CÓ NHỮNG LÚC Linnea tưởng rằng đây chính là một cuộc chiến, nhưng nó lại chủ yếu được sinh ra từ những cơn giận dữ hoặc trí tưởng tượng lãng mạn của cô. Cô thường bực bội khi phải làm điều gì đó mình không thích, còn trí tưởng tượng lãng mạn là về cảnh tượng các binh sĩ hôn tạm biệt người yêu khi con tàu bắt đầu lăn bánh khỏi nhà ga, những người tình nhận được những lá thư nhàu nát, nhuốm bẩn nhưng đầy lời lẽ của tình yêu bất diệt, các cô y tá quàng khăn chữ thập ngồi bên mé giường, nắm lấy những bàn tay bị thương...
Đi bộ từ trường về nhà ngày hôm đó, cô nghĩ tới cuộc xung đột đang diễn ra ở châu Âu. Tổng thống Wilson đã khẩn cầu người Mỹ hãy thực hiện chiến dịch ”Không mì và thịt” một ngày mỗi tuần để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực vào Pháp không bị gián đoạn. Nhìn quanh các đồng lúa mì bất tận và những đàn bò lớn phía xa, cô nghĩ, “Thật ngu ngốc, chúng ta sẽ chẳng bao giờ cạn lúa mì và thịt”.
Như thường lệ, dù chỉ là một ý nghĩ nhỏ về chiến tranh cũng có thể khiến cô đau lòng, do đó, cô xua ý nghĩ ấy ra khỏi đầu để dành chỗ cho những điều vui vẻ hơn.
Linnea vừa bước thật nhanh vừa xem xét danh sách lớp học của cô, thứ cô tìm thấy trong cuốn sổ Dahl tặng. Kristian không hề phóng đại khi nói rằng hầu hết số học sinh đó là họ hàng của cậu. Tám trong số mười bốn đứa là người nhà Westgaard! Không thể chờ lâu hơn để hỏi Nissa về mỗi người trong số chúng, cô vội vã bước đi, háo hức được trở về nhà.
Tiếc là trước khi đi được nửa đường, cô nhận ra đôi giày mới của mình kém thiết thực hơn vẻ ngoài của chúng. Dường như cô cảm thấy từng viên sỏi trên đường qua đế giày, còn phần gót cao lại chỉ khiến cô loạng choạng khi bước đi.
Trước khi có thể tiến vào sân, chân cô đã phồng rộp. Nissa thấy cô cà nhắc đi tới và bước lên cửa phòng bếp, liền hỏi, “Đi lâu hơn cháu nghĩ sao, con gái?”.
“Chỉ tại đôi giày mới này. Nó vẫn đang cọ vào chân cháu.”
Nissa nhìn đôi giày đầy suy đoán khi Linnea trèo lên những bậc thềm và bước vào. “Thẩm mỹ trông khá ổn, nhưng tốt nhất là không nên cứng thế này. Cháu còn đôi nào khác không?”
Vẻ mặt của Linnea chuyển sang khổ sở. “Cháu e là không.”
“Chà, có vẻ như tốt hơn là chúng ta nên kiếm cho cháu một đôi dép trước đã.” Bà tiến về phía phòng ngủ của mình rồi quay lại với đôi dép lông cừu đen có logo công ty Sears Roebuck.
“Nào, để ta xem vết sưng này.”
Linnea thất vọng vì ngay lúc Nissa đi lấy gạc và thuốc mỡ để bôi vết thương thì những người đàn ông trở về. Lúc ấy, cô đang đặt bàn chân trần trên ghế, khẽ nặn vết mủ, và cảm giác như có ai đó đang nhìn mình.
Cô ngước lên, thấy Theodore đang đứng ở ngưỡng cửa, một bên khóe miệng nhếch lên thích thú. Cô lập tức thả chân xuống nhanh đến mức nó mắc vào lớp vải bên trong chiếc váy dài, và cô nghe thấy tiếng chỉ bung. Cô đỏ bừng mặt, vội vàng dùng một chân để che đi chân còn lại, bướng bỉnh nhìn chằm chằm vào anh.
“Về lấy thùng” là tất cả những gì anh nói trước khi bước vào bếp và tiến đến kho thực phẩm. Nissa đã trở lại từ phòng ngủ cùng một hộp thuốc mỡ nhỏ và quỳ một gối trước mặt Linnea. Theodore vừa bước ra khỏi kho thực phẩm vừa hỏi, “Có chuyện gì với cô ta thế?”.
“Chân con bé bị...”
“Chân tôi bị rộp do đi đôi giày mới!”, Linnea vặn vẹo, bỗng nhiên chẳng còn quan tâm đến việc mặt mình đang đỏ lựng, và trừng mắt nhìn Theodore. “Còn nữa, tôi đã nhận được chứng chỉ sư phạm của Fargo Normal, nghĩa là tôi hoàn toàn đủ khả năng tự mình diễn giải và trả lời, trong trường hợp anh quan tâm!” Cô giận dữ nhận lấy hộp thuốc mỡ và băng gạc khỏi tay Nissa. “Cháu có thể tự làm, bác Nissa, cảm ơn bác.” Cô mở nắp hộp bằng một cú vặn đầy giận dữ, gác bàn chân đau lên đùi, mặc kệ mọi khán giả trong phòng và tự bôi thuốc lên vết thương.
Theodore và Nissa trao cho nhau ánh mắt kinh ngạc. Nissa đã đứng thẳng người lại, giơ cây kim ra và khuyên nhủ bằng giọng khô khốc, “Tốt hơn là chọc mủ ra trước khi băng vết rộp lại”.
Cô nhận lấy cây kim rồi tiếp tục quay lại với nhiệm vụ đầy khó chịu của mình. Nissa nhìn con trai, thấy ánh mắt anh cũng đang hướng về phía Linnea cùng nụ cười nhếch mép. Đúng lúc anh dứt mắt khỏi cô và nhìn lên, ánh mắt anh lập tức giao với ánh mắt Nissa. Anh lắc đầu, vẻ mặt như muốn nói vô ích thôi, rồi rời khỏi nhà cùng những thùng sữa treo lủng lẳng bên vai.
Thấy bóng anh khuất dạng, Linnea liền giậm chân giận dữ lên sàn nhà. Cô nhìn chằm chằm ra cửa. “Gã đàn ông đó thật khiến mình tức điên!” Sau đó, đột nhiên ý thức được mình đang nói chuyện với mẹ anh, cô đành phải nhún nhường tỏ vẻ người lớn một chút. “Cháu xin lỗi, bác Nissa, lẽ ra cháu không nên nói như thế, nhưng anh ấy... thi thoảng anh ấy khiến cháu giận điên lên! Cháu chỉ... chỉ...”
“Cháu không làm ta tổn thương tý nào đâu. Cứ nói tiếp đi!”
“Anh ấy khiến cháu cảm thấy như thể mình vẫn còn quấn tã vậy!” Cô hất tay, tỏ vẻ phiền toái.
“Từ lúc ra ga đón cháu, anh ấy gần như chỉ đứng một chỗ và cười nhạo chiếc mũ lẫn đôi giày của cháu. Cháu có thể thấy rõ như ban ngày rằng anh ấy nghĩ cháu chẳng khác gì một đứa trẻ thích mặc đồ người lớn. Nhưng cháu không phải như thế!”
“Dĩ nhiên không phải rồi. Đừng để ý tới Teddy làm gì. Còn nhớ những gì ta nói với cháu không, rằng những gã Na Uy rất cứng đầu và cháu phải cư xử thế nào với họ? Cháu vừa làm thế đấy. Teddy cần phải nhận được điều đó.”
“Nhưng tại sao anh ấy lại... lại cứ thích làm phật ý cháu như thế mọi lúc mọi nơi chứ?”
“Đó là một câu chuyện dài rất dài từ ngày xưa. Chẳng có gì liên quan tới cháu cả. Giờ thì tốt nhất là cháu nên cố định miếng gạc vào, và để ta đi chuẩn bị cho hai người kia vài lát sandwich. Khi trở về, chúng không muốn tốn thời gian vô ích đâu.”
Trong khi Nissa chuẩn bị sandwich, Linnea kể cho bà nghe về chuyến viếng thăm của Ngài Dahl, rồi đọc danh sách tên những học sinh của mình từ quyển sổ màu đỏ; Nissa cũng cung cấp cho cô toàn bộ thông tin của từng người một trong danh sách.
Tên đầu tiên là Kristian Westgaard, mười sáu tuổi.
“Kristian cháu biết”, Linnea nói. “Còn về người tiếp theo, Raymond Westgaard, mười sáu tuổi ạ?”
“Thằng bé là cháu nội ta, con của Ulmer, con trai cả của ta. Nó và Kristian chơi rất thân với nhau. Ngày mai, cháu sẽ gặp Ulmer và vợ nó, Helen, cùng những người còn lại ở nhà thờ. Bọn chúng sống dọc ven đường tới thị trấn bên cạnh.”
Linnea đọc to hai cái tên tiếp theo, “Patrica và Paul Lommen, mười lăm tuổi”.
“Anh em song sinh nhà Lommen. Nhà đó sống ngay cạnh nơi ở của Ulmer. Hai thằng đều sắc sảo như dao. Chúng lúc nào cũng cạnh tranh khốc liệt, đương nhiên giữa những đứa trẻ sinh đôi thì đó hẳn là lẽ tự nhiên. Patrica mới thắng cuộc thi Ong đánh vần năm ngoái.”
Linnea ghi chú lại điều này cạnh tên của Patrica trước khi tiếp tục đọc lớn, “Anton Westgaard, mười bốn tuổi”.
“Tony bé nhỏ. Thằng bé cũng là thành viên của nhà Ulmer và Helen. Nó khá nhút nhát giống John, nhưng bù lại nó có một trái tim nhân hậu. Tony từng bị sốt thấp khớp khi còn nhỏ nên rất yếu ớt. Tuy nhiên, thằng bé lại rất thông minh.”
Linnea ghi chú biệt danh của Tonny, kèm theo lời nhắc nhở về sức khỏe của cậu.
“Allen Severt, mười lăm tuổi.”
“Allen là con trai của mục sư. Nhớ để mắt đến thằng bé này. Một thằng chuyên gây rắc rối.”
Linnea ngước lên nhìn bà đang nhăn mặt. “Chuyên gây rắc rối sao ạ?”
“Đôi khi ta cho là thằng bé biết nó có thể làm thế vì nơi này chỉ có một người duy nhất nhận được nhiều sự kính trọng hơn một giáo viên, đó chính là mục sư. Giá mà các giáo viên từng tới nơi này trong những năm vừa qua chịu đưa nó vào khuôn khổ, và cho Reverend Severt biết những chuyện quỷ quái mà Allen dính dáng, thằng bé hẳn sẽ không tác oai đến vậy.”
“Em ấy nghịch ngợm những trò gì?”
“Ồ, chẳng hạn như xô đẩy những đứa bé hơn, trêu chọc lũ con gái bằng những cách chẳng vui vẻ gì, dù không có vụ nào bị coi là nghiêm trọng. Nếu có, nó đủ xảo quyệt để giấu tiệt mọi sự dính dáng của mình, và vì thế nó chẳng chịu tội danh nào cả. Nhưng hãy coi chừng. Thằng bé rất mạnh miệng và bạo gan. Đừng quan tâm đến nó nhiều như ta, cháu sẽ có nhận định của riêng mình khi gặp nó thôi.”
Hứa với Nissa là cô sẽ làm theo lời bà dặn, Linnea tiếp tục với cái tên khác, “Libby Severt, mười một tuổi”.
“Nó là em gái của Allen. Con bé hầu như bị bỏ mặc vì Allen đã giành trọn sự chú ý trong gia đình. Con bé có vẻ là một đứa trẻ ngoan.”
“Frances Westgaard, mười tuổi.”
“Con bé cũng là người nhà Ulmer và Helen. Con bé chiếm một chỗ đặc biệt trong tim ta. Chắc vì nó là đứa chậm chạp nhất trong mấy đứa cháu. Nhưng cháu sẽ chẳng gặp được đứa bé nào lại vui vẻ và đáng yêu như thế trong đời đâu. Cứ chờ đến Giáng sinh mà xem. Con bé sẽ là đứa đầu tiên tặng cho cháu món quà chứa hàng nghìn ý nghĩa.”
Linnea mỉm cười rồi phác thảo một bông hoa phía sau tên cô bé. “Norna Westgaard, mười tuổi.”
“Con bé là cháu nội ta, con của Lars, và vợ nó, Evie. Nó là con cả. Xuống cuối danh sách, cháu sẽ thấy Skipp và Roseanne. Chúng đều là các em của Norna.”
Nissa trầm mặc một lúc trước khi tiếp tục, như thể đang thầm trả lời một số câu hỏi. “Ta cho rằng Roseanne sẽ không đi học trong năm nay. Chúng đều là những đứa trẻ ngoan.”
Linnea mỉm cười trước sự thiên vị của bà và cúi thấp để Nissa không thấy cô đang cười. Cái tên tiếp theo trong danh sách là Skipp, cô đánh dấu ngoặc tên của cậu với tên của những anh chị em trong nhà, không quên ghi chú rằng ngoài Skipp còn có hai học sinh mới chỉ tám tuổi nữa trong danh sách, lớp Ba có thể sẽ là lớp lớn nhất dành cho con bé. “Bent Linder và Jeannette Knutson.”
“Bent là cháu ngoại ta, con của Clara và vị đồng nghiệp tốt bụng của nó tên Trigg Linder; chúng sinh được hai đứa. Chúng đang chờ đợi đứa thứ ba ra đời vào tháng Hai tới.” Nissa nhìn xa xăm, tay thõng xuống trong một lúc. “Lạy Chúa, thời gian trôi mới nhanh làm sao. Nghĩ lại tưởng như mới hôm qua, lúc Clara còn cắp sách tới trường.” Bà thở dài. “Đứa tiếp theo là ai?”
“Jeannette Knutson.”
“Con bé là con của Oscar và Hilda, cháu biết họ chứ nhỉ? Chủ tịch hội đồng nhà trường?”
“Ồ, dĩ nhiên là cháu biết. Cháu cũng có hai học sinh mới bảy tuổi. Roseanne và Sonny Westgaard.”
“Anh em họ. Roseanne thì ta đã nói với cháu rồi, nó là con của Evie, Sonny là con của Ulmer. Thằng bé được đặt theo tên của cha nó, nhưng lúc nào nó cũng bị gọi là Sonny.”
Những ghi chú của Linnea bắt đầu trở nên rối rắm, cũng giống vẻ mặt cô.
Nissa bật cười, đặt một đĩa sandwich lên bàn, lau tay vào tạp dề và trở lại bếp. “Cháu sẽ rõ hơn khi gặp bọn chúng. Sẽ chẳng tốn chút thời gian để cháu được gọi chúng bằng tên thân mật, và nhớ rằng chúng đến từ nhà nào. Mọi người đều biết về những người sống quanh đây, cháu cũng sẽ như thế.”
“Rất nhiều trong số này đều là cháu bác ư?” Giọng Linnea có chút sợ hãi.
“Mười ba. Sẽ là mười bốn khi Clara sinh đứa tiếp theo. Ta luôn tự hỏi ta sẽ có thêm bao nhiêu đứa nữa nếu John kết hôn và Melinda không...”
Nhưng ngay lúc đó, những người đàn ông tiến vào phòng, Nissa lập tức ngậm chặt miệng. Bà ném một cái nhìn thận trọng ngang qua căn phòng về phía Theodore, rồi đột nhiên bỏ vào kho thực phẩm, mang ra con dao thái thịt.
Melinda là ai, Linnea tự hỏi. Vợ của Theodore? Mẹ của Kristian?
Nếu không phải, thì người đó là ai mới được?
Khi hai cha con Theodore vào nhà, Linnea bí mật nghiên cứu họ. Cô thử tưởng tượng cảnh Theodore sánh bước bên vợ. Chị ấy trông sẽ thế nào nhỉ? Tóc vàng hoe, có thể chính màu tóc sáng của Kristian là thừa hưởng từ mẹ. Xinh đẹp, cô quyết định thế khi lưu ý tới những đường nét trên khuôn mặt hấp dẫn của chàng trai trẻ.
Liệu có phải khuôn miệng quyến rũ và bờ môi đầy đặn của Kristian cũng được thừa hưởng từ mẹ không? Có thể lắm, vì miệng Theodore khác hẳn với cậu. Khó có thể hình dung nổi sẽ có lúc khuôn miệng ấy nở nụ cười, vì cô chưa từng một lần có diễm phúc thấy nó.
Từ chỗ ngồi bên bàn ăn, cô quan sát anh ngửa đầu uống nước từ trong gáo. Bỗng nhiên anh quay đầu lại và bắt quả tang Linnea đang soi mói mình. Họ tiếp tục nhìn nhau. Trong lúc đó, anh từ tốn thả gáo trở lại thùng, sau đó đưa lên môi, lần này thậm chí còn chậm hơn. Thứ gì đó lạ lẫm nhói lên trong lồng ngực Linnea. Ánh nhìn của anh khiến cô phải cụp mắt xuống danh sách tên học sinh đặt trên quyển sổ đang để mở trên bàn.
“Về lấy bánh mì”, anh nói vu vơ. Trong giây lát, anh đã xuất hiện cạnh cô, cầm những chiếc bánh mì béo ngậy lên và đưa hai cái cho Kristian.
“Đi thôi!”
“Gặp lại chị vào bữa tối nhé”, Kristian chào cô từ ngoài cửa, cô nhìn lên đáp lại nụ cười của cậu.
“Ừ, gặp lại em vào buổi tối.”
Nhưng Theodore chẳng chào cô lấy nửa lời, anh chỉ bước theo sau con trai, còn Linnea thì chìm trong tư lự không hiểu cảm giác trong cô là gì.
Bối rối chăng? Cô thử gán cho nó một cái tên, có lẽ người đàn ông này, bằng cách nào đó, đã sở hữu thứ sức mạnh khiến cô kinh hãi trong hầu hết các cuộc nói chuyện đầy xa cách của họ.
Nissa đã trở lại, đặt ấm pha cà phê lên phần bếp nóng nhất, rồi chuyển ánh mắt về ngưỡng cửa nơi Theodore vừa bước ra ngoài.
Linnea hít một hơi thật sâu lấy thêm can đảm trước khi hỏi, “Melinda là ai, bác Nissa?”.
“Cháu có muốn đặt thêm một đôi giày khác không?” Nissa gật đầu về phía cuốn catalogue trên bàn. “Lúc nãy...”, Linnea dừng lại một chút trước khi lặp lại những lời mình vừa nói, “Ai là Melinda ạ?”.
“Con bé là vợ của Teddy, nhưng nó không thích ta nhắc tới Melinda đâu.”
“Tại sao ạ?”
Nissa vừa đẩy cặp kính xuống sống mũi, vừa trả lời, “Nó bỏ lại Kristian cho Teddy khi thằng bé mới một tuổi, từ đó chúng ta không bao giờ gặp lại nó thêm lần nào nữa.”
Linnea phải mất một chút nỗ lực để kiềm chế những tiếng hổn hển. “Một... đứa trẻ một tuổi ư?”
“Ta đã nói thế, phải không nhỉ?”
“Ý bác là Kristian ư?”
“Cháu có thấy thêm đứa con nào khác của Teddy quanh đây không, con gái?”
“Ý bác là chị ấy... chị ấy đã... bỏ họ?”
Có điều gì đó khiến lòng cô thắt lại, một niềm thương cảm đầy nhức nhối, một thôi thúc khiến cô muốn biết nhiều hơn nữa.
Nissa ngồi xuống, dùng ngón cái lật những trang giấy dày của cuốn catalogue, tìm kiếm. Chỉ sau hai cú lật sách, bà đã tìm được trang mình cần. “Trang này có vài đôi...” Bà nghển cổ nhìn những dãy hình đen trắng qua đôi mắt kính đã được lau sáng bóng. “Đây có mấy đôi giày lội tuyết cho phụ nữ. Đôi này khá hợp đấy. Nó sẽ tốt cho chân của cháu.” Bà chỉ vào trang giấy. Ngón tay trỏ mảnh khảnh không còn nõn nà như thời con gái. Linnea khẽ phủ tay lên bàn tay già nua của Nissa, cô dịu dàng nói, “Cháu muốn biết nhiều hơn về Melinda”.
Nissa ngước mắt nhìn cô. Mắt kính hình ô van phóng đại đôi mắt màu nâu nhạt của bà, làm hằn thêm những vết nhăn nơi khóe mắt. Bà lặng lẽ dò xét Linnea. Bà nhìn ra sân phơi, nơi hai cha con Theodore, những người thân của bà, đã khuất dạng, sau đó rút tay khỏi tay Linnea, đẩy quyển catalogue trở lại bằng hai ngón trỏ. “Thôi được. Nếu cháu muốn, ta sẽ cho cháu biết mọi thứ ta chứng kiến. Trước tiên cháu đi lấy cho ta một tách cà phê đã, được chứ?”
Là do Linnea tưởng tượng, hay đây là lần đầu tiên Nissa tỏ ra mệt mỏi? Cô đứng lên, tìm một chiếc cốc, rồi rót đầy cà phê. Khi quay lại, cô thấy Nissa chẳng những trở nên yếu đuối mà trong mắt bà còn chứa đựng nỗi buồn không thể che giấu.
“Mùa hè năm 1900, chồng ta, Hjalmar, luôn cho rằng Theodore Roosevelt1 mới là người đàn ông vĩ đại nhất từng đặt chân lên trái đất này. Tất cả mọi người nơi này đều yêu Old Four Eyes2, cháu biết đấy, họ luôn coi ông ta như người con của vùng đất. Ông ta là vị anh hùng của tổ quốc. Nhưng chẳng có ai trên đời này lại ngưỡng mộ ông ấy nhiều như Hjalmar.”
1 Tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ, thường được công chúng gọi là Teddy. Ông là người thực hiện cuộc đàm phán kết thúc cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) và được trao giải Nobel Hoà bình cho chiến công này.
2 Tên gọi thân mật của Theodore Roosevelt.
“Mùa hè năm đó, Roosevelt quyết định ứng cử Phó Tổng thống cùng Ngài McKinley, và Hjalmar nhà ta nghe được tin con tàu chạy xuyên suốt chiến dịch ứng cử của họ sẽ đi qua Williston.
Tạc lòng tạc dạ ngày hôm đó, ông ấy đã về nhà và gọi lớn 'bà xã', ông ấy thường gọi ta như thế mỗi khi quá phấn khích. ‘Bà xã’, ông ấy gọi, 'đóng gói hành lý đi, chúng ta sẽ đến Willistion gặp Roosevelt!’.”
“’Sao cơ chồng, em không thể tin nổi’, ta nói. ‘Hjalmar, anh đang nói gì thế? Anh lại vừa nốc một đống bia ở nhà Helgeson về sao?’ Người từng là bạn của chúng ta tên là Helgeson, sống ở vùng kế bên và thích tự ủ bia tại gia, hai người bọn họ lúc nào cũng nói việc nếm thử là cần thiết...”
Nỗi nhớ nhung khiến ánh mắt Nissa trở nên dịu dàng, và nụ cười như chực chờ trên môi bà. Đột nhiên bà hắng giọng, nhấp một ngụm cà phê, kéo mình trở lại vấn đề chính.
“Vậy nên Hjalmar nói rằng trên đời này làm gì có thằng nào được đặt theo tên của Teddy Roosevelt lại để lỡ cơ hội gặp người trùng tên với mình bằng xương bằng thịt, giờ ông ấy chỉ còn cách người đó chưa tới sáu mươi dặm, vì thế, cả ba người chúng ta sẽ đến Williston để bắt kịp con tàu.”
Nissa nắm chặt hai tay, khẽ đặt chúng lên quyển catalogue. “Chà, nói sao được nhỉ, đó là những gì chúng ta đã làm. Cưỡi ngựa tới Williston, thuê một phòng trong khách sạn Manitou, ăn diện bảnh bao nhất có thể trong những bộ cánh dành cho ngày Chủ nhật, tới nhà ga để chờ con tàu tới.” Bà chậm rãi lắc đầu. “Ta sẽ kể cho cháu nghe ở đó chúng ta thấy điều gì.”
Bà ép tay lên ngực. “Ở nơi đó, ban nhạc đồng quê nổi tiếng cất lên những bài ca diễu hành, những đứa trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường vẫy cờ Mỹ. Rồi con tàu đến nơi, toàn bộ các khoang đều được trang hoàng băng rôn, cờ hiệu... và ông ấy đứng đó, Ngài Roosevelt bằng xương bằng thịt, trên khoang hành khách cuối cùng, giơ tay vẫy chào chúng ta, hai má đỏ ửng như những đường sọc trên quốc kỳ, ban nhạc bắt đầu hát vang bài quốc ca. Ta nhớ mình đã trông thấy Hjalmar, thấy nụ cười trên khuôn mặt có bộ ria mép chẳng khác gì ria mép của Roosevelt, cánh tay ôm lấy vai Teddy và chỉ vào người đàn ông vĩ đại đó trong khi hét điều gì đấy vào tai Teddy.”
Quan sát biểu hiện trên khuôn mặt Nissa, Linnea có thể hình dung được toàn bộ mọi chuyện diễn ra lúc đó. Khi nhìn lên, Nissa giật mình nhận ra chính bà đang mơ mộng, liền buông tay khỏi ngực và đặt lên cốc.
“Đúng thế, con bé ở nơi nào đó trên tàu, là Melinda. Cha con bé làm cho uỷ ban vận động của McKinley hoặc Roosevelt, và mẹ con bé đã qua đời, vì thế con bé đi khắp nơi cùng cha nó. Chuyện gì đến đã đến, họ ở lại Williston lâu hơn một tiếng còi dừng. Dường như ở đây có một vài đồng nghiệp giàu có thuộc gia đình Hagens, những người đã hào phóng ủng hộ cho chiến dịch, và nơi này cũng thường xuyên có những cuộc biểu tình khi nông dân có cơ hội nói với các ứng viên và nhận được những hứa hẹn. Sau đó trong bữa tối ở Manitou, những người chủ chốt của McKinley có mặt quanh bàn để trả lời câu hỏi, Melinda và cha con bé đã trả lời tại bàn của chúng ta.”
“Ta không nhớ quá nhiều về nó, chắc đó là lỗi của ta và Hjalmar khi không để mắt nhiều đến con trẻ, nhưng vì ông ấy quá bận rộn nói về chính trị, còn ta thì dán mắt lên cái khách sạn tuyệt diệu ấy. Ta nhớ như in lúc đó có một ban nhạc chơi ở đấy, ta đã huých vai Hjalmar và nói 'Anh nhìn bên kia được không'. Vì ở đó, Teddy đang khiêu vũ cùng cô gái trẻ Melinda. Tất nhiên Hjalmar, lúc ấy đang mải mê với việc tranh cãi về điểm tốt và điểm xấu của hệ thống dịch vụ dân sự mới mà Ngài Roosevelt đề ra. Ta chẳng nhớ được Teddy trở lại lúc mấy giờ và nói với chúng ta rằng thằng bé cùng quý cô trẻ tuổi kia sẽ ra ngoài đi dạo một lát. Chắc chắn ta cảm thấy kinh ngạc, nhưng suy cho cùng, Teddy cũng đã mười bảy tuổi.”
Linnea thử tưởng tượng cảnh Theodore lúc mười bảy tuổi, cảnh Theodore khiêu vũ, rồi cảnh anh đưa quý cô trẻ tuổi ra ngoài đi dạo, đặt tay cô lên tay anh, nhưng không thể. Cô mới chỉ được chứng kiến bản tính nóng nảy của anh, nên những cảnh tượng đó dường như không đúng với cá tính mà cô từng chứng kiến.
“Nhưng có mười bảy hay không thì thằng bé cũng khiến chúng ta kích động trước khi bình minh tới. Chúng ta đã chờ thằng bé, liên tục kiểm tra với cha của Melinda, nhưng con bé cũng không quay trở lại, mãi đến tận năm giờ sáng chúng mới về, nắm chặt tay nhau trên đường vào sảnh.”
Nissa mải mê nhìn lên, tay khoanh trước ngực. “Cháu đã bao giờ chứng kiến cảnh một con chồn lỉnh vào chuồng gà chưa? Đó là những gì chúng ta trông thấy khi cảnh tượng đó đập vào mắt. Hẳn rồi, lúc đó ta đã khuỵu xuống, nhưng lạy Chúa, ta chưa từng nghe tiếng la hét và quát tháo nào như tiếng của cha Melinda khi kéo con bé vào phòng họ phía dưới sảnh và quăng ra những lời buộc tội con bé. Con bé chỉ lí nhí thú nhận chúng mới hôn nhau mà chẳng làm điều gì đáng xấu hổ cả, và nếu như được sống trong một căn nhà yên ổn như những bé gái khác, con bé đã không phải ra ngoài cả đêm để tìm kiếm những người bạn mới.”
Nissa quệt miệng, nhìn chằm chằm cốc cà phê đã nguội ngắt của mình. “Ta chưa bao giờ hỏi chúng đã ở đâu đêm hôm đó, hay đã làm gì với nhau. Nói thật là ta không nghĩ mình muốn biết điều ấy. Chúng ta chỉ kéo Teddy vào phòng, đóng sầm cửa lại, trong khi con bé vẫn cư xử như một chú mèo hoang trong sảnh, và những cái đầu đã thập thò ngoài cửa để chứng kiến trò vui. Thật kinh khủng làm sao!”
Nissa thở dài. “Chúng ta cho rằng mọi chuyện thế là kết thúc, sáng hôm đó, chúng ta kéo Teddy ra khỏi khách sạn, không gặp Melinda thêm lần nào nữa. Nhưng con biết không, chưa đến một tuần sau, con bé đã xuất hiện ở cửa bếp nhà ta, bạo gan và không biết xấu hổ, lúc đó chúng ta vẫn sống ở nhà John. Nó nói muốn gặp Teddy và hỏi ta liệu ta có vui lòng cho nó biết nó có thể tìm thấy thằng bé ở đâu không.”
Nissa lắc đầu không thể tin nổi. “Ta có thể thấy qua vẻ mặt con bé rằng nó sẽ chẳng đủ lòng dũng cảm để khẩn cầu thêm lần thứ hai khi nó đứng đó, trên những bậc thềm, yêu cầu được gặp con trai ta. Ta nghĩ đó là một trong những lần ta điên tiết nhất trong đời.” Nissa tiếp tục trôi vào ký ức, lặng lẽ trầm tư.
“Chuyện gì đã xảy ra lúc đó?”, Linnea khuyến khích bà kể tiếp.
Nissa nhìn lên, thở dài một tiếng rồi tiếp tục, “Những gì xảy ra tiếp theo là con bé hùng hổ tiến về phía cánh đồng nơi Teddy đang gặt lúa mì cùng Hjalmar và những cậu bé khác. Con bé nói rằng nó quyết định tới đây kết hôn với thằng bé, giống như những gì chúng đã nói với nhau. Ta chưa từng hỏi Teddy, nhưng theo ta thấy, sự xuất hiện của con bé và những phát ngôn của nó cũng đã khiến Teddy ngạc nhiên nhiều chẳng kém gì những người còn lại. Nhưng thằng bé chưa từng thú nhận điều đó. Chỉ cần nhìn vẻ mặt cũng hùng hổ giống vẻ mặt của Melinda, thật dễ dàng để thấy nó đã mất hẳn lập trường rồi”.
“Chúng kết hôn suôn sẻ và nhanh chóng. Hjalmar tặng cho thằng bé mảnh đất này, đàn ông trong nhà đã cùng nhau dựng ngôi nhà này cho bọn chúng. Chúng ta đã tự hỏi làm sao mọi chuyện lại diễn ra như thế, nhưng đều hy vọng vạn sự sẽ tốt lành. Sau đó, chúng ta biết con bé đã phải đấu tranh với cha nó nhiều như thế nào về chuyện nó phải chu du trên những chuyến tàu, và ta cho rằng sự thực phía sau cuộc hôn nhân đó chính là con bé bị áp đặt phải làm chuyện nọ chuyện kia nên mới có quyết định bốc đồng rằng mình không chấp nhận bị áp đặt nhiều hơn nữa.”
“Vậy nên con bé đã kết hôn với con trai ta. Nhưng nó không phù hợp.” Nissa lắc đầu. “Không bao giờ. Con bé là người thành phố, và ta chẳng tài nào hiểu nổi nó muốn những gì ở chàng trai nông thôn. Đầu tiên, con biết không, nó cũng học lối sống của gia đình ta, ta vẫn có thể nhớ rõ mồn một cảnh nó đứng bên cửa sổ, nhìn chằm chằm ra những cánh đồng và nói rằng nơi đó khiến nó phát điên. Chúa ơi, sao nó lại có thể thường xuyên nguyền rủa những cây lúa mì đến thế! Cây, con bé nói, ngoài kia chẳng có cái cây nào cả. Và quá yên ắng. Nó cho rằng mặt trời khiến da nó xấu đi, và những con ruồi khiến nó phát bực, mùi chuồng trại cũng làm nó đau đầu. Sao Teddy lại cho rằng một đứa con gái như thế có thể trở thành một người làm nông được chứ, ta không hiểu nổi. Vì sao ư, nó chẳng biết gì về trồng trọt, nó không thích móng tay xinh đẹp của mình bị vấy bẩn, nó thậm chí không biết làm thế nào để trồng một cây rau.”
Nissa buông một âm thanh đầy khinh bỉ, “Thật vô học” rồi lại lắc đầu, khoanh tay chặt hơn. “Đứa con gái đó”, bà kết thúc, như thể vẫn còn bối rối trước sự lựa chọn của con trai mình.
“Ta đã chứng kiến điều đó nhưng lại chẳng làm gì được. Teddy, thằng bé quá hạnh phúc lúc con bé đến. Sau đó, khi biết đứa con của mình sắp chào đời, thằng bé thấy vô cùng vinh dự. Nhưng càng ngày, những lời phàn nàn của vợ nó càng ít dần rồi thôi hẳn, và con bé bắt đầu hành động như thể một người mẹ ngoan hiền. Đầu tiên, sau khi Kristian ra đời, ta có thể thấy con bé đã cố gắng để trở thành một người mẹ tốt, nhưng vô ích. Teddy không bao giờ nói ra điều này, nhưng Clara thường tới nhà chơi với đứa nhỏ, và khi trở về, con bé kể với chúng ta về những lời phàn nàn chẳng ngừng nghỉ của Melinda. Nó chưa từng ngừng kêu ca, nhưng con trai ta có thể làm được gì chứ? Con trai ta làm sao biến đất trồng mì thành rừng được. Nó cũng không thể đặt một thành phố vào giữa nông trang này cho con bé được.”
“Rồi một ngày, con bé chỉ đơn giản là rời đi. Bỏ lại một tờ ghi chú nói với Kristian rằng con bé yêu nó nhiều như thế nào, và nó xin lỗi, nhưng ta chưa từng được đọc tờ giấy đó, hoặc ta cũng chưa bao giờ hỏi về nó. Clara là người kể cho ta.” Lại một lần nữa, những suy nghĩ của Nissa nhạt nhòa dần.
“Sau đó bác đã chăm sóc cho Kristian?”
Một cái nhìn buồn bã khác hiển hiện trong ánh mắt Nissa. “Ta và Clara. Con thấy đấy, năm đó, Hjalmar qua đời. Một đêm mùa xuân, chúng ta tới nhà thờ để giúp đỡ Cha xứ dọn nghĩa trang như mọi năm. Khi chúng ta về nhà, đứng trước cửa bên ngoài phòng bếp, và ta vẫn nhớ như in cảnh Hjalmar đút tay vào túi áo, ngước mắt nhìn lên ngôi sao đầu tiên lấp ló trên bầu trời, nói với ta rằng, ‘Nissa, chúng ta có rất nhiều thứ để biết ơn. Ngày mai trời sẽ trong xanh lắm đấy’. Rồi cứ như thế, ông ấy nấc lên, ngã xuống và chết ngay nơi bậc thềm. Ông ấy thường nói với ta, ‘Nissa, anh muốn khi chết, anh sẽ chết trong lúc làm việc’, và con biết đó, ông ấy đã đạt được ước nguyện của mình. Ông ấy đã làm việc cho đến tận giờ phút cuối cùng trước khi ngã xuống ngay dưới chân ta. Không phải đau đớn. Không phải chịu đựng bệnh tật. Ra đi như một người được Chúa trời ban cho mọi phước lành. Ta hỏi con, phụ nữ còn cần gì hơn là được thấy chồng mình ra đi thanh thản đến thế chứ?”
Căn phòng trở nên im ắng. Đôi tay già nua rắn chắc của Nissa thả lỏng, bắt chéo dưới bộ ngực chảy xệ. Trong mắt bà hiện lên thứ ánh sáng của những ngày xưa cũ, nhìn xa xăm xuống miếng vải dầu thêu hoa đỏ thắm nằm dưới cuốn catalogue.
Cái chết là điều mà cô chưa từng suy nghĩ tới, và chắc chắn không bao giờ cô coi nó là thứ gì tốt đẹp. Dõi theo ánh mắt Nissa, Linnea đột nhiên hiểu được vẻ đẹp của cuộc sống trường tồn, nhận ra rằng với những người như Nissa, họ cần nhiều điều hơn cả cái chết để có thể phủ nhận vẻ đẹp đó.
Nissa đưa cốc lên môi, không nhận ra cà phê đã nguội lạnh. “Khi thiếu vắng Hjalmar, ngôi nhà chẳng bao giờ còn như trước được nữa, vì thế ta đã để nó lại cho John rồi chuyển tới đây để chăm sóc cho Teddy và đứa trẻ. Từ đó trở đi, ta đã ở hẳn nơi này.”
“Còn Melinda thì sao? Cô ấy đã ở đâu?”, Linnea nhẹ nhàng hỏi, nín thở vì một vài lý do không thể giải thích được. Cô ngồi tĩnh lặng chờ đợi câu trả lời của bà.
“Melinda bỏ đi và bị xe tải cán chết ở Philadelphia khi Kristian sáu tuổi.”
Ôi, cháu hiểu. Cô không nói ra những lời này. Một tiếng chuông đã làm tâm trí cô rung động, cô thở hắt ra, rồi từ từ thả lỏng vai, không gian thiếu đi tiếng gõ khe khẽ của những ngón tay Nissa lên quyển catalogue. Linnea cố tưởng tượng ra khuôn mặt họ, nhưng những gì cô có thể vẽ ra trong tâm trí chỉ là một người với bộ ria mép màu trắng, và người còn lại với đôi vai rũ xuống, cô nhìn xa xăm ra phía cửa sổ, tới cánh đồng nơi mà thậm chí cho đến tận lúc này, Theodore vẫn đang cần mẫn gặt những cây lúa mì.
Cô nhìn về phía cửa sổ. Vậy ra đây chính là lý do khiến anh trở nên cay nghiệt đến vậy. Anh còn quá trẻ, nhưng lại mang vết thương lòng quá sâu. Cô cảm thấy tội lỗi vì sự thiếu kiên nhẫn và giận dữ mình đã dành cho anh. Cô ước gì mình có thể bằng cách nào đó thu hồi lại chúng, nhưng dù có thể, thì chuyện đó sẽ mang tới điều gì tốt đẹp cơ chứ? Nó chẳng thể thay đổi những điều anh đã phải chịu đựng trong quá khứ.
Còn cả Kristian tội nghiệp nữa. Kristian đã lớn lên mà thiếu vắng tình mẫu tử.
“Kristian có biết chuyện đó không?”, Linnea đồng cảm hỏi.
“Rằng mẹ nó đã bỏ đi ư? Thằng bé biết, nhưng nó là một đứa trẻ ngoan. Nó đã có ta, Clara và hàng tá cô dì chú bác khác. Ta biết chúng ta không thể sánh với mẹ nó, nhưng nó thích nghi được. Chà...” Cảm xúc lại bị phá vỡ khi Nissa liếc mắt xuống quyển catalogue. “Chúng ta chọn đôi này nhỉ, được không?”
Họ chọn một đôi giày cao cổ chất liệu bằng da bê màu đen, được tờ catalogue quảng cáo rằng phần phía trước làm từ da bê đang độ trưởng thành. Trong lúc Linnea điền vào lá thư đặt hàng, Nissa thêm vào lời tái bút cho câu chuyện riêng tư của bà, “Ta đánh giá cao nếu cháu không kể cho Teddy những gì ta vừa nói.
Thằng bé không nhắc nhiều về vợ nó, và, chà, cháu biết thừa là đàn ông sẽ phản ứng thế nào rồi đó. Ta cho là cháu chỉ cần biết mình sẽ dạy dỗ Kristian, thế là đủ”.
Tiếc là Linnea không biết đàn ông sẽ phản ứng ra sao. Và lúc này cô đang cố học điều đó. Tuy nhiên câu chuyện của Nissa đã ảnh hưởng lớn tới cô. Cô nhận ra mình đang tự hứa với bản thân rằng trong tương lai, cô sẽ đối xử với Theodore một cách kiên nhẫn hơn.
Những người đàn ông trở lại ngôi nhà vào tối muộn ngày hôm đó. Khi họ bước vào, Linnea thấy mình đang soi xét Theodore như thể cô đang mong chờ sự thay đổi nào đó trong dáng vẻ của anh. Nhưng trông anh chẳng khác gì ngày thường, vẫn mạnh mẽ, ảm đạm và chẳng vui vẻ gì. Suốt bữa tối, cô ý thức được thực tế là anh đã học được cách kiềm chế bản thân khỏi việc liếc cô, anh cũng không mở miệng nói chuyện với cô kể từ lúc cô chỉnh lời anh hồi chiều. Khi tất cả mọi người đã yên vị tại bàn, John lúng túng nhưng cũng rất lịch sự gật đầu chào cô, kèm theo câu nói bẽn lẽn, “Chào cô giáo”. Kristian thì chỉ lén lút liếc nhìn cô sau khi ngại ngùng chào hỏi. Theodore chỉ chăm chăm tập trung vào đĩa của mình mà chẳng làm bất cứ điều gì khác.
Khi đã ăn được nửa bữa, cô không thể chịu đựng nổi sự coi thường của anh thêm nữa, cô bị choáng ngợp bởi mong muốn kết thúc tình trạng thù địch giữa họ. Có lẽ những gì cô thực sự muốn chính là, bằng cách nhỏ nhoi nào đó, có thể cứu vớt Melinda.
Anh đang cắn một miếng khoai tây nghiền cùng nước sốt lúc cô dán mắt vào anh, lẳng lặng nói, “Theodore, tôi muốn xin lỗi vì đã xẵng giọng với anh hồi chiều”.
Anh ngừng nhai, hướng ánh nhìn lên cô lần đầu tiên trong cả buổi tối, đồng thời cố che đi vẻ ngạc nhiên.
Cô tiếp tục, “Tôi rất vui vì không học sinh nào của mình thấy tôi lúc này bởi tôi đã chẳng làm gương cho chúng. Tôi đã có thái độ mỉa mai và nạt nộ, hai kiểu thái độ hẳn không phải cách để đối xử với người khác, và việc mở miệng yêu cầu một cách tử tế là chuyện rất dễ dàng. Vì thế, lần này tôi đang yêu cầu rất tử tế rằng, từ nay về sau, Theodore, anh có thể vui lòng nói thẳng với tôi khi tôi ở trong phòng, thay vì nói với qua như thể tôi không hề có mặt ở đó, được chứ?”.
Theodore chăm chú nhìn cô một lúc trước khi hấp háy nhìn Nissa, sau đó tới Kristian. Kristian đã ngừng ăn và hướng ánh mắt kinh ngạc vào cô Brandonberg, người đang hạ bệ cha cậu, và toàn bộ quá trình được thực hiện bằng thái độ lịch sự, nhã nhặn nhất, cùng ánh mắt nhìn thẳng vào Theodore, người đang gặp khó khăn trong việc đáp trả lại cái nhìn đó. Hơn nữa, cô lại làm thế vào giữa bữa ăn. Không ai quanh vùng này thèm quan tâm đến việc chuyện trò khi dạ dày đang trống rỗng, cậu cũng có thể nhận ra Theodore buộc phải vĩnh biệt niềm háo hức dành cho việc tiếp tục bữa ăn của mình. Nhưng cô vẫn chằm chằm nhìn cha cậu, khiến Theodore không thể làm gì khác, mỗi giây trôi qua, mặt anh lại thêm ửng hồng.
“Phải có cách nào đó”, cô vị tha nói tiếp, “để tôi và anh sửa chữa những điều sai trái, đúng chứ?”.
Theodore không biết phải trả lời cô thế nào. Cô nàng bé nhỏ này vừa mới xin lỗi, trong ký ức của anh, đây là lần đầu tiên có cô gái mở miệng xin lỗi anh, dù cùng lúc, cô cũng có ý định mỉa mai anh là đồ trẻ con. Anh! Gã đàn ông có khi phải già gần bằng cha cô! Anh nuốt nước bọt, cảm thấy bối rối, tự hỏi sự châm biếm này có ý nghĩa gì. Nissa, John và Kristian đều đang dõi theo và lắng nghe bọn họ, chẳng ai buồn nhấc dù chỉ là một cánh tay để lấy thức ăn, rốt cuộc Theodore cũng phải nói điều gì đó!
Anh lại nuốt nước bọt, khoai tây như thể đang mắc kẹt trong họng. Anh trừng mắt nhìn vẻ mặt tươi tỉnh với ánh mắt mở to của cô, nhận ra cô trẻ trung và xinh đẹp đến nhường nào.
“Có thể lắm. Ăn tiếp đi!”
Và anh đầy biết ơn, hạ sự chú ý lên đĩa của mình.
Cuối cùng thì cô cũng đã thắng vòng này. Nhận ra ánh nhìn ngạc nhiên của John vẫn đặt lên người mình, cô liền quay sang tặng anh ta nụ cười xởi lởi, khiến anh ta vội quay đi, xấu hổ xúc lấy xúc để thức ăn.
Với John mà nói, cô giáo là một điều gì đó thực mới mẻ. Từ trước tới giờ, chưa ai đủ khả năng làm Teddy phải đỏ mặt và lùi bước, ngoại trừ mẹ anh. Anh ta nhớ tới một người phụ nữ khác, người từng có khả năng xoa dịu Teddy. Melinda. Cô ấy xinh đẹp, nhỏ bé và có đôi mắt to tròn như con bê mới sinh. Tất cả những gì cô ấy làm chỉ là quăng ánh mắt đó về phía Teddy và khiến cậu ta đỏ mặt. Rất giống với cái cách cô giáo nhẹ nhàng và nghiêm túc lên tiếng, khóa trái Teddy lại bằng ánh mắt. Melinda cũng thường nói chuyện trong bữa ăn, kể lể rằng cô ấy không thể hiểu nổi tác phong của những người Na Uy, sao họ có thể không bao giờ bàn về những điều thực sự quan trọng. Không phải người nói nhiều nên John chẳng thể nào hiểu nổi điều đó.
Anh ta ngước lên, và bắt gặp ánh mắt của mẹ.
Con vẫn nhớ, đúng không, John? Nissa nghĩ. Đó là cách John thường phản ứng lại với Melinda. Bà lại nhìn sang phải, tới chỗ cô gái đang ăn uống nhã nhặn bên kia, người hoàn toàn không hay biết gì về viên đá mà cô mới ném xuống mặt hồ, rồi quay ra nhìn Teddy, người đang hăng hái ăn nhưng lại cau mày nhìn chiếc đĩa.
Ta cho là, thằng con đầy thành kiến của ta ơi, cuối cùng thì con cũng đã gặp được người phù hợp với mình rồi.
Đó là đêm thứ Bảy. Ngôi nhà ngày càng trở nên yên tĩnh. Cô lau khô người sau khi tắm, khoác áo ngủ rồi ngồi xuống ghế võng và nghiên cứu những ghi chú mà mình đã viết cạnh tên các học sinh lúc chiều.
Cô nghe tiếng Nissa lớn tiếng gọi Kristian đi tắm, tiếng cậu xuống cầu thang với quần áo sạch, một lúc sau, là tiếng cậu đứng dậy và mặc chúng vào. Sau đó lại nghe tiếng tắm rửa của người kế tiếp, cố không nghĩ tới cảnh đôi chân dài xếp lại trong bồn tắm nhỏ xíu, và mỉm cười. Vài phút nữa, cô nghe tiếng Theodore gọi Kristian xuống lầu giúp anh mang bồn tắm ra ngoài.
Sau đó, chẳng còn gì khác ngoài sự im lặng.
John, Nissa, Kristian... Theodore, cô nghĩ. Giờ đã là gia đình thứ hai của cô. Cô thích từng người trong số họ từ phút đầu tiên. Ngoại trừ Theodore. Vậy sao cô lại nghĩ về anh nhiều nhất? Tại sao khuôn mặt không có lấy nửa nụ cười và suy nghĩ trái ngược của anh cứ luẩn quẩn trong đầu cô, thậm chí là sau khi đã tắt đèn? Tại sao cô vẫn trằn trọc khó ngủ chứ? Tại sao làn da trần trụi của anh trong bồn tắm cứ quanh quẩn trong tâm trí cô?
Ngôi nhà tĩnh lặng như tờ, chỉ sót lại mùi thức ăn trộn lẫn hương thơm của xà phòng tự chế, nhà bếp chỉ còn chút ánh sáng lờ mờ khi Theodore và con trai mang bồn tắm ra ngoài sân.
Khi nước đã được tháo cạn, Theodore đứng đó một lúc, nhìn lên trời cao và chiêm ngưỡng chúng. Một lúc sau, anh tư lự hỏi, “Kristian?”.
“Vâng?”
Anh cân nhắc từ ngữ cẩn thận trước khi phát âm chúng một cách chính xác giống như cách cô vẫn làm. “Mày có biết từ ‘châm biếm’ có nghĩa là gì không?”
“Không, con không biết. Nhưng con sẽ hỏi cô giáo Brandonberg.”
“Đừng!”, Theodore thốt lên, sau đó ý thức được mình đã nói to thế nào, và giảm cường độ lo lắng trong tông giọng xuống. “Không, biết hay không chẳng có gì quan trọng. Đừng có hỏi cô ta bất cứ điều gì về tao.”
Họ đứng trong bóng tối, tiếng dế tấu lên những bản nhạc hài hòa suốt đêm, chiếc bồn tắm lúc này nhẹ tênh trên tay hai người. Ánh trăng lấp ló trên bầu trời đầy sao chiếu lên họ, tạo ra những chiếc bóng dài và đen trên mặt đất.
“Chị ấy thật dễ thương, cha nhỉ?”, Kristian nhẹ nhàng lẩm bẩm.
“Mày nghĩ thế sao?”
“Ừm, con đảm bảo là chị ấy cũng không hề nhút nhát, yếu đuối như cha nói đâu. Sao cha lại nói thế được nhỉ?”
“Tao đã nói thế à?”
“Chứ còn gì nữa. Chị ấy không hề nhỏ bé hay yếu đuối hơn cô Isabelle, còn cha thì có vẻ luôn nghĩ rằng cứ như cô Isabelle là được ý.”
Theodore hắng giọng. “Tao nghĩ mày nên thử quan sát Isabelle đánh cái xe chở thức ăn vào sân mà xem.”
“Chà, được rồi, còn khối thứ để so sánh Isabelle với cô giáo Brandonberg, nhưng con vẫn nghĩ cô giáo Brandonberg chẳng nhút nhát và yếu đuối tý nào. Cô ấy rất vừa mắt con.”
Theodore nhìn con trai bằng ánh mắt ngờ vực, anh có thể thấy rõ hình dáng trẻ trung dưới ánh trăng sáng tỏ đêm nay. “Tốt hơn là mày đừng để cô ta nghe được điều đó, nhớ lấy cô ta là giáo viên của mày.”
“Con cho là cha đúng”, Kristian chán nản đáp, ánh mắt dán xuống nền đất đen kịt, tư lự một lúc trước khi đột nhiên ngẩng mặt lên và hỏi một cách lạc quan hơn, “Cha có muốn nghe một chuyện thú vị không?”.
“Chuyện gì?”
“Chị ấy nghĩ mấy cây kế Nga rất đẹp! Chị ấy nói sẽ cho tụi con ra ngoài đồng và vẽ chúng đấy!”
Theodore lầm bầm, sau đó thực sự bật cười, theo sau là tiếng cười của Kristian. “Ồ, chà, cô ta đích thực là gái thành phố rồi. Mày biết không, lũ con gái thành phố không thực sự thông minh cho lắm trong một số chuyện.”
Nhưng sau đó, lúc đặt lưng lên chiếc giường đôi trong phòng ngủ của mình, nơi mà tới mười bốn năm nay anh phải cô đơn trong những đêm dài, Theodore lại thử mường tượng ra cảnh một cây kế Nga nở đầy hoa, để rồi nhận ra mình thực sự không chắc trông chúng như thế nào. Cho dù trong suốt ba mươi tư năm cuộc đời, Theodore đã thấy loại cây đó hàng ngàn lần, anh chưa từng dành cho chúng bất cứ thái độ nào ngoài khinh bỉ, dù chỉ là một lần. Anh quyết định: Lần tới nếu thấy một cây kế Nga, anh sẽ tặng cho chúng một cái liếc nhìn thứ hai.