện với tôi, thậm chí là chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái kể từ lúc đó?”

Anh không biết phải phản ứng thế nào, vì thế chỉ mải mê nhìn miếng da trên chiếc bẫy. Một tiếng sấm vang dội trên bầu trời kèm theo sét giáng xuống làm nhà kho vững chãi bỗng chốc rung chuyển. Nhưng chẳng ai trong số họ thấy nao núng.

“Phải ngồi chung bàn ăn và đi qua anh trong khi anh lúc nào cũng tỏ vẻ lạnh lùng, quả thật tôi cảm thấy khó khăn vô cùng. Gia đình tôi khác xa gia đình anh. Chúng tôi nói chuyện và cười đùa cùng nhau, chia sẻ với nhau mọi thứ. Tôi nhớ những điều đó rất nhiều kể từ khi tới đây. Cả một tuần dài, bất cứ khi nào anh trở nên lạnh lùng và xa cách, quay lưng về phía tôi, tôi lại cảm thấy muốn khóc biết bao, vì tôi chưa bao giờ bị ai coi như kẻ thù đến thế. Sau đó, hôm nay, lúc ở trong nhà thờ, tôi đã nghĩ rằng... ôi, tôi đã hy vọng có lẽ anh đã dịu đi một chút, nhưng khi suy nghĩ về điều đó nhiều hơn, tôi nhận ra có lẽ anh đã tổn thương rất nhiều và nếu như muốn trở thành bạn của anh một lần nữa, tôi phải xin lỗi anh. Anh có thể... anh có thể lại nhìn tôi được không?”

Ánh mắt họ giao nhau. “Tôi xin lỗi. Anh không phải người ngu ngốc, và lẽ ra tôi không bao giờ được phép nói như thế. Lẽ ra tôi nên kiên nhẫn hơn với phát âm của anh. Nhưng Theodore, tôi là giáo viên.” Chẳng một dấu hiệu báo trước, cô đặt tay lên cánh tay anh, vẻ mặt trở nên dịu dàng. Thứ gì đó thật kinh khủng nhói lên trong anh, anh có cảm giác cái chạm nhẹ của cô đang thiêu đốt da thịt mình. Anh cố dứt mắt khỏi đó, nhưng thất bại.

“Anh biết điều đó nghĩa là gì không?” Mắt cô long lanh mờ ảo, anh điên cuồng tự hỏi mình phải làm gì nếu như cô khóc. “Có nghĩa tôi không chỉ là giáo viên khi ở trường. Tôi không thể chỉ là một giáo viên khi tới trường, và quên bẵng điều đó khi trở lại nơi đây.”

Tay cô dứt khỏi anh, và tạ ơn Chúa, anh được tự do khỏi sự đụng chạm và mối đe dọa về những giọt nước mắt của cô. “Ôi, tôi biết đôi khi mình bốc đồng, chỉ cần nghe mọi người nói gì đó không đúng là tôi lập tức sửa lại mà chẳng hề nghĩ ngợi gì. Và tôi nhận ra rằng nó khiến anh khó chịu đến thế nào.”

Anh bắt đầu quay người đi, nhặt miếng giẻ lên, ra vẻ như đang bận rộn, nhưng cô đã tóm lấy tay áo anh và buộc anh đứng yên tại chỗ. “Và tôi sẽ lại làm thế nữa... hết lần này đến lần khác... cho đến khi anh có thể sửa được những lỗi sai. Anh có thể hiểu cho tôi không?”

Anh im lặng, nhìn cô chằm chằm.

“Vậy thì điều gì có thể làm tổn thương anh được nữa, khi anh biết rằng tôi không hề có ý coi thường anh? Không có luật lệ nào nói rằng tôi chỉ được làm giáo viên với những đứa trẻ của tôi, phải không?” Vì anh không bình luận gì thêm vào, cô sốt ruột vặn tay áo anh rồi khăng khăng, “Phải không?”.

Cô là một bí ẩn. Anh không quen với việc thương lượng thẳng thắn thế này, và anh đã chờ quá lâu để cố quyết định xem mình phải nói gì với cô. Cô cáu kỉnh hất cánh tay anh. “Anh lại cứng đầu rồi, Theodore. Và trong khi chúng ta đang nói về chủ đề cứng đầu, thì anh chắc chắn không phải tấm gương tốt cho con trai khi cứ hờn dỗi rồi im lặng. Anh nghĩ Kristian sẽ nghĩ gì về cha mình khi anh đối xử với cô giáo của nó như thế. Anh được mong chờ là phải tôn trọng tôi!”

“Tôi có làm thế”, cuối cùng anh cũng thành công trong việc trả lời cô.

“Ồ, dĩ nhiên là anh có.” Cô chống tay lên hông, so vai. “Cho tới giờ, anh đã cố quẳng tôi cho nhà Dahl và lạnh lùng xem tôi như không khí. Nhưng tôi không thể sống như thế, Theodore. Tôi không quen với kiểu địch nhân như thế.”

Trời quang, mây tạnh, và Theodore đã thừa nhận, như thể anh chưa từng mong chờ được nghe chính mình nói ra điều đó. “Tôi không biết địch nhân nghĩa là gì.”

“Ôi!” Lời thú nhận của anh khiến cô buông bỏ vẻ hiếu chiến của mình. “Nó có nghĩa là thù hằn... kiểu như chúng ta là kẻ thù của nhau. Chúng ta sẽ không phải là kẻ thù trong vòng chín tháng tới, được chứ?”

Dường như anh không thể nào đáp lời cô. Tất cả những gì anh nghĩ được chỉ là dưới ánh đèn dầu, trông cô mới quyến rũ làm sao, đôi mắt xanh thật sinh động dưới những tia sáng màu vàng lấp lánh, anh cũng nghĩ về việc mình thích sống mũi nhìn nghiêng của cô đến thế nào. Cô cười khúc khích và thêm vào, “Vì trước lúc đó tôi sẽ phát điên lên mất”.

Đàn ông có thể nói gì với một cô nàng nhiệt tình, nóng nảy như cô nhỉ? “Cô nói nhiều thật đấy, cô nhỏ.”

Cô bật cười. “Còn anh thì nói ít quá.”

“Chúng ta làm một cặp được đấy.”

“Tôi làm sao biết được. Lúc tôi mới tới, chúng ta đã cư xử khá tử tế với nhau. Chà, thực tế là anh đã rất...” Cô lại cười trêu chọc. “Ba hoa.”

Anh dựa người vào bàn làm việc, khoanh tay. “Ba hoa nghĩa là gì?”

“Nơi nào đó trong nhà kho hẳn phải có một quyển từ điển tiếng Anh hoặc tiếng Na Uy. Như thế có lẽ anh sẽ đoán được nghĩa của từ đó, hoặc bằng cách nào đó ngộ ra chúng.”

“Chà, có lẽ tôi sẽ làm thế.” Và hẳn anh cũng chống mắt lên để xem liệu mình có khả năng tìm được vài từ cô thường dùng với anh không.

Cô hít một hơi thật lớn. “Wow, tôi cảm thấy tốt hơn rất nhiều rồi.”

Cô mỉm cười. Theodore phát hiện ra chính anh đang mong muốn được mỉm cười đáp trả lại cô.

“Hey, thứ này thật ngộ!” Cô thúc giày vào chiếc yên ngựa. “Rất nhiều lần trong đời tôi đã bỏ lỡ cơ hội được ngồi trên lưng ngựa. Sống trong thị trấn nên chúng tôi chẳng có con ngựa riêng nào, và bất cứ khi nào chúng tôi đi đâu xa, cha đều thuê một cỗ xe.”

Anh mỉm cười trong lúc tựa người nhìn cô, và lắng nghe cô.

Suy cho cùng thì cô thực sự là một đứa trẻ. Trên đời này làm gì có người phụ nữ nào lại ngồi như thế trên yên ngựa khi trò chuyện với đàn ông trong một xưởng ngựa, rồi trải lòng về bất cứ điều gì nảy ra trong tâm trí.

“Cô biết không, cô nhỏ. Thực nà... thực là không tốt chút nào cho cái yêng khi bị cô ngồi lên như thế, và lại còn không phải là trên lưng ngựa nữa.”

“Yên”, cô sửa.

“Yên”, anh lặp lại.

Cô nhìn xuống váy, sau đó lại nhìn lên anh, vẻ mặt chuyển dần sang sự tinh quái. “Ồ, thật sao?”

“Vậy anh sẽ không nói với tôi rằng lần tới tốt hơn hết là phải có một cái yên trong đây chứ?” Cùng câu nói đó, cô bước ra cửa, lắc hai ngón tay về phía anh. “Tạm biệt, Theodore. Nói chuyện với anh vui lắm!”

Cô bỏ lại anh sững sờ nhìn ra ngưỡng cửa trống nơi cô vừa rời đi mà không buồn bận tâm tới cơn mưa. Và trong cảm giác thiếu vắng hình bóng cô, anh thấy mình lại lần nữa tự hỏi, Lawrence là ai.