• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trọn đời bên em
  3. Trang 25

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 29
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 29
  • Sau

Chương 22

Mùa xuân tới bên đồng cỏ như cô gái trẻ chuẩn bị cho buổi vũ hội đầu tiên trong đời mình. Lũ ngựa đã trở về vào buổi chiều muộn ở một đồng cỏ thấp. Chúng hí vang, mong muốn được chạy vào trong, để được cày xới đất đai một lần nữa. Tất cả đều ở đó - Clippa, Fly, Chief, và những đứa con - cặp đôi Nellly và Lady.

Mọi người chạy xuống chào đón chúng, Linnea quan sát cuộc hội ngộ bằng cảm giác ngưỡng mộ mới mẻ dành cho người nông dân và những con ngựa. Teddy và Kristian gãi lên cái trán rộng của lũ ngựa, đi vòng quanh, vỗ vào lưng và kiểm tra móng của chúng. Linnea nhìn Teddy chà một bàn tay to lớn bên dưới bụng Lady, cất giọng, “Tao cũng đã có gia đình, còn thằng bé cũng đã sắp trở thành một người đàn ông rồi”.

Theodore sẽ nói gì khi Linnea nói với anh mình đã chậm một kỳ kinh. Họ chưa từng nói với nhau về trẻ con lần nào, nhưng nếu như điều này là sự thật, và cô đang mong chờ nó biết bao, thì chắc chắn anh sẽ vui mừng khôn xiết, cũng hệt như cô.

Tháng Tư tới, công việc cày cấy lại bắt đầu, nhưng những cậu trai lớn vẫn có mặt điểm danh ở trường mỗi ngày. Linnea không chắc đó có phải vì hiện tại cô giáo là vợ của Teddy Westgaard, hay là do anh và Kristian vẫn chưa chịu nói chuyện lại với nhau.

Tuần thứ tư của tháng Tư, Theodore bước sang tuổi ba mươi lăm. Anh và Linnea chuẩn bị đi ngủ thì cô trượt vào vòng tay anh và hôn lên cằm anh. “Anh có chút khó chịu hôm nay sao? Có gì không ổn ư?”

Anh đặt tay lên vai cô và nhìn vào đôi mắt tò mò của cô. “Vào ngày anh già thêm một tuổi ư? Em có cần phải hỏi không?”

“Em có quà sinh nhật cho anh, em nghĩ anh sẽ vui lên một chút.”

Anh mỉm cười, nắm lấy hai tai cô, trêu chọc cô bằng cách lúc lắc đầu cô. “Em đã làm anh vui rồi. Chỉ cần có em bên anh hằng đêm là đủ. Anh đâu còn muốn quà cáp nữa.”

“Ồ, nhưng mà món quà này đặc biệt lắm.”

“Em cũng thế”, anh dịu dàng nói, thả tai cô ra và hôn cô. Khi nụ hôn kết thúc, cô nhìn vào đôi mắt màu nâu đất của anh, áp bụng thật sát vào bụng anh.

“Chúng ta sắp có con rồi, Teddy.”

Cô cảm thấy sự thay đổi ngay lập tức khi anh cứng người lại, thẳng lưng. “C...”

Cô gật đầu. “Em nghĩ được hai tháng rồi.”

“Con ư!” Sự ngạc nhiên của anh chuyển thành vẻ không hài lòng, anh đẩy người ra. “Em có chắc không?”

Tim cô như chùng xuống. “Em nghĩ anh sẽ vui cơ.”

“Vui sao? Anh đã nói với em trước đây rằng anh không muốn có thêm đứa con nào nữa! Anh quá già rồi!”

“Ôi, Teddy, anh không già. Đó chỉ là ý niệm trong đầu anh thôi.”

“Đừng nói với anh rằng anh không già! Anh già đủ để có một thằng con chuẩn bị ra đi và bị giết trong chiến tranh, còn em thì lại mong anh phải vui vẻ có thêm đứa nữa rồi tiếp tục trải nghiệm nỗi đau sao?”

Cô đau đớn tới mức không biết mình phải nói gì. Nỗi thất vọng khiến nước mắt bắt đầu giàn giụa. Cô đờ người, tự hỏi mình phải đối diện với cơn uất ức này như thế nào, làm sao để nó không lớn dần cùng thai nhi đang phát triển từng ngày. Mọi phấn khích mà cô cảm thấy đều tan biến, chỉ bỏ lại cho cô đớn đau.

“Thêm vào đó”, anh tiếp tục càu nhàu, “Em và anh hầu như không có thời gian ở riêng bên nhau. Ba tháng, còn chưa tới ba tháng mà em đã có thai rồi”. Quay người về hướng khác, anh khẽ chửi thề, gập người lại bên mép giường và ôm lấy đầu.

Nỗi đau của cô như bị chọc thêm nhiều vết. Cô ấn tay vào bụng. “Teddy, em đang mang đứa con của anh. Làm sao anh có thể không muốn nó cơ chứ?”

Anh nhảy dựng dậy, nổi điên. “Anh không biết. Thế thôi. Anh muốn mọi thứ tiếp tục như nó đã từng. Anh, em và Kristian quay trở lại đồng cỏ, không nói thêm một lời nào nữa về chiến tranh và... và... ôi, quỷ tha ma bắt hết những thứ này đi!”, anh kêu lên rồi rời khỏi phòng.

Cô bị bỏ lại, trừng trừng nhìn về phía cửa, ấn tay lên bụng và tự hỏi bằng cách nào một người yêu cô nhiều đến thế lại cũng có thể vẫn khiến cô tổn thương sâu sắc như vậy.

Cô mặc áo ngủ, leo lên giường, nằm cứng đơ như một khúc gỗ, nhìn chằm chằm lên trần nhà. Cô suy nghĩ. Buồn bã. Chờ đợi. Thật kỳ lạ làm sao khi nước mắt dường như không đồng hành cùng những đau thương lớn nhất trong đời. Mắt cô ráo hoảnh, buồn bã cầu nguyện khi trở lại, anh sẽ ôm cô vào lòng và nói xin lỗi, rằng anh đã thật vô lý và rất mong chờ đứa con của họ.

Nhưng anh không làm thế. Thay vào đó, anh tắt đèn, cởi quần áo trong bóng tối, trườn vào cạnh cô và quay lưng vào cô. Cô cảm thấy những lời quở trách của anh cũng đau đớn chẳng kém gì việc anh đánh cô.

Ngày hôm sau, cô tự tới trường một mình. Họ không nói với nhau một lời trong suốt bữa sáng, và việc cô bước chân ra đường giống như sự giải thoát khỏi căng thẳng.

Hôm đó là gần ngày Quốc tế Lao động; cô và lũ trẻ dành thời gian để vệ sinh sạch sẽ trường và phòng học. Đó là một ngày nắng đẹp, ấm áp tới mức một vài đứa đã cởi giày và tất để đi chân trần. Lúc công việc quét sân hoàn thành, chúng cùng nhau xuống lạch và chọn những cây non, đào lên để trồng ở sân trường.

Chúng dồn rác thành một đống và đốt. Linnea đang đứng nhìn ngọn lửa thì thấy Theodore cùng John đi ngang qua. Tim cô nhói lên.

John vẫy tay gọi. “Xin chào!”

“Xin chào!” Cô vẫy tay chào lại. “Các anh đi đâu thế?”

“Tới thị trấn.”

“Để làm gì?”

“Mua vật tư.”

“Chúc vui vẻ!”

Cô vẫy tay nồng nhiệt chào họ. John vẫy tay mỉm cười chào cô. Theodore chỉ lười biếng giơ một tay tạm biệt, cô nhìn theo bóng họ khuất dưới đường.

Họ kết thúc công việc ngoài sân và xuống đồi ăn cơm trưa. Roseanne và Jeannette vừa nắm tay nhau vừa ca vang bài Merrily in the Month of May. Allen Severt tìm được một con rắn nhỏ và dùng nó để trêu chọc lũ con gái.

Patrica sánh bước bên Kristian, cánh tay khẽ chạm nhau. Họ tìm được một bãi đất trống ngập nắng và thả người xuống cỏ để thưởng thức bữa trưa nhàn nhã của mình. Vài đứa trẻ thử lội xuống lạch nhưng nước vẫn lạnh như băng.

Cuối cùng, Linnea kiểm tra đồng hồ, quyết định đã đến giờ tìm cây và mang chúng về trồng ở trường. Họ thay phiên nhau khiêng cây qua những cánh đồng lúa mì thẳng tắp, không khí lạnh vẫn luồn lách trên đồng bằng, một đàn chim đen khổng lồ bay lượn trên đầu họ. Lũ nhỏ rùng mình, Roseanne nhấc váy lên, dùng nó như một chiếc áo choàng cho lũ nhỏ.

Hướng về phía Linnea, Libby bỗng dừng chân, chỉ về hướng tây và nói, “Cái gì kia?”. Tất cả nhất loạt dừng lại và chăm chú nhìn theo hướng chỉ. Một khối màu trắng đang nhanh chóng di chuyển về hướng họ.

“Em không biết”, một giọng nói kinh ngạc vang lên. “Cô Westgaard, đó là cái gì?”

Châu chấu ư? Linnea cứng người lại cảnh giác. Cô từng nghe về quân đoàn châu chấu có thể tàn phá mọi thứ chúng đi qua. Nhưng thời gian này vẫn còn quá sớm để châu chấu xuất hiện. Bụi ư? Bụi cũng có thể đột ngột làm tối đen bầu trời ngoài kia, nhưng bụi màu nâu, không phải trắng. Họ đều sững người trong kinh ngạc, chờ đợi khi bức tường màu trắng tiến tới gần hơn. Giây phút nó đâm sầm vào họ, ai đó đã nói, “Tuyết...”.

Tuyết sao? Linnea chưa từng nhìn thấy tuyết như thế này. Nó lập tức nhốt họ trong một khoảng trống không màu, kèm theo là cơn gió độc ác.

Hai đứa nhóc gào lên, bất ngờ biến mất khỏi tầm mắt của mọi người. Linnea vấp vào một cơ thể ấm áp và ngay lập tức gỡ nó khỏi chân, kêu lên một tiếng báo động. Lạy Chúa, tầm nhìn của cô không xa quá được một mét! Cô tìm kiếm tay đứa nhỏ.

“Các em, nắm chặt lấy tay nhau! Nhanh lên! Đây, Tony, nắm lấy tay cô.” Cô ra lệnh cho thằng nhóc đứng sau mình. “Mọi người hãy quay về hướng giọng nói của cô và giữ tay người tiếp theo. Chúng ta cùng nhau chạy!” Cô bình tĩnh sắp xếp trước khi họ cùng nhau di chuyển. “Roseanne, em có ở đó không? Sonny? Bent?”, cô gọi toàn bộ mười bốn cái tên.

Mọi người đều đồng thanh hô có mặt, họ đi dọc theo hàng lúa mì, lũ trẻ nhỏ bắt đầu khóc lóc. Chỉ sau vài phút, họ không còn hàng lúa mì nào để men theo nữa, cô thầm cầu nguyện họ đi đúng đường. Mọi suy nghĩ đều biến mất trong cơn lốc trắng, nhưng mọi người vẫn bám chắc lấy nhau trên con đường gập ghềnh, trong nỗi khiếp sợ và chiến đấu bằng mọi cách để vượt qua được nó. Đây không phải cơn bão tuyết thông thường chan hòa cuối mùa xuân sẽ biến mất ngay lập tức. Nó là cơn bão tuyết đáng sợ giữa mùa đông.

Họ không biết mình đã tới gần sân trường hay chưa cho tới khi Norna chạy vội vào một trong những rừng gỗ gòn chắn gió. Con bé va mạnh vào gốc cây, ngồi xuống, gào thét.

“Thôi nào, Norna.” Raymond là người đỡ con bé dậy và cõng nó, trong khi đó, Linnea, Kristian và Patrica cùng Paul đẩy những đứa còn lại lên sân trong tình trạng không nhìn rõ đường. Thật khó tin làm sao khi chỉ vài giờ trước đây, họ vẫn vui vẻ cười đùa cùng nhau.

Bên trong lớp học, họ đứng run rẩy, thở một cách khó khăn. Roseanne ngồi phịch xuống, rên rỉ, kiểm tra một ngón chân đã bầm tím của mình. Linnea bắt đầu đếm và điểm danh đủ quân số trong lớp, sau đó lập tức ra lệnh, “Kristian, em còn khỏe đủ để ra ngoài một chuyến không?”.

“Được ạ.”

“Em đi lấy than.”

Cậu quay đầu về hướng kho than trước khi cô kịp nói hết.

“Raymond, em đi lấy nước.”

Cậu đã theo sát gót Kristian, tóm lấy xô nước trên đường ra.

“Raymond, chờ đã!”, cô hét lên sau lưng cậu. Trong trận bão tuyết như thế này, nhiều người đã mất tích trên đường từ nhà chính ra nhà kho trong lúc ra ngoài làm việc. “Kristian có thể men theo sườn nhà, nhưng em không thể. Leo lên thang và cởi dây chuông ra.”

“Vâng, cô.” Raymond không chút do dự làm theo lời cô giáo.

“Paul, em đi cùng Raymond và giữ đoạn cuối của sợi dây trong khi Raymond bơm nước. Những đứa đi chân đất trong này thì cởi váy lót ra và lau thật khô chân đi. Các bé gái, hãy chia sẻ váy lót của các em cho những bạn trai. Đừng lo lắng tới chuyện giữ sạch chúng nữa. Mẹ của các em có thể giặt sạch khi các em về tới nhà. Giờ ngón chân của mấy đứa sắp đóng băng hết rồi, nhưng ngay khi Kristian nhóm xong lửa, chúng ta sẽ lại ấm áp như những ổ bánh mì. Có ai bỏ sót bữa trưa không?” Sáu cánh tay đồng loạt giơ lên.

Một giọng nói run rẩy cất lên, “Em làm mất hộp cơm rồi. Mẹ sẽ mắng em cho mà xem”.

“Không, mẹ sẽ không mắng em đâu, Roseanne. Cô hứa sẽ giải thích với mẹ rằng đó không phải lỗi của em.”

Kristian trở lại và bắt đầu nhóm lửa. Allen cùng Tony nhận nhiệm vụ xúc tuyết để giữ cho cửa không bị chặn.

Cuối cùng, khi mọi người đều đã được bố trí thoải mái nhất có thể, Linnea gọi Kristian tới và hỏi, “Chúng ta còn bao nhiêu than?”.

“Đủ dùng, em nghĩ thế.”

“Em nghĩ sao?”

Lúc ấy là vào cuối tháng Tư. Chẳng ai nghĩ đó là việc phải quan tâm khi những bông hoa dại đã nở trên thảo nguyên. Chính xác thì làm sao chuyện này có thể xảy ra muộn đến thế trong năm cơ chứ? Và cơn bão điên cuồng này có thể kéo dài đến bao giờ khi mà ngày Quốc tế Lao động đã gần kề?

Kristian bắt lấy tay cô. “Đừng lo lắng. Cơn bão không thể kéo dài lâu quá đâu.”

Nhưng trận bão lịch sử này đè nặng lên tâm trí Linnea và cô đã viết vào cuốn sổ của mình lời cầu nguyện: Ngày 27 tháng Tư năm 1918, ba giờ bốn mươi phút chiều, mắc kẹt trong trận bão tuyết trên đường trở lại trường từ con lạch dưới đồi, nơi mọi người cùng nhau đào cây nhân ngày lễ Lao động, và cùng nhau thưởng ngoạn chuyến dã ngoại của mình. Ngày hôm đó, nhiệt độ khoảng hai mươi độ, vì thế vài đứa trẻ đã đi chân trần để quét sạch sân trường vào buổi sáng.

Đột nhiên, ngòi bút của Linnea ngừng lại, cô ngẩng đầu.

Theodore và John!

Cô nhìn chằm chằm ra cửa sổ, lắng nghe tiếng gió rít gào xuống ống khói bếp lò và tấm mái lợp.

Tim cô như bắn khỏi lồng ngực, cô đánh mắt về phía Kristian. Cậu đang ngồi gần bếp lò cùng những đứa trẻ còn lại, tất cả đều nói chuyện bằng giọng thật thấp. Cô đứng dậy, lần đầu tiên cảm thấy sợ hãi kể từ khi cơn bão ập tới. Cô tiến về phía cửa sổ, chạm vào gờ của nó, nhìn chằm chằm vào cơn giận dữ màu trắng đang đập điên cuồng vào những tấm kính. Buộc giọng mình phải bình tĩnh, Linnea quay người lại.

“Xin lỗi, Kristian. Em qua đây một lát được không?”

Cậu nhìn qua vai, đứng dậy và tới chỗ cô. “Vâng?”

“Kristian, lúc chúng ta dọn sân, em có thấy cha em và John trên đường từ thị trấn về không?”

Cậu đánh mắt nhìn ra cửa sổ rồi lại trở về phía cô. Tay cậu từ từ bỏ khỏi túi, vẻ lo lắng hằn rõ trên khuôn mặt.

“Không!”

Giọng cô thậm chí còn nhẹ hơn. “Ừm, hy vọng họ vẫn còn ở thị trấn, có lẽ là ở tiệm rèn, sẽ rất ấm cúng.”

“Vâng...”, Kristian lơ đãng đáp lời, liếc trở lại bên ngoài cửa sổ. “Vâng, chắc chắn là thế.”

Cô ép mình phải chờ thêm năm phút nữa sau khi Kristian trở lại nhóm, rồi mới di chuyển đến vòng tròn.

“Raymond, em có phiền leo lên vòm và buộc lại dây chuông thêm lần nữa không? Cô thấy vào một ngày thế này, có lẽ không chỉ có mình chúng ta là những người bị mắc kẹt trong bão đâu. Để tiếng chuông vang lên đều đặn có vẻ là một ý tưởng không tồi đấy nhỉ.”

Giữ cho giọng nói được ổn định và bình tĩnh thật khó một cách khủng khiếp.

“Nhưng tại sao cô lại làm thế?”, Roseanne ngây thơ hỏi.

Linnea vuốt tay lên mái tóc mềm mại của con bé, nhìn xuống khuôn mặt đang hếch lên và đôi mắt to tròn màu nâu còn quá nhỏ để hiểu được nguy hiểm thực sự. “Nếu như có ai đó ngoài kia thì âm thanh có thể dẫn đường cho họ tới đây.” Linnea quét một vòng. “Cô cần một số bạn tình nguyện ở ngoài phòng chứa đồ để đánh chuông mỗi phút một lần hoặc khoảng đó. Các em có thể thay phiên nhau, hai người một lần, chúng ta sẽ mở cửa phòng chứa đồ để ngoài đó không quá lạnh.”

Kristian ngay lập tức đứng dậy, theo sau là Patrica.

Skipp Westgaard lên tiếng tiếp theo, “Cô Westgaard, cô có nghĩ cha chúng em sẽ đánh xe tới trường đón bọn em không?”.

“Cô e là không, Skipp. Không, cho tới khi tuyết ngừng rơi.”

“Ý cô là có khả năng chúng ta phải ở lại trường qua đêm sao?”

“Có lẽ.”

“Nhưng... nhưng... chúng ta sẽ ngủ ở đâu?”

Allen Severt trả lời, “Trên sàn nhà chứ còn ở đâu nữa, đồ ngu?”.

“Allen!”, Linnea mạnh mẽ khiển trách.

Allen hiếu chiến hỏi, “Những gì em muốn biết là tối nay chúng ta sẽ ăn gì?”.

“Chúng ta sẽ chia nhau bất cứ thứ gì còn lại trong những hộp cơm trưa, tôi sẽ...”

“Không ai được chạm vào táo của em!”, nó thô lỗ ngắt lời.

Linnea mặc kệ nó và nói tiếp, “Cô có vài chiếc bánh cùng nho khô dùng cho trường hợp khẩn cấp. Chúng ta có nước uống và một ít trà. Còn giờ thì sao các em không nghĩ ra trò chơi và giữ cho mình bận rộn nhỉ? Trong trường hợp mọi người không đoán ra thì giờ học đã kết thúc rồi”.

Trên đầu họ, tiếng chuông vang lên. Linnea tự động kiểm tra đồng hồ của mình.

Cô trở lại bàn giáo viên, viết tiếp những dòng nhật ký: Ba giờ năm mươi lăm phút. Chúng tôi sẽ rung chuông năm phút một lần để hướng dẫn những người mất phương hướng trong cơn bão.

Nhưng cô không thể ngồi tại bàn lâu hơn được nữa. Những cánh cửa sổ thu hút cô một cách kỳ quái. Cô run rẩy đứng lên, nhìn chằm chằm ra thế giới đã bị che khuất. Cô quay lưng về phía căn phòng, khoanh tay lên bệ cửa, những ngón tay vặn xoắn vào nhau cho tới khi các đốt ngón tay trở nên tái nhợt. Mí mắt cô khẽ khép lại, trán tựa vào lớp cửa sổ lạnh lẽo, đôi môi thầm cầu nguyện.

Những con ngựa bắt đầu cư xử thất thường trên đường xuống thị trấn. Theodore liên tục kiểm tra phía chân trời, con đường cả phía trước lẫn phía sau họ, tự hỏi tại sao lũ ngựa lại bồn chồn đến thế. Chó sói Bắc Mỹ sao, anh nghĩ. Người ta luôn luôn phải canh chừng lũ sói ở bất cứ chỗ nào. Chúng khiến lũ ngựa hoảng sợ. Chúng không tấn công, mà chỉ khiến lũ ngựa lồng lên. Đó là lý do vì sao Theodore mang theo súng, chỉ để dọa nạt, chứ không phải để giết chúng. Chó sói Bắc Mỹ tiêu diệt rất nhiều những động vật ăn hạt, vì thế chẳng có lý do gì để anh muốn thấy chúng phải chết.

Chẳng thấy con nào, những suy nghĩ của anh trở lại với Linnea. Lẽ ra anh không nên quá thô lỗ với cô đến thế, nhưng... mặc kệ! Cô quá trẻ để có thể hiểu! Bạn nuôi nấng con trai mình, đặt hy vọng vào nó, dõi theo nó trưởng thành, nuôi dưỡng nó, cho nó tình yêu, cho nó mọi thứ, chỉ để thấy chính mình thật bất lực khi nó mang trong đầu một khái niệm ngốc nghếch có thể gây tổn hại tới cuộc sống của chính bản thân.

Nhưng anh, một phần khác, cũng thật bất công. Thật độc ác khi anh đặt mọi trách nhiệm về việc mang thai lên cô, như thể anh chẳng tham gia phần nào trong đó. Thất vọng với chính mình, anh ép tâm trí tập trung vào những điều khác.

Cub chợt lồng lên.

“Ngoan nào!” Theodore cau mày. “Không biết có chuyện gì với chúng hôm nay nữa.”

“Động đực, chắc thế.”

Theodore cười khùng khục. “Cub quá già để động đực rồi.”

John là người đầu tiên nhận thấy cơn lốc. “Có gì đó đang tới phía trước.”

Mắt Theodore nheo lại. “Trông như tuyết.”

“Mặt trời lặn mất rồi.” John ngả người ra sau, liếc mắt nhìn bầu trời trong xanh.

“Chưa từng thấy tuyết kiểu này. Nhưng làm sao có thể là thứ khác được?”

Những đợt gió lạnh đầu tiên bắt đầu quất vào mặt họ.

“Cũng có thể là tuyết lắm.”

“Dày thế sao? Trời, anh không thể nhìn được phía bên kia đường hoặc là chẳng có gì ở sau nó cả.”

Họ nhìn chằm chằm, căng thẳng, bối rối. Theodore châm biếm nói, “Tốt hơn anh nên dựng cổ áo lên. Trông như thể chúng ta đang bỏ mùa xuân lại phía sau lưng rồi”. Sau đó anh bình tĩnh kéo tay áo xuống, chỉnh lại mũ cho chắc hơn.

Khi bức tường gió và tuyết ập tới, nó khiến họ lảo đảo rung chuyển về phía sau trên băng ghế. Những con ngựa hoảng sợ nhảy loạn xạ, Theodore choáng váng khó tin. Trời, anh còn chẳng nhìn thấy đầu của Cub và Toots được nữa! Nó giống như một trận tuyết lở, mỗi giây trôi qua càng trở nên giá lạnh hơn.

Theodore vật lộn, cuối cùng cũng kiểm soát được lũ ngựa. Dù chúng vẫn tiếp tục lao về phía trước, anh không hay biết nên hướng chúng về phương nào, vì thế để mặc cho chúng dẫn đường. “Anh có nghĩ đây chỉ là một cơn gió tuyết thôi không, John?”, anh hét lên.

“Không biết. Lạnh như băng ấy, phải không?”

Không khí thực sự lạnh băng. Nó quất vào má họ, luồn vào cổ áo họ.

“Anh muốn làm gì bây giờ, John? Tiếp tục chứ?”

“Em nghĩ Cub và Toots có thể tìm được đường không?”, John hét lên trả lời.

Chỉ ngay sau đó, cỗ xe đã trả lời câu hỏi cho họ bằng cách dựng đứng dậy, lũ ngựa hí lên đâu đó trong tấm chăn màu trắng che khuất tầm nhìn của chúng.

Lầm bầm chửi thề, Theodore chuyền dây cương cho anh trai. “Em sẽ thử dẫn chúng!” Anh vòng qua một bên, dò dẫm tìm đường tới đầu ngựa. Nhưng khi anh tóm được dây cương quanh đầu của Toots, con ngựa liền chống lại anh. Theodore lại chửi thề, kéo mạnh, Toots đảo mắt, lồng lên.

Anh từ bỏ, quay trở lại chiếc xe và hét về phía John, “Anh nghĩ chúng ta còn cách nơi ở của Nordquist bao xa?”.

“Anh nghĩ chúng ta đi quá rồi.”

“Không, nó vẫn ở phía trước.”

“Chắc chứ?”

“Chắc.”

“Chúng ta có thể tháo Cub và Toots ra khỏi xe và để chúng chạy tự do. Chúng có thể sẽ đưa ta tới đó.”

“Nhưng liệu chúng ta có thấy được căn nhà khi tới nơi không?”

“Không biết, chúng ta còn làm gì được nữa?”

“Chúng ta có thể đi dọc theo hàng rào.”

“Không biết liệu quanh đây còn hàng rào nào trụ được không nữa.”

“Cầm lấy. Để em kiểm tra.”

Theodore bỏ chiếc xe lại đằng sau, đi sang góc bên phải, dùng tay để cảm nhận. Anh không thể đi quá năm bước trước khi bị nuốt trọn bởi tuyết. Anh kiểm tra hai bên đường, không có bất cứ hàng rào nào. Anh buộc phải men theo âm thanh từ giọng John để trở lại xe. Ngồi cạnh John trở lại, anh tuyên bố, “Không có hàng rào. Thử với lũ ngựa thôi”.

John hét lên, “Đây!”. Anh ấy giật mạnh dây cương. Lần này lũ ngựa lảo đảo tiến về phía trước, nhưng trong khoảnh khắc, chúng lại mất phương hướng và bắt đầu ngần ngại đứng yên.

Theodore tóm lấy dây cương, thử ép chúng. “Đi nào Cub, đi nào Toots, hai người bạn già, đi thôi.” Nhưng chúng vẫn tiếp tục đứng yên.

Nhiệt độ dường như liên tục hạ xuống. Những ngón tay Theodore bắt đầu đông cứng lại, dù anh đã kéo tay áo sơ mi xuống nhưng chúng chỉ là những vật bảo vệ nhỏ bé chống lại cơn thịnh nộ bất ngờ của thiên nhiên. Gió cào vào họ không thương tiếc, chạy thẳng về hướng tây, táp vào khuôn mặt giờ đã đỏ bừng lốm đốm của họ.

Giữ mũ thật chắc, Theodore đánh giá tình hình. “Có lẽ chúng ta nên chờ bên ngoài.” Anh quyết định dứt khoát.

“Chờ ư? Ở đâu?”

“Dưới xe. Giống lần đó cha đã làm. Còn nhớ những gì ông nói với hai chúng ta không?”

John trông có vẻ không tin tưởng cho lắm, nhưng lông mày anh ấy đã phủ một lớp tuyết trắng. “Anh không thích không gian chật hẹp, Teddy.”

Theodore đập tay vào đầu gối John. “Em biết, nhưng em nghĩ chúng ta phải thử thôi. Ngồi trên này hứng gió quá lạnh.”

John cân nhắc một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. “Được rồi. Nếu như em nghĩ làm thế là tốt nhất.”

Họ cùng trèo xuống, tháo dây cương bằng những ngón tay tê cóng vì lạnh. Họ tháo xà kép ra và đặt chúng lên mặt đất, chất đống bột mì, đường cùng túi hạt giống bên cạnh, rồi cố hết sức để đá tuyết ra ngoài, dọn một chỗ cho chính mình. Họ lật ngược xe lại, đặt nó lên đỉnh bao tải, chống lên cao đủ để có thể nhìn thấy ánh sáng bên dưới khoảng trống. Họ cột ngựa vào một bánh xe, Theodore quỳ xuống.

Súng của anh được hạ xuống đầu tiên, sau đó là chính anh, run rẩy tự ôm lấy mình, nhìn đôi giày nặng nề của John sục sạo lo lắng.

“Thôi nào John, thế này tốt hơn ở ngoài gió nhiều.” Bên trong hang động, lời nói của anh như bị bóp nghẹt lại.

Giày của John lại đảo một lần nữa, cuối cùng anh ấy cũng ngồi xuống, cuộn người lại bên dưới, nằm đối diện em trai, đôi mắt trong như thuỷ tinh, mở lớn.

Tuyết tan ra và ngấm vào áo sơ mi của Theodore, bám vào da họ, tạo thành những mảng băng chết chóc.

“Cố thoải mái đi.” Theodore cố rướn người lên cao nhất có thể để đẩy những thân cây khô khỏi xương sườn, sau đó lại nằm xuống. Bên cạnh anh, John nằm yên không nhúc nhích. Theodore chạm tay vào anh ấy. “Này John, anh sợ ư?”

Lúc này người John đã run lên dữ dội. Theodore nhìn thấy đầu John run rẩy trong ánh sáng mờ nhạt. “Em biết anh không thích không gian hẹp, nhưng sẽ chẳng lâu đâu. Tuyết sẽ tan sớm thôi.”

“Vậy nếu nó không sớm tan thì sao?”

“Thì họ sẽ tới và tìm thấy chúng ta.”

“Nếu... Nếu họ không?”

“Họ sẽ. Linnea đã nhìn thấy chúng ta đi xuống thị trấn. Mẹ biết chúng ta chưa về nhà.”

“Mẹ đã không đánh ngựa bao nhiêu năm nay rồi, và dù sao thì làm thế nào bà có thể vượt qua được bão tuyết trong khi chúng ta còn không thể cơ chứ?”

“Tuyết có thể ngừng, không phải sao? Anh nghĩ chúng ta sẽ có bao nhiêu tuyết khi mà tháng Năm đang tới cơ chứ?”

Nhưng John chỉ nhìn chằm chằm về phía ánh sáng ban ngày luồn vào trong toa xe và run rẩy.

“Thôi nào, chúng ta phải cố hết sức để giữ ấm.” Theodore cuộn tròn ôm chặt lấy thắt lưng John, một tay bao quanh ôm lấy anh ấy và kéo anh ấy lại sát mình. Tay John vòng ôm lấy em trai. Những ngón tay lạnh giá phủ lên bàn tay Theodore, siết chặt lấy nó.

Khi John nói, giọng anh ấy đầy hoảng loạn. “Còn nhớ khi mẹ bắt hai đứa phải chui xuống hầm lúc nơi đây vẫn còn những cơn bão mùa hè kinh khủng không?”

Theodore nhớ quá rõ chuyện này. John luôn sợ cái hầm đó. Anh ấy đã khóc và cầu xin được thả ra trong suốt khoảng thời gian họ chờ đợi cơn bão đi qua. “Em nhớ. Nhưng đừng nghĩ về nó nữa. Chỉ cần nhìn về phía ánh sáng và hình dung ra những điều tốt đẹp. Giống như mùa thu hoạch, sao nào, chẳng có lúc nào đẹp đẽ hơn mùa thu hoạch đúng không? Lái máy gặt qua những cánh đồng, dưới bầu trời trong xanh, anh nghĩ mình có thể uống được nó, tất cả lúa mì đều vàng óng và sáng bóng.”

Trong khi giọng nói an ủi của Theodore vỗ về John, đôi mắt không chớp của anh ấy vẫn cố định lên những vệt ánh sáng hắt vào. Thi thoảng một vệt tuyết chạm vào má và lông mi anh, bên trên gió không ngừng rít gào, khiến những bánh xe quay tít. Nó gầm lên vang vọng qua lớp gỗ trên đầu họ.

Một lát sau, Theodore nhẹ nhàng nới lỏng tay khỏi người John. “Đặt tay vào giữa hai chân đi, John. Chúng sẽ giữ cho anh được ấm hơn.”

“Không!” Những ngón tay của John quặp chặt lại như móng vuốt. “Teddy, làm ơn.”

John bắt đầu run rẩy trước cái lạnh, co quắp nằm sát lại gần khe hở hơn. Nhưng cơn ám ảnh khi bị giam cầm dường như còn tồi tệ hơn nỗi sợ hãi bị đông cứng trong tuyết, vì thế Theodore đành trấn an anh trai, “Em sẽ ôm cánh tay anh, được chứ?”. Nói rồi anh duỗi cánh tay John xuống dưới cánh tay mình và thấy tay John lạnh như băng.

“Chẳng bao lâu nữa hai ta có thể sẽ dính lấy nhau như một con mèo nằm trong hộp gỗ mất.”

Việc trấn an John giữ cho cơn hoảng loạn của Theodore tạm thời bị phân tán. Nhưng ngay sau khi anh rơi vào im lặng thì nỗi sợ hãi tiếp tục đe dọa anh. Suy nghĩ kỹ càng. Lên kế hoạch. Kế hoạch nào cơ? Làm sao để giữ ấm khi họ chỉ mặc những chiếc áo sơ mi bằng cotton mỏng manh và chẳng ai trong số hai người hút thuốc, vì thế họ thậm chí cũng chẳng có nổi một que diêm để đốt cháy thùng xe nếu như điều đó là cần thiết. Trừ khi tuyết đột nhiên ngừng rơi, không thì chẳng có gì có thể giúp nổi họ. Và nếu như nó vẫn chẳng chịu ngừng...

Lẽ ra mày không nên trói lũ ngựa lại.

Ôi, thôi nào Teddy. Một trong số hai người hoảng loạn là đủ rồi. Mày mới chỉ trốn ở dưới này được hai mươi phút. Sẽ phải lâu hơn một chút nữa thì mày mới có thể bị đông cứng tới chết.

Nhưng cảm giác như từng bộ phận trên cơ thể anh đang tê buốt dần.

Anh nằm và nghĩ tới những con ngựa cho tới khi không thể bất động lâu hơn được nữa. “Em bảo này, John”, anh nói nghe như thể càng tình cờ càng tốt. “Em ra ngoài một lát.”

“Làm gì?”

Chết tiệt nhà anh, John, cả thế kỷ không buồn hỏi nửa câu thì giờ lại bắt đầu đấy.

“Định nhuộm vàng màu tuyết”, anh nói dối. “Nhưng anh cứ nằm đây. Em nghĩ mình có thể lăn qua người anh.”

Bên ngoài, anh nhận thấy tuyết đã rơi dày thế nào quanh nơi trú ẩn tạm thời của họ. Thậm chí tuyết còn khiến những chiếc bánh xe bị chổng lên trời ngừng quay. Anh giật dây cương ra khỏi bánh xe, bất chấp cái lạnh, anh đứng bên ngoài một lúc để âu yếm vuốt ve lên mõm hai con ngựa, thì thầm vào tai chúng, “Mày là bà cô già tốt bụng, Toots... mày cũng thế, Cub. Hãy nhớ lấy điều đó.” Tuyết lấp lánh trên bờm chúng, nhưng chúng vẫn nhẫn nại đứng đó, không quan tâm đến bất cứ điều gì có thể xảy đến.

Giống như những gì John đã làm trong cả cuộc đời.

Nhưng những suy nghĩ về định mệnh chẳng mang lại điều gì tốt đẹp. Theodore xua chúng khỏi đầu rồi quỳ một gối xuống. Khi lòng bàn tay chạm vào bao ngô giống, anh nảy ra một ý tưởng. Anh cúi thấp xuống nhìn qua lỗ. “Nằm ngửa ra, John. Em cho anh một thứ ấm áp hơn để nằm này.” Anh rút một con dao gấp ra khỏi túi, nhét nó vào trong chiếc túi đựng ngô, và rạch một đường dài. Khi những hạt ngô đổ ra đất, anh hất chúng vào toa xe bằng cả hai tay. Luồng nhiệt giữa các hạt ngô ấm áp đến tuyệt diệu.

“Trải ra nào, John.” Anh chỉ có ba bao ngô để rạch. Những bao còn lại phải được giữ nguyên để giữ cho toa xe dựng đứng và cho họ một cái hang để trốn. Khi ba bao tải ngô được rạch hết, ngô cho họ một cái giường còn thoải mái hơn. Hai người đàn ông lại tụ hội, luồn lách giữa những hạt ngô, hấp thụ hơi ấm của chúng.

Họ xích lại gần nhau được một lúc thì John hỏi, “Em không ra ngoài để đi vệ sinh, đúng không?”.

Theodore giật mình và chỉ có thể nói dối. “Dĩ nhiên là em làm thế rồi.”

“Anh nghĩ em ra ngoài để tháo cương cho Cub với Toots.”

Theodore lại một lần nữa nghĩ, Anh thật biết chọn lúc để thông thái, anh trai.

“Sao anh không nhắm mắt lại và cố ngủ đi một lát. Như thế sẽ khiến thời gian trôi qua nhanh hơn.”

Nhưng thời gian chưa bao giờ trôi qua chậm đến thế. Sau một lúc, những cơn rùng mình bắt đầu kéo tới, đầu tiên là John, sau đó tới Theodore. Họ nhìn màu trắng của ban ngày chuyển sang màu tím của chiều tà.

Họ nằm bên nhau trong im lặng thêm một lúc lâu nữa trước khi John lên tiếng, “Em và cô giáo nhỏ cãi nhau à, Teddy?”.

Cổ họng Theodore tắc nghẹn. Anh nhắm mắt, cố nuốt nó xuống, không chịu thừa nhận việc tại sao John lại bới một chủ đề như thế vào lúc này.

“Ừm”, anh ậm ừ.

John không hỏi thêm. John không bao giờ hỏi thêm.

“Cô ấy có thai, và em thì... ừm, em thực sự đã cư xử rất tồi tệ, em nói với cô ấy rằng em không muốn có thêm đứa con nào nữa.”

“Em không nên làm thế, Teddy.”

“Em biết.”

Và nếu như họ chết vì đông cứng dưới cái thùng xe chết tiệt này thì anh sẽ mãi mãi chẳng còn cơ hội để nói với cô lời xin lỗi. Hình ảnh lần cuối cùng anh nhìn thấy cô ngập tràn trong tâm trí - một tay cầm cào, một tay che mắt, lũ trẻ ríu rít quanh cô như một bầy chim sẻ, những ngôi nhà màu trắng phía sau, những cánh cửa mở rộng.

Anh nhớ lại những dãy gỗ gòn bắt đầu trổ lá xanh, những con mương đầy cỏ hoang, Kristian cào cỏ ngay gần mép mương - hai người anh yêu thương nhất trên thế giới này, anh đã đối xử thật tồi tệ với họ. Linnea đã vẫy tay chào anh, nhưng anh cứng đầu tới mức còn gần như chẳng buồn vẫy tay chào lại. Lúc này đây, anh ước gì mình đã chào lại cô. Anh đau đớn và muốn khóc. Nhưng nếu anh khóc lúc này, ai sẽ là người giữ cho John không đầu hàng?

Như để khiến mọi vấn đề trở nên tồi tệ hơn, John đột nhiên cắt ngang dòng suy nghĩ của anh. Anh ấy đẩy tay Theodore ra xa, trườn bụng ra ngoài.

“Anh không thể chịu nổi nữa. Anh phải ra ngoài một lát.”

Theodore tóm lấy chỗ áo liền quần của John. “Không được! Thôi nào John. Dưới này tệ nhưng bên ngoài còn tệ hơn nhiều. Nhiệt độ đang giảm mạnh, anh sẽ đông cứng thành đá ngay lập tức đấy.”

“Bỏ anh ra, Teddy. Chỉ một phút thôi. Anh phải ra ngoài trước khi đêm xuống và không thấy gì nữa.”

“Được rồi. Chúng ta sẽ cùng ra, kiểm tra lũ ngựa và tuyết xem thế nào.”

Nhưng tuyết vẫn chưa ngừng. Hai con ngựa giờ đã bị chôn tới gần bụng, thùng xe trở thành một cái gò. Theodore vừa vòng tay ôm lấy người vừa nhìn John duỗi chân tay thở sâu và ngước mắt lên bầu trời. Tên ngốc chết tiệt này cũng có thể đã khiến những ngón tay bị đóng băng nếu như anh không khoác tay anh ấy.

“Nào John, chúng ta xuống thôi. Ngoài này lạnh quá.”

“Em đi đi. Anh sẽ ở ngoài này thêm một phút nữa.”

“Chết tiệt, John. Anh đang đông cứng lại rồi! Xuống dưới ngay!”

Trước giọng điệu ra lệnh và khiển trách của em trai, John lập tức trở nên ngoan ngoãn. “Đ... được rồi. Nhưng anh muốn được nằm gần lỗ nhất có thể, được không Teddy?”

Lời cầu xin trẻ con của anh ấy khiến Theodore lập tức cảm thấy hối lỗi khi đã la mắng anh trai mình.

“Được, nhưng phải nhanh lên. Nếu tay chúng ta vẫn chưa cóng thì chúng sẽ cóng nhanh thôi.”

Trở lại hang, John lại hỏi, “Ngón tay em còn cảm giác không, Teddy?”.

“Không chắc nữa, nhưng em sẽ không nghĩ tới chuyện đó đâu.”

Họ lại rơi vào im lặng. Ngay sau đó, thế giới bên ngoài chìm vào bóng đêm. “Anh nghĩ chắc mũi mình đông thành đá rồi”, John lẩm bẩm.

“Chà, nếu anh quay vào trong hoặc để em nằm ra ngoài thì sẽ đỡ hơn một chút. Giờ nằm đâu chả thế? Bên ngoài trời tối rồi, cũng chả khác trong này mấy.”

Tất cả những gì John nói là, “Ít nhất anh cũng phải có cái lỗ thông gió”.

Thật kỳ diệu, họ chìm vào giấc ngủ.

Theodore tỉnh giấc, nháy mắt, mất phương hướng. Bên cạnh anh, John vẫn nằm im. Cơn hoảng loạn xoáy qua anh. “John, dậy đi! Dậy ngay!” Anh điên cuồng lắc người John.

“Hử?” John khẽ cử động. Theodore vươn tay chạm lên mặt anh ấy trong bóng đêm. Cảm giác như đã đóng băng. Nhưng có lẽ thứ đóng băng là tay anh.

“Anh phải lăn người lại. Nào, qua đây, đừng cãi.” Lần này John nghe lời. Theodore đặt cả hai cánh tay quanh người anh trai, ôm lấy anh ấy thật chắc như thể John chỉ là một đứa trẻ, sẵn sàng chờ đón nỗi sợ hãi của chính mình giảm xuống. Họ không thể chết ngoài này như thế.

Lý do ư, làm sao có thể khi mà lúc họ rời nhà đi, mẹ vẫn đang phơi chăn và bánh mì đang hò reo trong lò nướng. Giờ này có lẽ nó đã sẵn sàng và nằm trong khay đựng. Họ dự định đi câu cá cùng nhà Ulmer cuối tuần này. Và Kristian sẽ tốt nghiệp lớp Tám trong bốn tuần nữa. Kristian sẽ nói gì nếu cha nó bỏ lỡ buổi lễ trọng đại đó? Còn Linnea nữa, ôi, Linnea ngọt ngào của anh, cô vẫn nghĩ rằng anh đang nổi điên với cô.

Và cô còn mang trong mình đứa con của họ. Anh không thể chết mà không được thấy đứa trẻ đó. Nằm trong bóng tối đen như mực, bên dưới thùng xe bị lật ngược, với người anh trai đang run bần bật dưới cánh tay, Theodore nhận ra rằng mọi suy nghĩ của anh dường như là lý do hợp lý cho việc tại sao cơn bão lại không thể chiến thắng họ.

Xương sườn anh đau khủng khiếp. Ngón chân anh chẳng còn chút cảm giác nào, đầu anh đau như búa bổ khi anh cố nhấc nó lên khỏi những hạt ngô. Bất chấp cơn đau, anh rơi vào giấc ngủ mơ màng một lần nữa, nhưng những suy nghĩ mất tập trung - điều anh cần phải nói cho Linnea khi anh thấy cô lần nữa - giữ cho anh khỏi chìm vào giấc ngủ sâu.

Anh lại tỉnh giấc. Hơi thở của John vẫn ổn định. Anh tự hỏi họ đã ở đây bao lâu. Liệu có phải họ vẫn chưa qua đêm đầu tiên trong cơn bão. Nhưng anh cảm thấy mất phương hướng. Như thể toàn bộ cơ thể anh được lấp đầy bằng không khí ấm áp và sôi động.

Anh không thể khiến đầu óc tỉnh táo được. Có phải anh sắp chết không?

Không!

Anh đẩy John.

“Cái...”

“Dậy đi, John. Ra khỏi đây. Em nghĩ chúng ta phải cử động, cứ thế này sẽ đóng băng mất, nhanh thôi!”

“Anh không chắc mình có thể.”

“Chết tiệt, cố lên!”

Cơn bão tồi tệ hơn bao giờ hết. Bức tường tuyết bất khả chiến bại đập mạnh vào họ. Những con ngựa vẫn ở đó, trung thành chờ đợi. Chúng hí lên, lắc đầu, cố bước về phía trước nhưng bị những lớp tuyết dưới bụng cản lại.

Hai người đàn ông vật lộn trên đường tới chỗ lũ ngựa. “Đặt tay anh dưới mũi Cub. Có thể hơi thở của nó sẽ làm ấm chúng được một lát”, Theodore hướng dẫn.

Họ đứng bên cạnh đầu những con ngựa, cố sưởi ấm chính mình bằng bất cứ thứ gì có thể. Nhưng vô vọng, và Theodore biết rõ điều đó.

Nơi bầu trời phía đông, chút ánh sáng mờ nhạt bắt đầu len lỏi qua lớp tuyết rơi. Anh dựa vào đó để thử kiểm tra đồng hồ, chỉ để nhận ra những ngón tay của mình chẳng thể xử lý nổi công việc mở nắp đồng hồ đòi hỏi những cử động tinh tế. Anh cất nó lại vào túi áo, giữ đầu Toots, áp má vào chùm lông trên trán nó, tự hỏi liệu con người có thể biết được thời khắc đối mặt với giới hạn của sự sống vào giờ nào phút nào để kéo dài nó, khi vận mệnh cần được thao túng để anh ta có thể sống sót.

Chỉ có một cách duy nhất. Nhưng anh phủ nhận suy nghĩ ấy qua suốt những giờ khắc sợ hãi trong đêm dài, cố đấu tranh làm ấm cơ thể run rẩy của mình sát lại gần anh trai, biết rằng khẩu súng trường nằm ngay sau lưng anh. Anh ôm lấy khuôn mặt của Cub cùng lời xin lỗi mà con vật không thể hiểu được. Anh ấn đôi môi giá lạnh của mình lên chiếc xương cứng trên chiếc mũi nhung của nó. Anh đã ở bên chúng bao nhiêu năm rồi? Cả cuộc đời anh.

Chúng đã thuộc về cha anh thậm chí còn trước cả khi chính anh đủ lớn để cầm cương. Đằng sau chúng, anh học được cách kiềm chế sức mạnh đủ để giết chết chính mình, nếu như nó nhằm vào anh. Nhưng chưa bao giờ điều đó xảy ra. Cub và Toots, đôi ngựa anh được tặng và được anh giữ lại trong những mùa đông lạnh giá. Chúng già hơn tất cả những con ngựa còn lại, nhưng chúng có trái tim và tình cảm, có những lúc, sự hiểu biết của chúng cũng nhiều như con người. Chúng đã cho anh cuộc sống tươi đẹp biết bao. Liệu anh có thể đòi hỏi chúng đánh đổi cả mạng sống cho mình hay không?

Anh lùi lại, ghê sợ với chính mình, tự nhủ chúng chỉ là những con vật ngốc nghếch, chẳng hơn được nữa. “John, đưa súng cho em.”

“E... m... định... làm... gì?” Răng John va vào nhau lập cập như chiếc đuôi của một con rắn chuông.

“Cứ đưa đây.”

“K... Không!! Không!!!” Đó là lần đầu tiên trong đời John chống lại em trai.

Buông một câu chửi thề, Theodore quỳ xuống, tóm lấy khẩu súng bên dưới thùng xe. Anh suýt không đứng dậy được khi John tóm lấy nòng súng và chĩa lên trời. Họ nhìn nhau chằm chằm, chẳng ai trong số họ cảm thấy thứ kim loại màu đen lạnh giá trong những ngón tay đã tê cóng của mình.

“Teddy, không được!”

Theodore nghiêng súng. Tiếng kim loại đen lách cách mang tới âm thanh chết chóc. “Không, T... Teddy, em... k... không thể!”

“Em phải làm thế, John.”

“K... Không... Anh... t... thà... chết... cóng còn hơn!”

“Anh sẽ chết cóng nếu em không làm thế.”

“A... Anh... không quan tâm.”

“Nghĩ tới mẹ và mọi người đi, John. Họ quan tâm. Em quan tâm, John.” Họ đứng thêm một lúc lâu hơn, ánh mắt vẫn khóa chặt, trong khi từng giây quý giá trôi qua trong cơn bão gào thét ngày càng lớn. “Buông súng ra! Ngón tay anh tê cóng rồi.”

Khi John buông tay, đầu anh ấy cũng gục xuống. Theodore đứng cạnh Cub, cả người anh run rẩy, quai hàm nghiến chặt khiến nó đau hơn bất cứ phần nào khác trên cơ thể. Cổ họng anh tắc nghẹn thứ cảm xúc khiến anh nuốt không trôi. Nó khiến anh nghẹt thở. Tao xin lỗi, anh muốn nói với lũ ngựa điều đó, nhưng không thể.

Tim anh đập điên cuồng khi anh giơ súng lên và nhận ra mình không thể nhìn thấy gì nữa. Anh nhấc má khỏi thân súng, giơ mu bàn tay lên lau đi những giọt nước mắt, rồi lại ngắm mục tiêu thêm một lần. Khoảnh khắc kéo cò, anh thậm chí còn chẳng cảm thấy điều đó; ngón tay anh đã đông cứng. Anh nhanh chóng bắn phát thứ hai, không cho mình thời gian để suy nghĩ, để nhìn. Cứ làm đi. Làm những gì mày phải làm, và đừng nghĩ gì cả.

Anh dùng răng mở dao gấp ra vì ngón tay đã không thể làm nổi điều đó nữa. Anh phải tách biệt bản thân khỏi nỗi đau, di chuyển với quyết tâm khắc nghiệt, mắt nhìn thẳng, vô cảm.

Anh đâm con dao về vị trí cũ, tách biệt tâm trí khỏi dòng máu đỏ tươi đang phun ra màu tuyết trắng hoang sơ nơi đầu gối. Anh tách một cái lỗ rộng bằng hai bàn tay và ra lệnh, “Tới đây, John!”.

Khi John vẫn đứng như trời trồng ở đó, Theodore lảo đảo đứng dậy, giật mạnh vai anh ấy và nghiến răng. “Đi!” Anh tàn nhẫn kéo mạnh anh trai đến mức John khuỵu xuống. “Nhét tay vào đây. Không có thời gian để buồn nôn đâu!”

Nước mắt tuôn dài trên má John khi anh ấy trượt tay vào hơi ấm ướt át, trơn tuột.

Theodore không thương tiếc quay sang sử dụng hơi ấm từ con ngựa thứ hai. Trong khi tay bớt cóng, anh ép mình không được nghĩ tới bất cứ điều gì liên quan tới thứ đang ép vào da thịt. Thay vào đó, anh nghĩ tới Linnea, tới mái tóc cô tung bay trong gió, khuôn mặt cô ngời sáng khi cười, tới chiếc đồng hồ bằng vàng trên ngực cô, tới đứa trẻ trong bụng cô. Khi tay anh bắt đầu có cảm giác, nỗi đau trở nên dữ dội hơn bao giờ hết. Anh nghiến răng, đầu gối run lập cập, nuốt tiếng khóc vào trong để John không nghe thấy.

Nhưng những gì tồi tệ nhất vẫn chưa tới.

Khi tay đã được ủ ấm trở lại, Theodore không thể cầm được dao, anh quỳ xuống cạnh xác chết ấm áp, nhắm mắt lại, hít một vài hơi thật sâu để củng cố tinh thần, nuốt cục nghẹn xuống cổ họng, yêu cầu John, “Lấy dao của anh ra và rạch đi”.

Nhưng ngay cả khi Theodore đã bắt tay vào công việc kinh khủng của mình thì John vẫn quỳ bất động, trong trạng thái sững sờ. “Làm đi John!” Cơn buồn nôn và thương tiếc trùm lên cơ thể Theodore trong khi anh thực hiện công việc một cách cứng nhắc, ép mình phải tàn nhẫn.

Nhiều lần anh phải đấu tranh để có thể đững vững, quay người để thở và lấy thêm dũng cảm. Trong suốt quá trình đó, John chỉ quỳ cạnh cơ thể Toots, chết sững kinh hoàng, không thể làm được việc gì dù là điều nhỏ nhất.

Trước khi kết thúc công việc, không thể tin nổi là Theodore đã đổ mồ hôi. Đó là công việc lao động khổ sở khi phần lớn được hoàn thành dựa trên cảm giác. Anh nghiêng người thấp xuống, áp má lên chiếc bờm nâu quen thuộc của nó trong khi vẫn cắt mạnh.

Cuối cùng, anh đứng thẳng dậy, chóng mặt và yếu ớt, anh biết John không đủ khả năng giúp một trong hai người bọn họ bằng bất cứ cách nào.

“Nào John, em sẽ giúp anh.”

John nhìn chằm chằm, đôi mắt trong như thuỷ tinh, khẽ lắc đầu. Tuyết rơi phủ lên người họ một lớp mới quanh đầu gối anh ấy. Đôi tay đầy máu của anh ấy lúc này đã đặt lên đùi bất động.

Theodore điên cuồng, gần như kích động chính mình, cảm thấy nước mắt đang tuyệt vọng dâng trào. Liệu chúng có chảy xuống lúc này, anh không thể biết được, khi má anh đã tê dại từ lâu lắm rồi. “Khốn kiếp, John, anh không thể chết! Em sẽ không để anh chết! Cho tay vào.”

Cuối cùng, khi nhận ra John không thể đưa ra bất cứ quyết định nào, hoặc có thể cử động được một chút, Theodore liền chật vật tiến lại gần và đẩy John trở lại. “Chui vào ngay. Anh sẽ vừa khít nếu cuộn người lại.” Sự căng thẳng trào dâng ngày càng dữ dội khi anh nâng cơ thể nặng nề lên. Cánh tay Theodore run bần bật, đầu gối bủn rủn. Nếu John không sớm cử động, có lẽ đã quá muộn.

Nhưng ngay khi anh nghĩ rằng số phận đã định, John lại siết chặt đầu gối và cử động. Tiếng rên thảm hại vang lên, nhưng Theodore chẳng có thời gian để lãng phí.

Kết liễu con ngựa thứ hai khó hơn con đầu tiên, khi mà năng lượng của anh đã cạn. Anh vật lộn, đấu tranh để quên đi mùi máu, với cảnh tượng hơi nước bốc lên từ trong tuyết, cùng tiếng sụt sịt của John. Tới khi lưỡi dao đã gãy khi anh cố đập vỡ một mảnh xương, anh đành từ bỏ cuộc chiến, không thể tiếp tục được nữa. Thông qua đám mù mịt quay cuồng, anh bò về phía hơi ấm mang tới sự sống, tâm trí trở nên sáng suốt lạ thường trong vài giây, cuối cùng, anh nhớ tới những gì mình cần phải nói với Linnea.

Anh bò bằng tay và đầu gối qua tuyết, mò mẫm con dao bị gãy, mang nó theo khi anh kéo lê người xuống dưới thùng xe lần cuối cùng.

Nằm ngửa trong bóng tối u ám, anh tưởng tượng ra những chữ cái, như thể cô đang dạy anh học. L trong từ Lutefisk. I trong từ Ice. N trong từ... anh không thể nhớ nổi N nằm trong từ nào, nhưng anh chẳng cần biết. Vì giờ anh đã có thể đánh vần tên cô trơn tru.

“Lin”, anh mù mờ chạm khắc hình ảnh cô. “Anh xin lỗi.”

Tai anh ù đi. Đầu anh cảm giác như nặng thêm gấp mười lần. Ai đó đang bò qua tuyết trên đôi tay đầy máu. Giờ thì tại sao ai đó lại muốn làm điều gì như thế này cơ chứ? Bằng tứ chi nặng nề, anh chạm tới đích, không hay biết tới những luồng khí độc hoặc máu me, hoặc thực tế là áo anh đã bị xé, bụng và lưng bị xước xát khi anh bò vào trong. Ở đó, cả tinh thần và thể chất của anh đều kiệt quệ, anh bất tỉnh.

Ở trường, nơi cách đó sáu dặm về phía trên đồi, một đứa trẻ dụi đôi mắt đầy nước vào lòng Linnea và khóc. “Nhưng em không thích nho khô.”

Linnea, đôi mắt cũng đã đỏ mọng, buộc phải mở miệng kiên nhẫn để an ủi Roseanne trong khi tất cả những gì cô muốn làm lúc này là được bật khóc. “Nhắm mắt nuốt ực một cái là xong, em yêu. Chúng ta chỉ có thứ đó thôi.”

Trong khi Roseanne vẫn còn thổn thức và khịt mũi trước đống nho khô, Linnea mệt mỏi kéo dây chuông một lần nữa, rồi bám lấy nó bằng cả hai tay, mắt nhắm nghiền. Bên ngoài, gió mang tới thứ âm thanh rùng mình, ban tặng nó cho miền quê toàn màu trắng xóa. Một phút sau, nó mang tới thêm một âm thanh nữa... rồi một âm thanh khác... và lại một âm thanh khác...