• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trọn đời bên em
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 29
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 29
  • Sau

Chương 6

LINNEA CHÌM TRONG GIẤC NGỦ phấn khích và thức giấc vào ngày đầu tiên tới trường.

Cô tỉnh dậy khi nghe thấy tiếng gà trống gáy chào buổi sáng. Bình minh hứa hẹn một ngày trong xanh qua những ô cửa sổ nhỏ ở phòng cô. Dưới lầu, Nissa đang gây ra những tiếng ồn ào trong bếp. Linnea thấy mình đầy sức sống khi ra khỏi giường, tươi tỉnh vì cuối cùng cô cũng thực sự được bắt đầu điều gì đó.

Cô hết sức để ý tới kiểu tóc búi, mặc chiếc váy mới màu xanh lá kèm sơ mi Black Watch, đóng cúc kín tận cổ, thắt lưng và kiễng chân để kiểm tra mình trong gương. Nhìn hình bóng phản chiếu, cô cảm thấy mình đã trưởng thành và tự tin hơn hẳn.

“Chà. Cảm ơn Lawrence. Em ước rằng mình có thể tự tin biết bao, nhưng anh thấy đấy, hôm nay là ngày khai giảng, và có đầy những đứa trẻ trước...” Cô đột nhiên nhìn xuống, buông tiếng cười thất vọng. “Ôi, anh thân mến, em đã quên khuấy mất đồng hồ rồi. Anh sẽ phải thứ lỗi cho em trong khi em đi lấy nó đấy nhé.”

Rồi cô bước đến tủ quần áo và lôi ra một mặt đồng hồ vàng xinh xắn. Đó là món quà tốt nghiệp của cha mẹ cô và là chiếc đồng hồ đầu tiên cô sở hữu. Cô đeo nó, sau đó đứng lại để chiêm ngưỡng mình trong gương với vẻ tự hào.

Đúng thế, giờ trông khá giống rồi. Cô Brandonberg, một giáo viên.

Cô mỉm cười và xuống lầu ăn bữa sáng. Những người còn lại đều đã có mặt, đàn ông ngồi bên bàn ăn trong khi Nissa không ngừng đi tới đi lui quanh bàn và bếp lò.

“Chào buổi sáng cả nhà! Mmmm... mùi thức ăn thơm quá, bác Nissa.” Giọng Linnea nghe cũng vui vẻ như tiếng gà trống báo thức, bước chân hoạt bát khi cô tiến tới chiếc ghế quen thuộc của mình.

John xoay người lại trên ghế, trao cho cô một cái nhìn lâu hơn bao giờ hết, đỏ mặt và líu lưỡi.

“John”, cô chào, khẽ nhún gối. “Kristian.” Cô quay sang cậu với một nụ cười cởi mở, nhận ra cậu đang mở to mắt nhìn mình.

“Chào...”, giọng cậu lắp bắp, rồi bắt đầu nhắc lại, “Chào buổi sáng, chị Brandonberg”.

“Theodore.” Cô tặng anh nụ cười tươi tắn nhất, nhưng anh hầu như không thèm liếc mắt trong lúc đang gắp đầy chiếc đĩa của mình.

“Chào buổi sáng”, anh lẩm bẩm.

Chà, mình vừa làm gì thế này? Cô tự hỏi. Có thể chẳng làm gì cả. Theodore có lẽ chỉ đang là chính anh, sáng sủa và tươi mới mà thôi.

“Có vẻ như chúng ta sẽ có một ngày khai giảng tốt đẹp”, cô líu lo.

Không ai nói một lời ngoại trừ Nissa, người tới để tham gia cùng họ và thêm vào, “Chắc chắn rồi. Mọi người đều đã có mặt, cùng cầu nguyện nào”.

Theodore lại một lần nữa cầu nguyện bằng tiếng Na Uy, và dù tiếp tục phá vỡ sự im lặng suốt bữa ăn vài lần, Linnea hiếm khi thành công. Cô khen ngợi Nissa về bữa sáng, sau đó nhắc đến bữa ăn trưa hôm trước. “Nếu tiếp tục ăn như thế này thì cháu sẽ sớm phát phì mất thôi. Bánh mì kẹp hôm thứ Bảy cũng rất ngon.” Cô tò mò nhìn lên. “Bác đã kẹp gì vào trong đó thế?”

“Lưỡi.”

Linnea cảm thấy dạ dày đảo lộn. “L... lưỡi ư?”

“Lưỡi bò”, Nissa nói rõ.

“Lưỡi b... b...” Cô không thể lặp lại từ đó một lần nữa. Cô nuốt xuống và cảm thấy hơi buồn nôn, trong khi bốn cặp mắt từ từ ngước lên nhìn.

“Cháu chưa từng ăn lưỡi trước đây sao?”, Nissa hỏi.

“Chưa... chưa ạ.”

“Ta tưởng cháu nói mình thích nó.”

“Cháu nghĩ là mình đã thích. Nhưng... lưỡi ư?”

“Cháu chưa từng nghe sao? Chiến tranh đang diễn ra. Chúng ta không muốn lãng phí bất kỳ phần nào của con bò, phải không các chàng trai?”

Cô có thể cảm nhận được những ánh mắt của họ đang đặt lên mình, đột nhiên thấy bản thân thật ngốc nghếch. Dù thế, cô vẫn phải hỏi, “Bác có thêm lưỡi bò vào bánh mì kẹp của cháu hôm nay không?”.

“Dĩ nhiên rồi. Đó là thứ thịt nguội duy nhất ta có. Tất nhiên, ta có thể tráng trứng thay vào nếu như cháu...”

“Ôi, không... không ạ”, Linnea buộc phải nhấn mạnh. “Cháu không muốn bác phải làm thêm việc gì nữa. Lưỡi... lưỡi cũng được ạ.”

Lần đầu tiên trong buổi sáng hôm đó, ánh mắt Theodore nán lại chỗ cô lâu hơn một cái chớp mắt. Nhưng chúng cũng lóe lên tia giễu cợt đầy thích thú khi anh cất lời, “Chờ đến lúc cô được thưởng thức món tim hầm của mẹ tôi đi!”.

Tiếng cười khùng khục vang lên khắp bàn trước khi những thành viên nhà Westgaard quay trở lại với việc ăn uống, nhưng Linnea cũng phát hiện ra làm cho những người này nói nhiều một chút trong bữa ăn là một việc vô cùng bất khả thi.

Cô đứng dậy và yếu ớt đề nghị, “Nếu mọi người thứ lỗi thì cháu phải chuẩn bị thêm một số thứ cho buổi dạy”. Cô ra hiệu về phía cầu thang, sau đó rời đi.

Nhưng không phải chỉ những chiếc bánh mì kẹp lưỡi bò mới là thứ làm cô nản lòng, mà khi cô kiểm tra đồng hồ, cô cũng phát hiện ra rằng chẳng còn nhiều thời gian để cô nán lại.

Nissa đang chờ để chào tạm biệt cô. Kristian chắc hẳn đang trong phòng thay quần áo, và hai người còn lại đã ra đồng. Ở ngưỡng cửa, Nissa nói, “Kristian nói ta đưa cho cháu cái này. Ta đã cho thêm pho mát vào bữa trưa của cháu để có mồi nhử lũ chuột rồi”.

Linnea nhìn xuống chiếc bẫy chuột, thận trọng nhận bằng hai ngón tay và đặt lên quyển sổ. “Kristian vẫn nhớ cơ ạ. Cháu sẽ cảm ơn thằng bé khi gặp nó.” Cô ngước lên nhìn và mỉm cười, hít một hơi thật sâu vài giây, rồi nói, “Thôi, cháu phải đi đây. Chúc cháu may mắn nào, bác Nissa”.

“Cháu sẽ không cần đến nó. Ta nghĩ thế. Chỉ cần cho chúng biết cháu là người đứng đầu và cháu sẽ làm tốt thôi.”

Linnea bắt đầu chuyến đi bộ dài hai mươi phút của mình trong tâm trạng háo hức và vui vẻ. Cô sải bước thật nhanh dọc theo con đường lạo xạo đầy sỏi. Hai bên đường, những bụi cỏ phủ đầy sương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Con diều hâu đuôi đỏ chao liệng lòng vòng tìm kiếm bữa sáng. Thế giới thật rực rỡ, yên ắng, âm thanh ban đêm như mờ đi trong ánh ban mai.

Cô đi ngang qua nơi ở của John, quan sát ngôi nhà đã ngả màu phía sau đám tuyết tùng. Đoạn đường giữa ngôi nhà và cối xay gió tắm trong sắc hồng tươi sáng và sắc trắng của những cây bìm bìm. Có phải John đã trồng chúng không nhỉ? Và buổi sáng cũng thật tươi đẹp đúng không? Cô cảm thấy người đàn ông nhút nhát, yên tĩnh này thật cô đơn. Rồi cô thấy một chú mèo khoang ngồi bên bậc thềm phía sau, rửa khuôn mặt lông trắng bằng bàn chân màu xám. Chẳng hiểu sao cô cảm thấy khá hơn nhiều.

John, cô nghĩ. Người đàn ông đáng mến và đơn giản.

Theodore. Cô cau mày. Người chẳng có bất cứ cá tính nào ngoài sự đơn giản, và chắc chắn không đáng mến chút nào. Tại sao hai anh em họ lại có thể khác nhau đến thế? Giá như tính tình của họ có thể đồng nhất một chút: John sở hữu một chút tính bạo gan của Theodore và Theodore có chút bẽn lẽn của John. Kỳ quặc thật, thứ gì lại có thể thay thế được sự thô kệch của Theodore chứ? Cô không thể ngăn mình cố hạ bệ anh. Vài lần, cô phát hiện ra thôi thúc muốn tỏ ra hài hước của anh, nhưng lúc nào anh cũng nhấn chìm nó. Có bao giờ anh thực sự vui vẻ, thoải mái không? Chắc chắn là anh đã từng như thế lúc trẻ hơn, khi anh có Melinda.

Anh cứ chờ đấy, Theodore, đồ xấu xa già nua.

Tôi sẽ làm anh phải cười.

Khi nghĩ tới lời hứa đó, cô cũng tới nơi. Cô ngừng lại ở lối vào để thưởng thức phong cảnh quanh ngôi trường, thầm hứa với bản thân sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc quý giá này.

Cô bước lên những bậc thềm lát đá hoa cương, chạm vào thành lan can mát lạnh rồi mở toang cánh cửa gỗ. Lớp học của cô...

Cô băng qua phòng để đồ, dừng lại giữa cánh cửa đôi, mọi thứ vẫn ở nguyên vị trí được cô sắp xếp hôm trước. Lá cờ cô đã treo bất động. Chiếc bếp lò sạch tinh chờ đợi ngọn lửa đầu tiên được thắp, các từ trên tấm bảng đen mong chờ được đọc lên. Còn cả chú chuột nhắt đang bò trên sàn nhà, ngay giữa phòng.

Cô bật cười thật lớn. “Chà, chào buổi sáng, nhóc.” Âm thanh khiến con vật vội vàng lách vào sau kệ sách. “Vậy đó là nơi em trốn đó hả?”, cô hỏi, quỳ một gối xuống để nhìn ra phía sau kệ. Rồi cô đứng dậy, phủi tay và nói to, “Chị sẽ lôi em ra sớm thôi, nhưng cho tới lúc chị xong việc thì đừng có thò mũi ra đấy, nghe rõ chứ?”.

Cô ngồi vào bàn, mở nắp chiếc hộp thiếc và tìm thấy miếng pho mát mà Nissa đã đặt vào trong. Nhưng sau khi đã đặt xong bẫy, cô nhìn kệ sách, rồi tới khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, cuối cùng lẩm bẩm, “Được rồi, chỉ thêm một ngày nữa thôi”. Cô liền tháo chiếc bẫy ra.

Tiếp đó, cô vội vã mở tất cả các cánh cửa rồi quan sát bàn làm việc của mình. Cô vẫn ngồi như thế cho tới khi ba khuôn mặt đầu tiên thập thò xuất hiện.

“Chào buổi sáng!” Linnea lập tức đứng lên, tiến về phía chúng.

Đó là những đứa trẻ nhà Lars và Evie. Mỗi đứa cầm một quyển sách và một hộp thiếc nhỏ, đang nhìn cô chằm chằm. Cậu nhóc có khuôn mặt tàn nhang, tóc rẽ ngôi, mặc chiếc quần màu xanh đậm với thắt lưng xám, mũi giày không có vết xước nào. Cô bé cao hơn cầm tay em gái đang cố trốn sau vai. Hai cô bé mặc trang phục giống nhau, bộ váy hoa bằng vải cotton dài đến cổ đôi giày màu nâu, thứ rõ ràng là mới tinh giống như giày của anh trai. Cô gái nhỏ hơn đeo thêm một chiếc yếm trắng hồ bột. Cả hai đều có mái tóc dài ngang vai, bóng mượt và được buộc túm lại phía sau bằng những sợi ruy băng màu vàng.

“Chào buổi sáng, cô Brandonberg”, hai đứa lớn hơn đồng thanh cất tiếng.

Tim Linnea đập thình thịch khi cô cố hết sức nhớ ra tên chúng, nhưng kết quả chỉ nhớ được duy nhất một đứa. “Em là Norna, phải không? Norna Westgaard.”

“Dạ. Còn đây là Skipp và Roseanne.”

“Chào em, Skipp!”

Cậu gật đầu và đỏ mặt trong khi Roseanne ngậm chặt ngón tay trong miệng, trông cô bé như thể sắp khóc đến nơi.

“Chào em, Roseanne!”

Norna dùng đầu gối huých nhẹ con bé, lần này cô nhỏ đáp lại bằng lời chào mà rõ ràng là đã phải tốn nhiều công sức để luyện tập. “Chào buổi sán’, cơ Brandonberg.”

Norna cúi xuống, lôi ngón tay em gái ra khỏi miệng và ra lệnh, “Nói lại nào”.

“Chào buổi sán’, cô Brandonberg.” Lần này lời chào rõ ràng hơn một chút, nhưng vẫn còn ngọng nghịu, dễ thương như lần đầu.

Trái tim Linnea lập tức mềm nhũn. Cô bước về phía trước, nhưng không quá gần vì sợ sẽ khiến Roseanne sợ hãi. “Chào Roseanne, cô nghe nói đây là lần đầu tiên em tới trường.”

Roseanne phùng má và gật đầu, ánh mắt vẫn không rời khỏi Linnea.

“Em có biết đây cũng là lần đầu tiên cô tới trường không? Các em là những học sinh đầu tiên của cô. Và cô sẽ cho các em biết một bí mật nếu các em hứa không kể lại cho ai.” Linnea cúi xuống tâm sự, “Cô cũng đã có chút lo lắng về việc được gặp các em”.

Roseanne bỏ ngón tay khỏi miệng rồi nhìn chằm chằm lên Norna, người đang cúi xuống mỉm cười trấn an nó.

Một hình bóng khác tiếp tục xuất hiện nơi ngưỡng cửa ngay sau đó. Là Frances Westgaard và cậu em trai nhỏ trong thị trấn.

Nhận ra chúng là những đứa trẻ nhà Ulmer và Helen, Linnea chờ gặp hai người anh lớn hơn của chúng xuất hiện. Nhưng khi chúng tiến vào, không có ai khác theo sau cả.

Sau khi lễ phép chào hỏi, lũ trẻ liền chạy về phía sân chơi và Linnea tiến về phía những bậc thềm để chào đón những học sinh đang tới. Nhưng nhiều phút nữa trôi qua, đứa lớn tuổi nhất xuất hiện chỉ có Allen Severt; nó ung dung tiến về phía sân chơi và trêu chọc các cô bé lớn tuổi hơn đang đẩy xích đu cho những đứa nhỏ.

Chín giờ sáng, vẫn còn thiếu bốn nam sinh lớn nhất, gồm cả Kristian! Cậu đang ở đâu mới được cơ chứ?

Đoạn cô tiến về hướng cậu bé có tên “Raymond Westgaard”, người đã biến mất cùng Kristian ngay khi được giới thiệu với cô hôm Chủ nhật. Và Lommen, cô gái xinh xắn với mái tóc nâu và làn mi dày tuyệt đẹp, nhưng người anh em song sinh của cô bé có thể ở đâu được nhỉ? Còn thiếu ai nữa? Ồ, đúng rồi, Linnea kiểm tra lại danh sách, Anton. Tony, Nissa gọi thằng bé như thế, và Linnea đã đánh dấu tên thằng bé ở bên lề. Tony Westgaard, mười bốn tuổi, cũng vắng mặt.

Linnea hít một hơi thật sâu. Chúng muốn thử cô sao? Cố tình đến trễ ngày đầu tiên chỉ để xem phản ứng của cô sẽ ra sao ư?

Cuối cùng, cô nhìn một lượt các học sinh đã có mặt, chọn người đáng tin cậy nhất để hỏi, “Norna, cô có thể nói chuyện với em một lúc được không?”. Cô gọi với về phía sân chơi.

Ngay lập tức, Norna chạy tới trước mặt cô. “Vâng, thưa cô?”

“Đã chín giờ mười mà vẫn còn thiếu bốn bạn nữa. Tất cả đều là nam sinh lớn nhất trong lớp. Em có biết liệu giờ này họ đang ở đâu không?”

Norna nhìn cô, chết lặng. “Ôi, cô không biết sao?”

“Biết... biết gì mới được?”

“Họ sẽ không tới đâu ạ!”

“Không tới ư?”, Linnea lặp lại đầy khó tin.

“Vâng, không ạ. Không, cho tới khi vụ mùa được thu hoạch xong xuôi.”

Linnea lặp lại với vẻ khó hiểu. “Vụ mùa? Ý em là hôm nay? Ai đó phải đi đập lúa hôm nay sao?”

“Không thưa cô. Không chỉ hôm nay, mà cho tới tận cuối vụ. Con trai trong nhà phải giúp đỡ gia đình việc thu hoạch.”

“Thu hoạch. Ý em là tất cả những cánh đồng ngoài kia?” Cô vẫy một bàn tay về phía những cánh đồng bất tận quanh sân trường. “Tất cả chỗ kia ư?”

Norna lo lắng liếc nhìn theo hướng bàn tay cô, sau đó trả lời, “Vâng, mọi người cần sự giúp đỡ của các anh ấy, không thì làm sao họ có thể thu hoạch hết lúa mì và đập chúng trước khi tuyết rơi cơ chứ?”.

“Trước khi tuyết rơi? Ý em là họ sẽ không cho mấy thằng bé đến trường trong suốt thời gian đó ư?”

“Chà... vâng, thưa cô”, con bé trả lời bằng vẻ mặt lo lắng.

Nhận ra mình đang khiến Norna khó chịu, Linnea giấu đi nỗi thất vọng và dịu dàng trở lại, “Cảm ơn em, Norna”.

Thế nhưng lúc này trong lòng cô đã nóng như lửa đốt khi nhìn về hướng Tây Bắc, nơi những cậu bé vẫn đang cắt lúa mì vào giờ này hôm trước. Chẳng có bất kỳ bóng dáng nào xuất hiện trong tầm mắt. Và khi cô bước vào phòng học, rung chuông thật mạnh, sợi dây chuông đã bất ngờ nhấc bổng cô lên.

Thật là một khởi đầu tồi tệ cho ngày khai giảng, khi mà cô đã hình dung ra những điều lý tưởng đến thế. Họ đã làm việc này năm này qua năm khác sao? Họ cướp đi khoảng thời gian đến trường quý báu của những nam sinh lớn nhất để bắt chúng thu hoạch lúa mì ư? Chà, tốt hơn là họ nên suy nghĩ lại điều đó, vì năm nay cô giáo Brandonberg đã ở đây và mọi thứ sẽ phải khác biệt một chút!

Cô phân chỗ ngồi cho lũ trẻ, tự tay vẽ một sơ đồ họ tên cho mình, sau đó yêu cầu những đứa biết đọc đứng lên để đọc lời tuyên thệ trung thành và bắt đầu buổi dạy. Chúng luân phiên nhau đứng lên, dõng dạc đọc tên, tuổi lẫn chương học của mỗi môn chúng đã hoàn thành trong kỳ trước. Đa số sách vở mà lũ trẻ được học đều không có ranh giới phân loại trình độ.

Trong nỗ lực làm quen với các học sinh, cô phân công những đứa lớn viết một bài luận ngắn về bất cứ thành viên nào trong gia đình chúng. Những đứa lớn vừa được giao cho việc viết một danh sách mười từ chúng cho là tốt nhất diễn tả về gia đình, và những đứa nhỏ được yêu cầu vẽ những bức tranh về gia đình chúng. Trong khi đó, cô tập trung vào “học sinh lớp Một”, những người em họ của Roseanne và Sonny Westgaard, dạy chúng bảng chữ cái bằng những tấm bìa cô đã chuẩn bị sẵn.

Thật vô cùng khó khăn, Linnea phát hiện ra, khi phải một lúc dạy số học sinh ở bảy lớp khác nhau. Cô bận luôn chân luôn tay.

Cô rất biết ơn khoảng thời gian nghỉ giải lao giữa giờ buổi sáng và giờ nghỉ ăn trưa, dù cô không thể ép bản thân nuốt xuống chiếc bánh mì kẹp lưỡi bò. Cô kết thúc bữa ăn bằng cách vứt đi phần lớn chúng để rồi phải dành cả buổi chiều cho cái dạ dày kêu ụng ục.

Vì đa số thời gian bọn trẻ đều làm việc độc lập, nên chẳng khó khăn gì để cô nhận ra ai chăm chú làm bài tập, ai không, người nào nhanh và người nào chậm.

Allen Severt là đứa tệ nhất trong số những học sinh của cô. Tác phẩm viết tay của nó quá cẩu thả, thái độ đối xử với những đứa trẻ khác rất thô lỗ và thiếu tôn trọng. Trong suốt bữa trưa, nó chuồn đi nơi khác và dìm chết những con chuột chũi. Nơi này có rất nhiều chuột chũi, vì thế đuổi bắt chúng là hoạt động buổi trưa yêu thích của lũ con trai. Allen kín đáo đặt đuôi con chuột lên vai Frances Westgaard khiến con bé thét lớn; cả lớp học nhốn nháo khi con bé liên tục nhảy chồm chồm và gạt thứ đó xuống sàn nhà.

“Allen!”, Linnea ra lệnh, “Em sẽ phải xin lỗi Frances ngay lập tức, sau đó vứt thứ xấu xa này ra khỏi lớp ngay!”.

Nó thờ ơ ngồi tại chỗ và hỏi, “Tại sao? Em có mang vào đây đâu”.

“Không phải em là người duy nhất đi bắt chuột chũi trưa nay sao?”

Thay vì trả lời, thằng bé chỉ nhếch một nụ cười hoài nghi trên môi, chậm rãi nhấc người đứng lên. Nó cúi người xuống và đá cái đuôi chuột chũi khỏi sàn nhà.

“Cô thích nói gì mà chả được, thưa cô giáo”, thằng bé dài giọng.

Cái cách Allen phát âm từ cô giáo giống như một cái tát vào mặt cô. Linnea phải cố kìm nén để không cho nó một cái tát mà nó đáng phải nhận. Ánh mắt hai người giao nhau, ánh mắt chiến thắng lười biếng của nó và ánh mắt nảy lửa của cô, sau đó Allen móc ngón cái vào túi quần sau, xoay người bỏ đi.

“Em phải xin lỗi trước đã!”, cô ra lệnh.

Nó dừng lại, hầu như không rời mắt khỏi Linnea. “Xin lỗi sao, cái đồ ngớ ngẩn đó”, nó càu nhàu.

“Ra ngoài!”, Linnea quát.

Nó lê bước ra cửa mà không hề biết xấu hổ là gì, cố tình kéo lê giày trên mặt sàn.

May mắn là sự việc đó xảy ra vào gần cuối ngày. Cô cố không thể hiện ra ngoài cơn tức giận khi Allen trở lại, ngồi vào chỗ với thái độ buồn chán như cũ. Chỉ còn nửa tiếng trước khi chuông tan học vang lên, cô ngồi tại bàn, lướt qua những tờ giấy kiểm tra. Allen, người thuộc nhóm học sinh lớn nhất được phân công viết luận, đã thay vào đó một danh sách những cụm từ thể hiện rõ thái độ chống đối:

Buồn chán

Ngu ngốc

Những buổi cầu kinh

Rắc rối (Em gái)

U ám

Phiền chết đi

Trước sự ngạc nhiên của Linnea, nó đã thêm vào hai từ hoàn toàn không thích hợp với những từ còn lại.

Bánh quy chocolate

Cô ngước lên khỏi tờ giấy, phát hiện ra Allen đang nằm ườn trên bàn, tựa cằm vào cánh tay đang khoanh lại và nhìn cô chằm chằm. Đáng lẽ nó phải đang đọc, nhưng tay nó lại che mất cuốn sách để mở.

Bánh quy chocolate. Bánh quy chocolate của mẹ nó làm chăng? Nhận ra mình đang tự quấy rầy bản thân một cách quá đà để cố đoán ra điều đó, cô úp tờ giấy xuống và tiếp tục đọc tờ tiếp theo. Cô vẫn có cảm giác ánh mắt Allen dán chặt lên đỉnh đầu mình cho tới khi không thể chịu đựng thêm nữa, cô lại kiểm tra đồng hồ.

Khi lôi nó ra và bật mở nắp, cô cảm thấy một ánh mắt soi mói đầy thất vọng hướng về mình. Cô nhìn lên, tiếp tục thấy ánh mắt Allen dán lên ngực mình. Một cơn rùng mình rợn tóc gáy chạy dọc sống lưng, cô thấy mình đang đỏ bừng mặt, nhưng thằng bé lại chuyển ánh mắt vô thức nhìn ra cửa sổ.

Đừng có ngốc. Nó mới chỉ mười năm tuổi thôi, lạy Chúa.

Cô bí mật quan sát Allen thêm một phút nữa. Nó lênh khênh và gầy gò, nhưng cao lớn với bờ vai rộng một cách không cân xứng. Nó không cơ bắp như Kristian, nhưng nó cũng chẳng phải làm những công việc vất vả như các cậu con trai nhà nông khác. Lông mày của nó trông quá dày, như thể một ngày nào đó rất có thể sẽ dài cả xuống sống mũi. Nhưng khi cân nhắc liệu trông Allen sẽ thế nào khi trưởng thành, cô lại rùng mình một lần nữa, và nhanh chóng cụp mắt xuống đúng lúc nó bắt đầu quay đầu lại phía cô.

“Các em, đã tới giờ tan học. Chúng ta sẽ ra về theo lớp, Jeannette, Bent, và Skipp, các em có thể đi trước.”

Khi căn phòng đã ngăn nắp trở lại, cô chúc bọn trẻ một buổi chiều tốt lành và đi về phía buồng ngoài để rung chuông. Ngay lúc đó, Allen bước tới. Cô lập tức thả dây chuông ra, tự tin đối mặt với nó.

“Tạm biệt, Allen. Cô và em hãy cùng thử xem ngày mai có tốt đẹp hơn không.”

Nó trao cho cô một cái nhìn giận dữ, sau đó ung dung bước qua mặt cô mà chẳng thèm nói một lời. Điều đó khiến tính khí của cô khi gặp Theodore được cải thiện ít nhiều.

Theodore, cũng gặp rắc rối lớn khi anh dùng phần lớn thời gian làm đồng để nghĩ về Brandonberg. Đó là một mối nguy hiểm.

Anh đã dành ra bao nhiêu giờ trong cuộc đời mình để ngồi sau lưng những con ngựa mệt mỏi và suy nghĩ? Còn gì khác để mà làm khi cưỡi ngựa khắp nơi, nhìn cái mông căng bóng của chúng đổ mồ hôi lấp lánh dưới ánh mặt trời, cái đầu to lớn gật gù lên xuống?

Năm tháng trôi qua, chỉ có một viễn cảnh mãi không hề thay đổi: Những con ngựa, mùa màng và chân trời. Anh chủ yếu chỉ giao tiếp với những con vật, lâu đến mức đã hoàn toàn quên mất cách giao tiếp giữa con người với con người. Chà, anh vẫn còn Nissa và John, thậm chí là Kristian. Nhưng họ, cũng giống anh, đều kín kẽ và riêng tư, họ ở nhà và tự bầu bạn với chính mình.

Nhưng cô nhỏ đó lại rất khác biệt. Cô lúc nào cũng líu lo. Người bạn đời của cô tốt hơn là nên sẵn sàng để chịu đựng cả tá hỗn hào. Làm sao cô lại có thể chọc tức anh đến thế? Lại có thể khiến anh cứng lưỡi chẳng nói được gì? Khiến anh nghĩ tới thứ ngu ngốc như những cây kế Nga nở hoa và ý nghĩa của các từ ngữ bóng bẩy?

Anh mỉm cười, tưởng tượng cô sẽ ngạc nhiên thế nào khi Kristian không tới trường. Chà, cứ để cô càu nhàu đi. Kristian đã thực sự đứng ngồi không yên, liên tục nhìn về phía trường mỗi khi lên tới đỉnh một ngọn đồi. Theodore không hề mù: Một thằng ngốc cũng có thể nhìn ra rằng thằng bé đã si mê cô giáo nhỏ của nó, và sẵn sàng hạ dây cương để chạy đi thực hành ba kỹ năng cơ bản Đọc, Viết lẫn Số học ngay lập tức. Thứ tình yêu bọ xít. Khóe miệng Theodore nhếch lên thành nụ cười, nhưng một lúc sau, nó nhạt dần khi anh nhớ lại mình chẳng lớn hơn Kristian là bao khi anh thực hiện chuyến đi định mệnh tới thành phố, nơi anh gặp Melinda.

Melinda.

Từ khoảnh khắc thấy cô ấy đứng trên khoang tàu trong bộ trang phục màu vàng nhạt, mái tóc đen buộc túm đáng yêu, cùng đôi mắt xanh lục dễ gần, anh đã chẳng thể nào rời mắt khỏi cô.

Anh đảo tay không ngừng nghỉ, chuyển dây cương từ tay nọ sang tay kia. Điều gì khiến anh lại nghĩ về Melinda thế này? Melinda thuộc về quá khứ, càng ít nghĩ đến cô ấy càng tốt. Anh đã học được điều này từ nhiều năm về trước.

Theodore ngồi chắc trên chiếc yên sắt, hướng mắt nhìn về phía mặt trời, cho ngựa đi về hướng tây. Đã đến giờ vắt sữa. Anh vặn người, xoay cổ, xoa bóp gáy, nghĩ tới cảm giác tốt đẹp thế nào khi chân chạm đất, thoát khỏi cái giàn cắt và duỗi thẳng chân. Anh lôi chiếc đồng hồ lớn bằng bạc cũ kỹ từ chiếc túi trên yếm quần ra, kiểm tra thời gian rồi cất lại. À, chắc mẹ đã chuẩn bị xong bánh mì kẹp và cà phê nóng rồi. Anh ra hiệu cho những người khác, kéo các cỗ máy cắt lên bờ, và thả ngựa khỏi lưỡi cày. Khi cưỡi ngựa về phía chiếc cối xay gió quen thuộc để thưởng thức một bữa ăn xứng đáng, anh tự hỏi liệu cô gái nhỏ có về nhà trước mình hay không.

Linnea đang chờ đợi để tấn công anh, đứng chống nạnh trước chiếc máy cẩu lúc Theodore và Kristian tản bộ vào sân, theo sau là lũ ngựa.

Dưới vành mũ rơm, Theodore nhìn cô, nhưng không để cô nhận ra. Thay vào đó, anh chỉ hô lớn, “Chậm lại nào, các cô nàng”. Anh cố ý hướng Cub và Toots đang khịt mũi ở khoảng cách rất gần đầu cô sang chỗ máng nước, lờ tịt đi sự thật cô gần như đang đứng chắn ngang đường.

“Ngài Westgaard!”, cô lên tiếng, hướng ánh nhìn chằm chằm lên đôi vai rộng khi anh vượt qua cô mà chẳng nói nửa lời.

Anh đã tới đủ gần để thấy tia lửa đang cháy bùng trong đôi mắt xanh biếc.

“Cô giáo Brandonberg?”, anh đáp lời, cố tình tỏ ra lạnh lùng khi cô theo sau anh, bàn tay nắm chặt lại và hùng hổ bước.

“Tôi muốn nói chuyện với anh!”

“Cô cứ nói.”

“Con trai anh hôm nay không tới trường!”

Theodore thờ ơ buông dây cương, cúi xuống nới lỏng dây đai an toàn nơi yên ngựa. “Dĩ nhiên là không rồi. Nó ở ngoài đồng với tôi.”

“Thằng bé... Chúa ơi... làm gì ở đó chứ!”

“Làm những gì mà bọn con trai có cơ thể bình thường quanh đây đều làm. Là giúp đỡ gia đình thu hoạch.”

“Theo mệnh lệnh của anh sao?”

Theodore đứng thẳng người ngay khi Kristian xuất hiện cùng con ngựa của mình, nhưng cậu đã nhanh chóng ngậm miệng.

“Chẳng có mệnh nệnh nào ở đây cả. Những thằng con trai đều biết gia đình cần chúng và đó là tất cả những gì quan trọng nhất ở đây.”

“Chẳng có mệnh lệnh nào!” Cô phát cáu. “Chỉ cần lắng nghe những gì anh mở miệng nói thôi!” Cô chỉ tay vào ngực Theodore. “Phát âm của anh thật kinh khủng, vậy mà anh lại muốn thằng bé lớn lên cùng với cách nói chuyện như của anh sao? Chà, đó chính xác là những gì Kristian sẽ làm nếu anh không để thằng bé tới trường!”

Theodore đỏ mặt, miệng mím lại thành một đường mỏng. Cô ta nghĩ mình đang nói chuyện với ai cơ chứ? “Cách thằng bé nói chuyện thì có vấn đề gì so với việc nó biết cách điều hành một trang trại? Đó chính là điều nó sẽ nàm trong suốt cuộc đời.”

“Phải vậy không? Và thằng bé phải nói gì về điều này bây giờ?” Đôi mắt giận dữ của cô khóa chặt lấy Kristian, sau đó trở lại phía cha cậu. “Hay là thằng bé có điều gì muốn nói chăng?”

Đột nhiên cô quay sang và đối mặt với Kristian. “Em nói xem, Kristian? Đó có phải là kế hoạch mà em muốn làm với cuộc đời mình hay không?”

Cậu giật mình, nhưng chỉ im lặng.

“Thấy chưa?”, cô tiếp tục. “Anh đã tẩy não thằng bé đến nỗi nó còn chẳng buồn nghĩ cho chính mình nữa!”

“Cô nhỏ, tốt hơn cô...”

“Gọi tôi là cô giáo Brandonberg khi anh đang nói chuyện với tôi với tư cách tôi là cô giáo của con trai anh!”

Theodore nhìn cô chằm chằm, ưỡn thẳng vai, và bắt đầu lại, “Cô giáo Brandonberg...”. Anh tạm dừng việc chế giễu trước khi tiếp tục, “Có vài điều mà tốt hơn hết cô cần phải tiếp thu. Quanh vùng này, chúng tôi sống nhờ vào mùa màng, không phải bằng những lịch trình được hiệu trưởng trường quy định. Chúng tôi có lúa mì chờ được thu hoạch, và khi chúng được đập xong xuôi rồi cất vào kho, cũng vẫn còn đủ thời gian cho những chàng trai của chúng tôi tới trường”.

Anh chỉ tay về phía chân trời. “Chúng tôi không mày mò trong một cái vườn già cỗi không người giúp việc, cô biết chưa? Những gì mà cô đang nhìn chính là đồng lúa được đo bằng từng hecta, không phải mẫu Anh. Cô nghĩ thằng bé có thể sử dụng mấy thứ từ ngữ bóng bẩy đó vào lúc quái nào khi mà vùng đất này thuộc về nó? Những con ngựa của nó bằng cách này hay cách khác vẫn sẽ phải được chăm sóc kể cả khi thằng bé có phát âm đúng hay không.”

Anh chỉ ngón tay cái qua vai về phía những con ngựa đang uống nước. “Những gì chúng quan tâm là được cho ăn và cho uống, được sử dụng hợp lý khi chúng tôi muốn chúng làm việc. Bò, ngựa, lợn, và lúa mì! Đó là những gì quan trọng nhất quanh đây, và cô tốt nhất nên nhớ kỹ điều đó trước khi bắt đầu giảng dạy về văn hóa.”

Cô đứng thẳng người, vung tay ngạo mạn. “Vậy tôi được thuê để làm gì? Nếu đó là tất cả những điều quan trọng nhất, vậy thì anh đi mà dạy thằng bé! Tôi nghĩ công việc của mình là khai thông cho lũ trẻ, để chúng có thể chuẩn bị cho thế giới bên ngoài Alamo, Bắc Dakota”, cô kết thúc bằng một lưu ý đầy chê bai.

Nếu như việc biết chữ đúng như những gì anh nghĩ, thì con người nhỏ bé này đã lại một lần nữa hạ bệ anh. Anh đã lãnh đủ những thứ mà một gã đàn ông trong đời nhận từ một con bé còn thò lò mũi xanh và nhỏ hơn anh những mười sáu tuổi rồi!

“Alamo, Bắc Dakota, là thế giới của nó, và sẽ luôn như thế, vì thế hãy mừng vì cô có thể dạy dỗ ở nơi này tới tận sáu tháng trong năm thay vì không một tháng nào cả.” Anh quay người bỏ đi, nhưng cô bám riết theo và nói, “Vậy anh định không cho thằng bé đến trường trong mùa xuân tới sao?”.

Thay vì trả lời, Theodore chỉ hướng về phía nhà kho. Cô tức giận chạy theo sau và tóm lấy tay anh. “Anh dám quay lưng về phía tôi sao, anh... anh... đồ xấu tính...” Cô tìm một tính từ đủ gay gắt dành cho anh, và cuối cùng thốt ra, “Bất cần đạo lý!”.

Theodore không biết “Bất cần đạo lý” nghĩa là gì, và sự thật này còn khiến anh nổi điên hơn nữa. “Coi chừng cái miệng của cô, đồ nhóc.” Anh giật tay khỏi cô.

“Trả lời tôi đã!”, cô hét lên. “Anh định bắt thằng bé nghỉ học để giúp anh trồng trọt hay sao?”

Hàm Theodore bắt đầu cứng lại. “Sáu tháng cho tôi, sáu tháng cho cô. Như thế nà công bằng nắm rồi, không phải sao?”

“Đối với cái thứ thông tin hạn hẹp của anh thì trên đời này không có từ nào là ‘nà’ cả, và chúng ta đang không nói tới chuyện công bằng giữa tôi và anh, mà là công bằng cho con trai anh. Anh muốn thằng bé lớn lên mà không biết đọc viết cho tử tế sao?”

“Nó biết đủ để nhận được bằng cấp rồi.”

“Nhận bằng cấp ư!” Nỗi thất vọng che mờ lòng khoan dung, cô đưa tay lên xoa thái dương. “Lạy Chúa, tại sao anh lại có thể ngu ngốc đến thế!”

Cơn giận của Theodore ngày càng nghiêm trọng, mặt anh đỏ gay. “Nếu như tôi khôn’ đủ thông minh để phù hợp với cô thì cô có thể tìm ai đó khác cho mình một mái nhà. Tôi đảm bảo cái khu hành chính học đườn’ đó đếch trả đủ cho tôi để bù đắp cho đống thức ăn mà cô cho vào miệng đâu, cả tiền sưởi ấm tầng trên nữa.”

Nói rồi anh quay gót bước đi. Lần này cô để anh đi. Khi anh đã biến mất vào trong kho thóc cô mới nhận ra Kristian, người đang đứng cạnh những con ngựa mà quên chưa bỏ cương, trông thực khó xử.

Đột nhiên những gì cô đã làm giáng mạnh một cú vào nhận thức của cô.

“Kristian, chị xin lỗi. Chị không có ý để em phải chứng kiến cảnh này. Chị... chị chỉ quá mất bình tĩnh nên mới nói thế với cha em. Hãy thứ lỗi cho chị.”

Kristian không biết phải nhìn đi đâu. Cậu nhìn chằm chằm vào dây cương, rồi ra sau Linnea, sau đó tới những chiếc tàu kéo. “Khôn’ sao”, cậu lẩm bẩm, lơ đãng đặt tay lên cổ con ngựa.

“Không sao.” Cô vô tình sửa lời cậu, sau đó thêm vào, “Có sao đấy. Chị không có quyền được mất bình tĩnh như thế, cũng không có quyền nói cha em ngu ngốc”. Cô hướng ánh mắt chăm chú về phía nhà kho, ép chặt tay vào đùi. “Nhưng chị chỉ không biết làm cách nào để cha em nhận ra tầm quan trọng của việc học hành khi mà tất cả những gì anh ta có thể thấy chỉ là mình đã làm mọi việc rất tốt mà không cần tới trường.”

“Cha nói đúng, chị biết đấy.” Kristian nhìn lên, bắt gặp ánh mắt cô. “Em sẽ khôn’ đi đâu cả. Đây là lơi mà có lẽ em sẽ sống cả đời. Và dù sao thì em cũng yêu cái trang trại lày.”

Lần này cô chẳng buồn sửa từ ngữ cho cậu nữa. Vô cùng thất vọng, cô dõi theo bóng cậu đi về hướng nhà kho, từ phía xa vọng lại tiếng Theodore gọi lớn, “Tới đây nào, các ngài...”, và anh dồn những con bò vào khu vực vắt sữa.