Vị cha xứ tóc bạc trắng lấy ra một sợi dây chuyền, treo rủ xuống hình thánh giá có Chúa Giê-su bị đóng đinh trên đó, giống hệt di vật của White. Ông ấy một tay cầm sợi dây chuyền, nhúng vào trong nước, tay còn lại vạch dấu hình chữ thập ở phía trước ngực, và bắt đầu niệm một tràng chú bằng tiếng Latin. Sau khi niệm chú xong, ông ấy nhấc sợi dây chuyền lên. Cha xứ nói: “Đây là nước thánh đã được nhận nụ hôn của Chúa trời”.
Cha xứ cũng viết lại cho chúng tôi câu niệm chú. Chỉ là ông ấy không chu đáo như Millea, không viết phiên âm tiếng Anh. Hóa ra đó là một đoạn lời cầu nguyện trong Phúc Âm Matthew6, chỉ có điều nó là bản gốc bằng tiếng Latin. Cha xứ còn giải thích cho chúng tôi rằng, nếu là vật phẩm có thần lực càng lớn, giống như gậy mục tử của Giáo hoàng, hoặc áo choàng đỏ của Hồng Y giáo chủ, thì độ tinh khiết của nước thánh càng cao. Tương tự như thế, nếu do người có đẳng cấp chức vụ càng cao, thậm chí là nước thánh được các thiên thần cầu chúc, sẽ càng có uy lực tiêu trừ ma quỷ.
6 Một trong bốn sách Phúc Âm của Tân Ước - viết về cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su.
Sau khi cảm tạ Cha xứ, chúng tôi rời khỏi nhà thờ rồi về nhà. Tôi đang định ngủ thêm một giấc, bỗng dưng thấy trong phòng phát ra âm thanh còn khó nghe hơn cả tiếng vĩ cầm của Shizuka7, tựa như tiếng cười điên dại của nhân vật phản diện ở phần kết cục trong phim hoạt hình. A Tam nhảy chồm chồm vào phòng, la hét một cách kỳ quái, hệt như một đứa trẻ thiểu năng trí tuệ làm trò ngu xuẩn còn tỏ ra thích thú. Để tôi đoán xem, chắc hẳn cậu ta ngửi thấy mùi rắm của chính mình bên trong ba lô mang đi hai hôm trước.
7 Nhân vật trong bộ truyện tranh Doraemon nổi tiếng của Nhật Bản.
Cho đến khi khuỷu tay bị đập mạnh vào tay đấm cửa, A Tam mới cắn răng cắn miệng dừng lại. Sau khi trút hết một loạt tiếng kêu la đau đớn, cậu ta lại tươi cười ngay được, giơ điện thoại lên nói với tôi: “Nữ thần Valeria rủ chúng ta cuối tuần này đi Key West chơi một chuyến đó!”.
Trông bộ dạng cười tươi vui mừng như kiểu IQ bị thụt lùi 10, tôi nghĩ mình không nên nói cho cậu ta biết sự thật thì tốt hơn. Số là trước đây nhân lúc cậu ấy đang tắm, tôi đã lén truy cập danh bạ của cậu ấy và đổi hai số điện thoại của Valeria với cô nàng Mập Lùn cho nhau.
Nếu nói cho cậu ta biết điều này, tôi dám khẳng định chắc chắn, chỉ trong vòng một phút, cậu ta sẽ nắm rõ toàn bộ yếu lĩnh tinh hoa của mười hình thức tra tấn tàn khốc nhất thời kỳ Mãn Thanh một cách xuyên quốc gia, vượt qua cả rào cản ngôn ngữ, cậu ta sẽ treo tôi lên và hành hạ đến chết.
Điểm cực Nam của lãnh thổ Hoa Kỳ cũng là nơi tôi luôn tò mò muốn đi xem thế nào, nên tôi đồng ý đi cùng. A Tam nhanh nhảu lôi ra một túi du lịch, bảo tôi đi với cậu ta đến Walmart mua một số thứ.
Ban nãy bị cậu ta hù cho một trận, khiến tôi tỉnh táo hơn nhiều, nên đành miễn cưỡng ra ngoài cùng cậu ta. Cái tên này cứ hễ vui mừng phấn khích, lại nói lần này mua đồ là do cậu ta chi tiền. Sau đó dưới sự ngăn trở bằng mọi cách của cậu ấy, tôi mới không vác đầu máy PS4 và màn hình LCD của Sony về nhà.
Những ngày tháng sau kỳ thi giữa kì thật là thoải mái, chỉ là trong dự án hợp tác nhóm, những “người bạn tốt” quốc tịch Mỹ mồm lúc nào cũng vâng dạ nhưng hoàn toàn không làm được, sự nhẫn nhịn của tôi cuối cùng cũng vượt quá giới hạn, nâng lên hẳn một cấp bậc mới.
Thời gian trôi thật nhanh, cuối tuần đã đến rồi. Sáng thứ Sáu, Cô nàng Mập Lùn và Valeria ngồi trên xe chúng tôi, bắt đầu xuất phát chuyến đi đến quần đảo hình vòng cung ở cực Nam Hoa Kỳ.
Vì các đĩa nhạc CD trên xe chỉ toàn nhạc Trung Quốc với Ấn Độ đã được nghe đi nghe lại, cộng với những người ngồi trong cùng một xe, là một tổ hợp kéo dài ba châu lục đến từ bốn quốc gia khác nhau, đã khiến chúng tôi gặp đôi chút trắc trở trước khi tìm thấy chủ đề chung. Nói một cách đơn giản, chúng tôi còn chưa kịp “Hey!”, nữ thần nước Nga và công chúa về cân nặng châu Phi ngồi phía sau đã ngủ từ lâu rồi. Tiếng ngáy tàn bạo của cô nàng Mập Lùn trên suốt chặng đường, khiến chúng tôi thấy mình như đang xem một bộ phim còn kinh dị hơn cả phim “Lời nguyền”.
Đi xuống phía Nam hơn hai giờ đồng hồ, cuối cùng cũng đi qua vùng đầm lầy lớn của cực Nam lục địa, bắt đầu ra đến vịnh, đi vào khu vực quần đảo. Xen kẽ trên dọc đường đi là trạm xăng thỉnh thoảng vút qua và điểm bán du thuyền second-hand, ngoài ra còn có nhà hàng nhỏ giống như hòn đảo nhân tạo, nhìn ra đại dương xanh ở một mức độ khác, có cảm giác rất Outrun (vượt nhanh hơn) giống như đang chơi đua xe trên máy Arcade game thời gian thực.
Sau khi cô nàng Mập Lùn và nữ thần nước Nga tỉnh giấc, họ liền reo hò ca ngợi phong cảnh đẹp tuyệt mỹ, lôi điện thoại ra chụp hình.
Valeria ngồi phía sau ghế lái phụ, trông thấy tôi liên tục lắc lư cái vô lăng ngay cả trên đường thẳng băng, liền cảm thấy lo lắng thắt chặt dây an toàn. Cái định vị ô tô chết tiệt này có vấn đề, đúng là thực sự phải đổi một cái xe tốt hơn rồi.
Khi tiến vào khu vực quần đảo, xe đi qua đảo Key Largo và một vài đảo nhỏ không nhớ rõ tên. Hai tiếng sau, cuối cùng chúng tôi đã đến được đảo nhỏ Key West ở điểm cực Nam của Hoa Kỳ.
Xe ô tô dừng lại, A Tam lập tức nói kiểu vuốt đuôi: “Oh no, thế là đi qua Key Deer (Tên một loài hươu đặc hữu của Florida.) - chỗ dừng chân của điểm tham quan đầu tiên rồi”. Thế nhưng nhìn điệu bộ, hình như ngoài cô nàng Mập Lùn có tướng “vượng phu” ra, thì chẳng ai thèm để ý đến câu nói của A Tam.
Làm xong thủ tục check-in tại khu du lịch đã đặt trước đó, chúng tôi lái xe đến khu vực thị trấn. Tôi đi tìm chỗ gửi xe rồi mấy người chúng tôi bắt đầu lên đường.
Hòn đảo nhỏ này quả thực rất mê hoặc, đoán chừng không rộng lớn như khuôn viên trường đại học của tôi trước đây. Nhưng lại có tiếng tăm hơn đảo đại học, những điểm tham quan nổi tiếng tuyệt vời như chính tên gọi của nó vậy, có ngôi nhà của Ernest Hemingway, Nhà Trắng Mùa Đông (Winter White House) của Tổng thống Truman và ngọn hải đăng nhỏ mà các tác giả thường nhắc đến dưới ngòi bút của mình. Trên đảo còn có điểm xuất phát của Quốc lộ 1 Hoa Kỳ, chạy thẳng về hướng Bắc, đi qua New York đến đường biên giới cực Bắc Hoa Kỳ. Ngoài ra có một cột mốc đánh dấu điểm cực Nam của lãnh thổ Hoa Kỳ, là một cột đá to lớn màu sắc sặc sỡ, đứng sừng sững bên bờ biển. Trên đó có viết: Cách Cuba 90 dặm, điểm cực Nam Hoa Kỳ (90 miles to Cuba, Southern most point).
Quang cảnh trên hòn đảo nhỏ có chút giống đảo Cổ Lãng phiên bản Mỹ. Hai cô gái trẻ, hoặc có thể nói là một cô gái và một con quái vật đang tung tăng nô đùa. Valeria bình thường vốn rất lạnh lùng, nhưng lúc này đây lại cười nói vui vẻ, trông giống như một cô bé. Nhìn cô ấy, trong lòng tôi thầm nghĩ: tuyệt đối không thể để A Tam làm hại đến cô gái này!
Lúc bọn họ xếp hàng chụp ảnh bên cạnh cột mốc điểm cực Nam, tôi đứng đạp chân lên thành lan can thấp, đưa mắt ngắm nhìn cảnh biển ở phía Nam. Ha ha, nếu đứng từ đây để nhìn thấy Cuba ở bờ bên kia gần như là điều không thể. Mấy nam thanh nữ tú ngồi trên moto lướt sóng vút ngay qua trước mắt tôi như tên bắn. Họ cười đùa ầm ĩ, có đứa nghịch ngợm kéo cần chỉnh phương hướng, ngoắc đuôi một phát, thế là bắn tung tóe nước biển lên người lũ bạn.
Do phía bên phải chúng tôi là căn cứ hải quân được bao bọc bởi các bức tường, và trên biển cũng vậy, nên những đứa trẻ không muốn quay lại đường cũ kia, chỉ có thể chạy ra khu vực biển sâu. Bốn bề sóng yên gió lặng, ánh nắng trải dài trên mặt biển, tiếng cười nói của đám thanh niên ngày càng xa.
Ở đầu bên kia mặt biển phía trước, hình như đột nhiên xuất hiện đất liền. Không thể nào, vừa nãy rõ ràng là… thứ đó không thấy nữa rồi, ánh nắng chói chang, mắt tôi nhói như bị kim đâm đến nỗi chảy cả nước mắt. A Tam hô lên: “Địch, đi chỗ khác thôi. Cậu vẫn muốn chụp hình à?”.
Tôi nhìn lại mặt biển, chẳng thấy gì nữa cả. Tôi trở lại bình thường, vẫy tay nói với họ: “OK, tôi đến đây, chúng ta đi thôi”.
Lúc đi dạo quanh thị trấn, tôi đột nhiên kêu toáng lên, khiến bà già đi ngang qua ngay cạnh cũng giật mình khiếp vía. Tôi nghĩ lại, từ lúc trông thấy hình ảnh đất liền giống như ảo giác hoặc ảo ảnh moto lướt sóng kia nữa.
Tôi vội vàng hỏi lại hai cô bạn và A Tam, rằng vừa nãy có trông thấy mấy thanh niên lái moto lướt sóng không. Bọn họ đều gật đầu khẳng định nói có. Valeria còn mở điện thoại cho tôi xem hình chụp. Trong ảnh, phía trên chiếc mũ rơm cô ấy đội, cũng chính là trong khu vực biển phía sau moto lướt sóng. Đó chính là cảnh hai đứa bạn học đang trêu đùa bạn bè của mình.
Cả cô nàng Mập Lùn và Valeria đều cười, cô nàng Mập Lùn nói: “Có thể họ đã về rồi, hoặc là lái xe ra chỗ xa hơn, bóng người nhỏ quá nên cậu không nhìn thấy được”. Tôi chưa nói với họ vài thứ, về chuyện tôi nhìn thấy đất liền. Với những lời cô nàng Mập Lùn nói, tôi chỉ có thể thầm cầu khẩn: cũng mong là như vậy.
Hai cô gái tiếp tục đi dạo cho đến tối, ở đây có một chợ đêm tên là Little Havana, có rất nhiều người bán hàng rong nhỏ bày bán một số mặt hàng thực phẩm và đồ thủ công mỹ nghệ của Cuba, không khí vô cùng náo nhiệt. Chúng tôi mua bánh sandwich tàu ngầm Cuba, thong thả đi về phía trung tâm thị trấn. Rất nhiều quán pub đông nghịt khách ngồi bên ngoài, một số cửa kính ở các nhà hàng nhỏ mang đầy phong cách nước ngoài, những chuỗi đèn nhỏ lấp lánh quấn khắp nhà, điểm sáng cả con phố thành ngôi sao rực rỡ nhất trong đêm.
Người nào người nấy ra về rất phấn khởi. Sau khi về đến nhà nghỉ, A Tam hỏi tôi: “Địch, cậu thấy đêm nay, có thể để tôi và Valeria ngủ cùng một phòng được không ?”. Cái tên này, còn dám gọi cả tên thân mật ra nữa.
“Đừng có mơ!”, tôi trợn trừng mắt nhìn cậu ta. Cậu ta vẫn muốn biện bạch thanh minh, rằng đó là một phòng bên trong có hai chiếc giường riêng biệt, nhưng tôi đeo tai nghe một cách dứt khoát không thèm đáp lời cậu ta. Lúc sau nghĩ lại, tôi rất khó hiểu, cậu ta hỏi tôi chuyện này để làm gì vậy?
Về đến khu nhà nghỉ, chúng tôi vẫn chưa muốn ngủ nên lại đi dạo xung quanh khu vực này. Phía sau phòng nghỉ là một bãi cát cao hơn mặt nước biển, trên đó trồng những cây cọ và cây dừa. Nước biển bị ngăn cách bên dưới bởi những bức tường đá thấp xây chồng lên nhau. Một cây cầu sắt nhỏ nhô ra mặt nước, dẫn thẳng đến cầu phao nổi lềnh bềnh. Có một vài chiếc ghế ngồi bãi biển đặt sẵn trên cầu phao, xung quanh bốn góc có đèn cây.
Mấy người chúng tôi ngồi trên ghế trò chuyện với nhau. Trong lúc các cô gái hăng say kể về chuyện bói toán của lũ bạn trong lớp học đa văn hóa, tôi vô tình vặn đầu, trông thấy phía sau mấy bãi đất bồi nhỏ ở đằng xa, xuất hiện khoảng đất liền rộng lớn, ở khoảng không phía trên khu vực đất liền đó, từ một màu đen sì được các vì sao chiếu sáng lấp lánh, trong chớp mắt đã đổi thành màu tím sẫm một cách kì dị.
Cảnh tượng đó chỉ xảy ra trong nháy mắt, tôi còn chưa kịp gọi mọi người đến nhìn, thì nó đã biến mất rồi.
Lúc về phòng nghỉ ngơi, cô nàng Mập Lùn vẫn cười ngây ngô rất vô tư, thoạt nhìn đây chính là nửa kia định mệnh mà ông trời an bài cho A Tam rồi. Sau cả ngày được vui chơi thỏa thích, thái độ của Valeria đối với chúng tôi rõ ràng đã gần gũi hơn, cô ấy vẫy tay thân mật nói: “Chúc ngủ ngon!”.
A Tam bắt đầu mạnh miệng nói: “Người đẹp, hãy nói một câu tiếng Nga đi”.
Valeria nở nụ cười xinh tươi, rất thoải mái tự nhiên nói thêm một câu: “Spokoynoy nochi (Спокойной ночи )!”8.
8 Chúc ngủ ngon tiếng Nga.
A Tam mặt mày hớn hở, để lộ ra lúm đồng tiền đen sì vốn không dễ nhìn thấy. Cậu ta dùng tiếng Ấn Độ nói liên tiếp vài lần: “Shubh Ratri9, Shubh Ratri, Wo Ai Ni10. Cái tên này nói đến cuối còn chêm vào câu tiếng Trung tôi dạy cho cậu ta, mức độ mặt dày vô sỉ quả là khiến người ta tức đến lộn ruột mất, nhưng chủ yếu là, đó chỉ là cách gieo vần mà thôi.
9 Chúc ngủ ngon tiếng Ấn Độ.
10 Anh yêu em tiếng Trung Quốc.
A Tam nói được một nửa, khi ấy cô nàng Mập Lùn đã bước vào trong phòng và thò đầu ra ngoài cửa sổ, hân hoan vẫy bàn tay ụ thịt của cô ấy và nói: “Eda alor!”, tôi đoán đó là ngôn ngữ của bộ tộc cô ấy.
Tôi vội vàng lớn tiếng nói: “Ivy, câu tiếng Trung ban nãy A Tam nói với cậu…”, tên A Tam liền bất chấp mọi thứ nhét thẳng bàn tay vào mồm tôi, cười gượng gạo lôi tôi vào trong phòng. Tôi nghe thấy cô nàng Mập Lùn nói: “Ha ha, Summit cậu ấy đáng yêu quá!”. Trong lòng tôi thầm cảm thấy đắc ý, mặc dù tôi chưa diễn đạt hết ý “A Tam nói với cậu rằng ‘I love you’”, nhưng xem ra bây giờ tôi đã thành công rồi.
Sau khi vào trong phòng, tôi bỏ bàn tay thối của cậu ta ra khỏi mồm mình. Tôi nắm cổ tay cậu ta giơ ngược lên trên và nhìn, đây chính là bàn tay trái mà cậu ta hay dùng để chùi mông. Tôi tóm lấy chiếc gối ôm ở đầu giường, đánh liên tiếp cậu ta bằng trận mưa gối.
Náo loạn một lúc xong chúng tôi lần lượt đi tắm rửa. Lúc trong phòng tắm, tôi nghĩ lại chuyện liên quan đến những ảo tưởng mà ban nãy chưa kịp hỏi cậu ta. Tôi quấn khăn tắm bước ra ngoài, vừa định mở mồm hỏi, thì trông thấy cậu ta không mặc gì ngồi trên giường xem tivi, đầu tóc vẫn còn nhỏ nước tong tỏng. Tôi hét lên: “Summit, cậu mau mặc đồ lót vào cho tôi!”. Kể từ khi xảy ra chuyện về linh hồn hợp hoan lần trước, lối sống sinh hoạt trong phòng của cậu bạn người Ấn Độ ngày càng không có chừng mực, khiến tôi đau đầu đến phát rồ.
Sau khi A Tam miễn cưỡng khó chịu lấy khăn che chỗ nhạy cảm lại, tôi nói với cậu ta: “Phải rồi, chiều nay cậu có trông thấy cái gì bất thường trong lúc chụp ảnh ở cột mốc cực Nam không ?”.
“Có, đó là ở thị trấn nhỏ này có rất nhiều cô gái là người châu Á như chúng ta, chẳng những vậy tôi đoán họ đều là người Trung Quốc. Họ cầm máy ảnh DSLR (máy ảnh phản xạ ống kính đơn kỹ thuật số) đi khắp nơi để chụp ảnh”, cậu ấy vừa nói vừa cười khì khì.
“Không còn gì khác nữa ư”, tôi mất hết kiên nhẫn.
“Nếu cậu nói bất thường về chuyện đó, thì tôi không thấy gì, tôi không giống cậu, nhàn rỗi chẳng có việc gì làm cứ nhìn chằm chằm vào cái hẻm không người, cứ như thể sẽ có một cô gái nude toàn tập chạy ra từ trong đó vậy”.
Lúc này đang nói đến chuyện nghiêm túc, tôi chẳng có tâm trí nào để đùa với cậu ta: “Còn buổi tối thì sao? Giống như vừa nãy lúc chúng ta ngồi tán gẫu trên cầu phao đó”.
“Ban nãy hình như có máy bay bay qua, tôi trông thấy tín hiệu nhấp nháy trên trời chỗ đằng xa”. Cậu ấy nhìn tôi có chút lo lắng, có lẽ nghĩ rằng tôi bị bệnh. Theo ý của cậu ta, không thể nào có chuyện chúng tôi cứ đi đến đâu, là ở đó lại xảy ra những chuyện thần bí.
Tôi gạt mạnh bàn tay đang có ý định xoa lên đầu tôi của cậu ta, quát lên: “Bỏ ra! Tôi đang rất nghiêm túc”. Và rồi tôi kể lại với cậu ta toàn bộ sự việc xảy ra vào buổi chiều bên cột đá, về đám thanh niên gây náo loạn và sự xuất hiện đột ngột của đất liền, cùng với hình ảnh đất liền ban nãy lại hiện ra, ngoài ra còn cảnh tượng bầu trời biến thành màu tím sẫm. Tôi nói với A Tam: “Tôi muốn điều tra xem ở thị trấn nhỏ này có điều gì bí mật, hoặc những chuyện tai nạn trên biển”.
Tôi và cậu ấy cùng lấy giấy chứng nhận thẻ cảnh sát trong ba lô ra, cái này là Millea đưa cho chúng tôi lần trước trong vụ án kiểm tra quỷ nhập thân, chúng tôi dự kiến hôm sau sẽ đến sở cảnh sát để tìm hiểu thông tin.
Lúc đi ngủ buổi tối, có lẽ do vừa nãy ngồi trò chuyện trên cầu phao có uống chút rượu, nên tôi cảm thấy hơi đau đầu âm ỉ. Nhưng cuối cùng vẫn chìm vào giấc mơ trước khi tiếng ngáy của A Tam cất lên.
Trong giấc mơ, người đàn ông mặc bộ quần áo trắng có khả năng kéo dài thời gian xuất hiện trước mắt tôi, nhưng bóng dáng cứ mập mờ lúc gần lúc xa, toàn bộ hình ảnh xước trắng giống như màn hình tivi cũ. Hình ảnh vừa chuyển đi, tôi thấy mình đang đứng dưới vị trí người quan sát bên trong một căn phòng rộng lớn chứa đầy hộp thủy tinh. Kỳ lạ là, dường như có thanh âm của tiếng khóc lóc đau khổ cùng cực vang lên trong phòng, văng vẳng bên tai, liên tục không ngớt. Tôi lần theo hướng phát ra âm thanh, phát hiện ra đó chẳng qua là một điếu xì gà đặt trưng bày bên trong hộp thủy tinh.
Điếu xì gà đó đã được hút qua rồi, nhưng lúc này không rõ vì sao, bên trong hộp thủy tinh vốn rất khô ráo, mà màu sắc từ trong ra ngoài đang dần dần đậm hơn, giống như bị nước ngấm vậy. Chuyện càng quái dị hơn xảy ra là, đầu thuốc của điếu xì gà bắt đầu lóe lên ánh sáng đỏ, lúc sáng lúc tối. Không có tàn thuốc rơi ra, không có khói thuốc bay lên, độ dài của điếu thuốc cũng chẳng thấy ngắn đi.
Lúc tôi đang say sưa quan sát nó, từ trong bóng tối ngay trước mặt tôi, “cạch” - tiếng mở cửa cất lên, tiếp đó là tiếng bước chân đi giày da đang chầm chậm tiến lại gần. Tôi thấy có chút lo lắng, không biết trong bóng tối dày đặc phía đằng trước liệu có con quái vật nào nhảy ra không.
Một tiếng “xịch!”, đèn chiếu phía trên hộp kính trưng bày bỗng nhiên bật sáng, một khu vực nhỏ trong đây liền sáng rõ như ban ngày. Cùng lúc đó, ánh lửa trên điếu xì gà cũng lụi tắt. Tôi trông thấy bóng dáng người đang lại gần kia, bước đến vùng nửa sáng nửa tối dưới ánh đèn, lại chính là khuôn mặt của Millea. Tôi bịt chặt miệng nhìn anh ta, có vẻ như anh ấy không hề biết đến sự tồn tại của tôi, khi ấy tôi mới nhận ra rằng, đứng dưới ánh đèn nhưng tôi không có bóng phản chiếu.
Khóe miệng Millea hiện lên một nụ cười, tôi không hiểu ý nghĩa của nụ cười đó cho lắm. Trong nháy mắt, toàn bộ đèn hắt sáng trong phòng trưng bày đều được bật lên, trên trần nhà vang lên một tiếng nổ.
Tôi mở to mắt ra nhìn. Trong bóng tối đen sì như mực, một đốm sáng nhỏ li ti màu xanh lá cây báo tôi biết rằng, điện thoại của tôi đã được sạc đầy pin. Tôi đã trở về khu nhà nghỉ, bây giờ đang là cuối tuần, mấy người bọn tôi lái xe đến đảo Key West chơi. Vậy tất cả mọi thứ khi nãy tôi nhìn thấy là cảnh trong mơ thôi ư?
Lúc tôi nhớ lại tiếng nổ làm đinh tai nhức óc vừa rồi, một âm thanh không hề kém tiếng sấm kinh thiên động địa trên trời như trong tưởng tượng của tôi, từ ô cửa nhỏ trên cánh cửa hắt lên màu tím lấp lánh. Âm thanh như thế vang lên liên tục sáu, bảy lần, điệu bộ như muốn xé toạc cả bầu trời. Summit nằm bên cạnh tôi vẫn ngủ say như con lợn chết, gần như tiếng sấm chẳng thể khoan nổi vào tai cậu ta vậy.
Ngoài cửa không có tiếng mưa rơi, có vẻ như đó chỉ là tiếng sấm báo hiệu trước. Nhưng không có lý do gì lại ầm ầm đến thế, hơn nữa lại kéo dài liên tục như vậy. Tôi mở máy điện thoại, giờ mới là 4 giờ 30 phút sáng. Tôi vứt bỏ hết tất cả ý định nằm ngủ tiếp, ngả lưng vào gối, ngồi bần thần đến tận sáng.
Sáng sớm, chúng tôi đến phòng ăn của khu nhà nghỉ để ăn sáng miễn phí đã bao gồm trong chi phí thuê phòng. Hai cô gái mặt mày hớn hở vui tươi mở phần bản đồ truy cập wifi miễn phí, nghiên cứu lịch trình vui chơi trong ngày hôm nay. Bên ngoài ánh nắng mặt trời còn chói gắt hơn cả hôm qua, bầu trời trong xanh không một gợn mây, chứ đừng nói đến là tiếng sấm nổ. Mấy cô gái kia, và cả cái tên biến thái đang cố gắng tìm mọi cách dựa dẫm vào người Valeria, chẳng ai có vẻ như bị mất ngủ. Bọn họ từ đầu đến cuối đều không nhắc gì đến chuyện tiếng sấm đêm qua.
Lẽ nào chỉ có mình tôi nghe thấy?
Ăn xong bữa sáng, tôi lái xe chở các cô gái ra bưu điện gửi bưu thiếp. Tôi nói với họ: “Mình và Summit chạy loanh quanh khu này một lúc, khi nào các cậu gửi xong thì gọi điện cho bọn mình”. Hai cô gái vui vẻ đồng ý. Cho đến bây giờ tôi vẫn suy đoán, lý do vì sao A Tam đối xử với tôi rất ôn hòa, dễ bảo, và có một nguyên nhân chắc chắn là trước mặt mọi người tôi luôn gọi đúng tên thật của cậu ta, hơn nữa không bao giờ bóc mẽ điểm yếu của cậu ta, điều này cũng coi như là giữ thể diện cho cậu ta.
Tôi kéo A Tam đến trụ sở cảnh sát duy nhất trên thị trấn. Văn phòng trụ sở cảnh sát rất nhỏ, nhìn hơi xập xệ có vẻ do thiếu quỹ đóng góp xây dựng, thậm chí chỗ đất này còn bị nhà hàng sát vách chiếm mất một ít.
Nghe nói cảnh sát trưởng ở quận này từng được nhận rất nhiều huy chương và bằng khen trong việc có thành tích giúp dân nhiều lợi ích tại chính địa phương nơi mình ở, mà hiện giờ giờ chúng tôi đang ở địa bàn khác, chẳng những vậy giấy chứng nhận còn là giả mạo. Tôi và A Tam cũng hơi mất tinh thần khi bước chân đến đây, nhưng đến khi trông thấy nhân viên lễ tân là một sĩ quan thực tập rất trẻ trung, thì A Tam đã lấy lại sự tự tin.
Lý do A Tam yêu cầu muốn xem các tài liệu vụ án: ở quận Broward phát hiện thấy một người tâm thần bị nghi là mất tích, nên lần theo đầu mối đến đây, xem có thể phá vỡ một trường hợp lừa gạt buôn bán người trái phép không. Cái lý do gì mà điêu trẹo họng ra, tôi thấy nét mặt của sĩ quan thực tập thoáng lộ vẻ nghi hoặc, lo sợ sẽ có sai sót.
Cậu nhân viên cảnh sát trẻ tuổi tên Todt hỏi chúng tôi: “Vậy các anh muốn kiểm tra vụ án đại khái ở khoảng thời gian nào? Anh biết đấy, có một vài năm do ảnh hưởng từ những sự kiện của năm đó nên một số hồ sơ vụ án bị mất hết rồi”. Thật may tôi là người chăm chỉ học bài trước khi đi du lịch, nên biết được vào những năm 1980 của thế kỷ trước, quần đảo này đã từng trải qua cuộc chiến đấu nhỏ để được tự do, đặt tên là Nước Cộng hòa Conch.
A Tam bắt đầu làm cho tôi thấy bẽ mặt: “Chúng tôi muốn tìm vụ án trước những năm 60”. Cái tên đần này rốt cuộc có não không vậy, ai rảnh đâu mà đi tìm hiểu những vụ mất tích trước năm 60 cơ chứ. Tôi càng nghĩ càng muốn tìm bác sĩ để bổ đầu cậu ta ra.
Một tia sáng chợt lóe lên trong đầu tôi, trong cái khó ló cái khôn, tôi nói: “À là thế này. Vốn dĩ chúng tôi đến để tìm hiểu một số vụ án liên quan đến người mất tích, nhưng chúng tôi còn có một mục đích là muốn tìm những vụ án điển hình cũ hơn, vì giáo sư của chúng tôi yêu cầu viết luận văn. Tôi là cảnh sát thực tập của trường học viện cảnh sát, còn đây là anh Summit - người phụ đạo cho tôi”.
Tóm lại sau một hồi quanh co, cậu cảnh sát trẻ tuổi cũng chịu phối hợp, cho phép chúng tôi mở một số hộp lưu trữ tài liệu hồ sơ. Cho đến lúc này tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Nếu cậu cảnh sát kia mà nói: “Ơ! Tôi cũng là thực tập sinh nè, cậu học ở trường nào vậy?”, hoặc là “Ồ! Chúng ta là đồng môn đấy, cái cậu vừa nhắc đến là bài tập của giáo sư nào vậy?”. Lúc đó tôi chỉ có thể đào lỗ mà chui xuống thôi.
Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy một bản tường trình vụ án về cơ bản phù hợp với những gì tôi mơ thấy. Đó là câu chuyện về nhóm người Cuba đầu tiên vượt biên vào năm 1950. Chính vì sự dẫn dắt của họ, nên ngày càng có nhiều người vượt biên theo phong trào, cuối cùng dẫn đến cao trào vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước.
Hồ sơ vụ án ghi chép lại hồi đó có một nhóm nhỏ dân di cư, chủ yếu toàn là nam thanh nữ tú, trong đêm tối ngồi trên một con thuyền nhỏ, rồi xuống thuyền bơi bắt đầu từ đường biên giới lãnh thổ Cuba để đi về phía Bắc đến nước Mỹ. Mấy chục người bơi theo một hướng trên biển cả mênh mông, người thì kiệt sức không thể tiếp tục chống cự nên dần dần chìm xuống, người thì biến thành mồi cho cá mập do bị miếng gỗ rác trôi nổi làm bị thương. Tóm lại, số người đồng hành mỗi ngày một ít đi, những người còn lại bắt đầu đoàn kết với nhau hơn, trong số họ có hai người buộc mảnh gỗ vào phía sau lưng bằng dây thừng, để nghỉ ngơi lấy sức. Có người vác theo số lương thực có hạn, có người lại vác xì gà đặc sản Cuba, dùng giấy da bò bọc lại và nhét trong hộp sắt, đợi sau khi lên bờ sẽ đem xì gà đi bán, kiếm được chút tiền để sinh tồn.
Khi ấy “Thế chiến II” vừa kết thúc, mặc dù trên lãnh thổ Hoa Kỳ không có chiến loạn, nhưng ở vào giai đoạn phát triển tốc độ cao sau phục hồi của thời kỳ Đại suy thoái, chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô đang cần rất nhiều nguồn lực lao động để phát triển kinh tế, do đó việc quản lý dân di cư vượt biên không chặt chẽ nghiêm ngặt cho lắm, có thể nói là mắt nhắm mắt mở, cho dù xét từ tình hình chung phía bên kia có nằm trong danh sách đen của việc phong tỏa kinh tế đi chăng nữa. Khoảng một, hai tháng trước khi vụ án này xảy ra, có một sĩ quan chiến thắng trên chiến trường hải ngoại đã trở thành người đứng đầu lực lượng bảo vệ bờ biển. Ông ta là một người tương đối cực đoan, đột nhiên phát lệnh bắt giữ người vượt biên trái phép trong chính nhiệm kỳ của mình.
Nhóm người lén vượt biên đầy tuyệt vọng kia bị đội cảnh sát biển tuần tra nghiêm ngặt phát hiện ra. Khi đó sĩ quan chỉ cho họ một lựa chọn duy nhất, là bơi trở về quê hương của mình. Đến lúc này lộ trình đã đi được hơn một nửa, những người sức cùng lực kiệt kia nếu phải bơi trở lại, sẽ chẳng thắc mắc gì là chỉ có một con đường chết. Đầu tiên họ cầu xin sự thương tình, sau đó chuyển sang đối kháng. Trong cuộc xung đột này, có một cô gái tên Bessa dẫn theo chồng mình là Roberto tách khỏi những người đồng hành kia, tiếp tục bơi về phía vùng đất trong tưởng tượng. Sau khi người chồng không còn khả năng chống đỡ, cuối cùng Bessa cũng đến được bờ bên kia. Sau này cô ấy được biết nhóm người đồng hành với mình bị cảnh sát biển buộc đá cho chìm xuống dưới đáy biển sâu.
Vụ án này do chính cô ấy báo cáo và tường thuật lại. Vì cô ấy viết bằng tiếng Tây Ban Nha, nên có một bản dịch tiếng Anh đóng sẵn và kẹp cùng trong đó, bị hai “sĩ quan cảnh sát” là chúng tôi đọc được. Trong hồ sơ vụ án, cô ấy khiếu cáo tên sĩ quan kia mất hết nhân tính, xâm phạm nhân quyền.
Cô ấy luôn hối hận vì bản thân tự tách rời bạn đồng hành, đến một ngày không chịu đựng nổi, cô ấy đã treo cổ tự vẫn ngay trên lãnh thổ nước Mỹ.
Cô ấy chính là người đem theo xì gà Cuba, sau này những người nhập cư là thương nhân vùng Nam Mỹ vì muốn tưởng nhớ đến cô nên đã thu thập điếu xì gà còn lại và trưng bày trong bảo tàng văn hóa lịch sử địa phương. Cái này là do sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi kia nói cho chúng tôi biết, quả không hổ danh là cảnh sát khu vực thắng cảnh du lịch.
Chúng tôi cảm ơn cậu cảnh sát trẻ tuổi, sau đó vội vàng tìm đến viện bảo tàng theo sự chỉ dẫn của cậu ấy. Viện bảo tàng vừa mới mở cửa, đã có một nhóm khách đầu tiên tập trung trước khu vực bán vé, chính là hai chúng tôi - một người Trung Quốc và một người Ấn Độ. Trong giây phút tôi bước chân vào bên trong phòng triển lãm, cả người tôi đều sững lại. Đây chính là cảnh tượng trong giấc mơ của tôi đêm qua, là giấc mơ về điếu xì gà khóc lóc thảm thương.
Tôi dám dùng số tiền lớn để đánh cược rằng, ngoài cảnh tượng đêm qua mơ thấy, trước đó tôi chưa hề đến nơi này bao giờ. Tôi tìm ra chính xác vị trí đặt điếu xì gà, khiến A Tam hú vía một phen. Hướng xếp đặt của nó không có gì thay đổi, nhưng màu sắc hình như bị ẩm. Mặc dù trên điếu xì gà không phát ra ánh sáng đốm lửa, nhưng tôi bắt đầu nghi ngờ, cảnh tượng đêm qua là thật. Ý của tôi là, linh hồn của tôi đã đến đây rồi.
Vậy hình ảnh đất liền đó phải giải thích thế nào? Lúc tôi thì thầm trao đổi với A Tam, con người ngây ngô như cậu ta lại một lần nữa đưa ra câu trả lời mà tôi không ngờ tới.
Cậu ấy nói: “Nếu tôi là một người trong nhóm vượt biên đó, lúc tôi đang ra sức để bơi, chắc chắn sẽ xuất hiện ảo giác ở trong đầu, nghĩ rằng bờ bên kia đang ở ngay trước mắt không xa, chỉ cần kiên trì thêm chút nữa sẽ tới. Đây chính là tự tăng sức mạnh và động viên bản thân”. Cậu ta nói vậy quả thực cũng hợp tình hợp lý. Ảo giác về hình ảnh đất liền, chính là điều kỳ vọng trong ý nghĩ của con người.
Theo lý mà nói, hàm lượng muối trong nước biển cao như vậy, vong linh của một số người vượt biên kia đáng nhẽ phải bị trấn giữ lại ở dưới nước. Đúng lúc chúng tôi đang mải mê nói chuyện, viên cảnh sát trẻ tuổi tên Todt kia, một tay giữ chặt mũ cảnh sát trên đầu, một tay còn lại cầm vào khẩu súng lục đeo ở chỗ thắt lưng chạy xông vào. Không lẽ nào cậu ta phát hiện ra thân phận của bọn tôi nên muốn bắt người sao?
Sau khi trông thấy bọn tôi, cậu ta nở nụ cười sảng khoái, thở hổn hển nói: “Cảm tạ Thượng đế, đúng là các cậu đang ở đây. Xin hỏi bây giờ các cậu có tiện không ? Nhân viên chỗ chúng tôi đang có chút lo lắng, muốn nhờ các cậu giúp đỡ”.
“Chuyện gì vậy?”, tôi hỏi.
Hôm qua có sáu thanh niên thuê moto lướt sóng, nhưng đến hôm nay chưa thấy quay về. Cho đến nửa tiếng trước, lực lượng bảo vệ bờ biển dùng máy bay trực thăng mới tìm được sáu chiếc moto lướt sóng”. Cuối cùng Todt cũng thở chậm lại.
“Đi về hướng Cuba ư?”, tôi cảm thấy khẩn trương, vì hôm qua tôi vừa trông thấy họ vui chơi ở cột mốc điểm cực Nam xong. A Tam cũng bắt đầu có chút lo lắng, cậu ấy cũng mới nghe tôi kể về chuyện này hôm trước, nhưng lúc đó cậu ta cho rằng tôi đa nghi quá.
“Không phải. Vì ban đầu phía cảnh sát cũng tiến hành tìm kiếm về hướng đó, nhưng không thu hoạch được gì. Moto lướt sóng vốn là phương tiện giao thông đường thủy chỉ trong khoảng cách gần, nếu lái đi xa trong thời gian dài, động cơ máy nóng quá sẽ tự động dừng lại không hoạt động nữa”. Cậu ấy dừng lại, hình như bản thân cậu ấy cũng cảm thấy khó tin, “địa điểm cuối cùng tìm thấy, là chỗ nước cạn trong vịnh ở trên đảo, phía sau khu du lịch vịnh Ibis”. Đó chính là khu du lịch bốn người chúng tôi đang ở, là chỗ đêm qua tôi gặp ảo giác một lần nữa.
Ba người chúng tôi ngồi trên xe cảnh sát, đi về phía khu du lịch. Tôi nhớ ra thời gian đậu xe của tôi sắp hết, tôi nhờ cậu ta chở tôi đi lấy xe trước. Cậu ta vừa cười vừa nói: “Chỉ có vài đồng nghiệp đều đang ở hiện trường hoặc đi điều tra vụ án rồi, hôm nay sẽ chẳng có ai viết đơn phạt cho cậu đâu”.
Trên đường đi qua chỗ tôi đậu xe, tôi cố tình nhìn xem công chúa Bạch Tuyết già của chúng tôi. Tôi để ý thấy có một nam thanh niên đang lén lút đi rẽ vào trong con hẻm nhỏ, sau đó dừng lại cúi đầu bấm điện thoại. Tôi trông thấy góc nghiêng khuôn mặt của anh ta, vô cùng giống khuôn mặt của Millea.
Có điều A Tam dù thế nào cũng không tin vào câu chuyện này. Cậu ta nói đừng nghi ngờ Millea nữa. Tối qua Millea mới gọi điện cho chúng tôi. Anh ta nói anh ta sẽ đi Tennessee vài ngày, không tiện sử dụng điện thoại, có chuyện gì thì để lại tin nhắn trong hộp thư thoại là được rồi.
Đến khu nhà nghỉ, các cảnh sát đã vạch ra cảnh giới tuyến11 ngay bên rìa vịnh trông y như thật. Chuông điện thoại vang lên, là Valeria gọi đến, hỏi chúng tôi đang ở đâu. Cô ấy và Ivy vừa đi mua sắm ở cửa hàng nhỏ đối diện bưu điện xong. Tôi để họ đi trước, tôi nói: “Lúc bọn mình đi trên đường, có chiếc xe đạp mất phanh đâm vào tường, bọn mình giúp đưa người bị thương vào viện”. A Tam hỏi tôi là ai gọi điện đến, tôi nói đó là cô nàng Mập Lùn.
11 Khu vực cảnh sát cấm vào.
Lúc này Todt quay trở lại sau khi trao đổi xong với bên lực lượng bảo vệ bờ biển, nói với chúng tôi: “Tìm được bốn thanh niên, bọn họ đều ở bãi cát chỗ trung tâm. Bây giờ còn hai người nữa vẫn mất tích”.
Rất nhanh chóng, chúng tôi nhìn thấy bốn thanh niên vẫn còn đang hoảng sợ thất thần kia, họ ngồi trong xe dưới sự bảo vệ của lực lượng cảnh sát. Bọn họ choàng khăn bông, toàn thân run lẩy bẩy. Tôi cố chú ý quan sát, phát hiện thấy trong ánh mắt một cô gái đã lạc mất đi thần thái.
Không khó để nghĩ ra rằng, những chuyện này do chính sự oán hận của những hồn ma vượt biên kia báo thù gây ra. Vấn đề ở đây là, tại sao sau bao nhiêu năm kể từ khi xảy ra chuyện, họ mới nghĩ đến việc báo thù? Tôi và A Tam bước qua một bên, trao đổi một vài vấn đề tính khả năng, nhưng đều là những chuyện xung quanh về nhóm người vượt biên. Tất cả những vụ án cũ trong đồn cảnh sát (mấy năm gần đây tạo dựng được tiếng tăm du lịch nên vấn đề trị an trên đảo rất hiệu quả), điếu xì gà trong giấc mơ của tôi và cái tôi tận mắt nhìn thấy trong viện bảo tàng, đều đưa đến cùng một hướng.
Nếu nước biển có thành phần muối cao như vậy có thể trấn giữ được linh hồn chết dưới nước, vậy thì nhất định là Bessa đang quấy phá rồi. Hồi đó chỉ có một mình cô ấy lên bờ, sau đó lại tự sát. Oán hận càng ngày càng nhiều, như vậy cũng chẳng có gì là lạ.
Chúng tôi tìm đến Todt lúc này đang an ủi gia đình người bị nạn, phụ giúp cậu ta xử lý một số chuyện. Tôi hỏi cậu ấy những người vượt biên vô danh năm xưa được chôn cất ở đâu? A Tam đứng hình mất vài phút, rồi đột nhiên hỏi Todt: “Tôi muốn xem danh sách của sáu người thanh niên kia, đầy đủ tên tuổi”.
Todt đưa danh sách cho A Tam, sau đó quay ra phía tôi, nhún nhún vai nói: “Tôi nghĩ các cậu phải làm vài vòng quanh đảo này rồi chứ, làm gì có chỗ nào nhiều đất trống để mà chôn xác chết. Đối với một số cư dân an táng cố định, chúng tôi sắp xếp đưa họ vào nghĩa trang trên đảo Key Largo, nhưng với những người vượt biên vô danh, nhất là nhóm người di cư năm xưa, chúng tôi đều trực tiếp hỏa táng”.
Phương pháp tàn bạo đơn giản nhất để siêu độ vong hồn chính là hỏa thiêu họ, nhưng rõ ràng Bessa đã được hỏa táng rồi, vậy… lẽ nào không phải là bà ta?
Đúng lúc tôi đang bắt đầu cảm thấy dao động tư tưởng, A Tam bỗng hét lên một tiếng. Tôi vội vàng quay ra nhìn. Cậu ta chỉ vào danh sách mà Todt vừa đưa cho tôi xem. Cậu ta nói: “Cậu nhìn xem này, Armstrong và Padrik, hai cái tên này đi trùng với tên hai người bị mất tích chưa tìm thấy ngoài biển, trùng hợp quá cơ”. Cậu ta giở một tấm ảnh trong album ảnh điện thoại di động ra, cái tên này quả thật láu cá, nhân lúc người ta không để ý đã lén chụp lại những tài liệu cơ mật lại.
Đó là thứ tôi vừa mới xem qua, liên quan đến vụ án nhóm người vượt biên. Trên bảng biểu tư liệu của vụ án, tiểu đội cảnh sát biển trực tiếp phụ trách vụ án của Bessa, là hai thuộc hạ phụ trách thi hành của sĩ quan mặt sắt Morrison, lần lượt có tên là Armstrong và Padrik. Đến nước này thì, không cần phải nghi ngờ gì nữa, vụ án này chắc chắn có liên quan đến vụ nhóm người vượt biên năm xưa.
Sau đó chúng tôi dùng thân phận là cảnh sát thực tập để tìm được cha mẹ của hai thanh niên mất tích, sau một hồi tra hỏi được biết, họ vốn dĩ chẳng có quan hệ gì với hai viên phó cảnh sát biển năm xưa. Vài năm gần đây bố mẹ họ chuyển về đây để sống nốt quãng đời còn lại an hưởng tuổi già, bọn họ chỉ là nhân dịp mùa du lịch thì đến thăm bố mẹ và nghỉ ngơi vài ngày. Bà Padrik vì quá đau buồn nên đã ngã bệnh và đưa vào viện rồi.
Chúng tôi an ủi hai đôi vợ chồng thêm một lúc, nói với họ rằng cảnh sát sẽ tiếp tục tìm kiếm các con họ, nhưng để nhằm mục đích an toàn, yêu cầu họ tạm thời không nên đi ra biển. Tôi lo sợ những oán hận kia sẽ cố gắng tìm mọi cách để giết chết những người dính líu đến cái tên đó.
Hay nói là, di vật của người chết liệu có sót lại linh hồn của họ bám theo hay không ? Thứ đầu tiên tôi nghĩ đến chính là điếu xì gà khóc lóc đau khổ kia.
“Nhưng đó là viện bảo tàng, mỗi tủ mỗi quầy trưng bày đều có báo động đó! Hơn nữa bây giờ chúng ta vẫn đang mang danh cảnh sát thực tập!”, A Tam nói với tôi đầy vẻ kích động, lại không thể không ghìm âm lượng của cậu ta thấp xuống một chút.
“Chúng ta đâu phải là cảnh sát thật sự, chúng ta là người diệt quỷ. Tôi đã trông thấy điếu xì gà kêu khóc ở trong mơ rồi. Sáng nay chúng ta đến cái viện bảo tàng quái quỷ đó, toàn bộ cảnh tượng giống y hệt những gì tôi nằm mơ!”, tôi cũng rất kích động, nên cố gầm gừ nhỏ tiếng.
Cậu ta sững sờ đứng nguyên một chỗ: “Cậu nói, giấc mơ đêm qua…”.
“Nếu không, mẹ kiếp tôi làm sao biết được điếu xì gà đó đặt ở chỗ quái quỷ nào chứ! Mau đi thôi”. Tôi tức giận nói, rồi quay đầu bỏ đi.
Tôi nói với Todt chúng tôi có chút chuyện cần phải xử lý trước, chưa chắc đã quay lại sớm. Tôi cùng A Tam vội vàng quay trở lại viện bảo tàng. Trong sảnh bây giờ đã có thêm một, hai chục người tham quan, đang thích thú ngắm nghía những kỷ vật xưa cũ. Bây giờ mà nói với nhân viên làm việc rằng cần lấy vật triển lãm này đem đi tiêu hủy, nghe chừng thật quá lố bịch và quá phi lý. Thế nên chúng tôi cất huy hiệu cảnh sát giả đi, tôi lấy khăn trùm đầu từ trong ba lô che lên mặt, A Tam còn tiện hơn, cậu ấy chỉ cần kéo cái cái mớ tóc như đống mỳ tôm thẳng từ trên đầu xuống, chuẩn kiểu tóc của một Scene thuần chủng, còn tôi trang điểm thêm vài nét vẽ trên mặt để không ai nhận ra chúng tôi.
Chúng tôi tự ý đi thẳng vào trong, mở vỡ kính lấy chiếc hộp trưng bày trước sự hoảng hốt, giật mình của mọi người, rồi dùng khăn giấy bọc điếu xì gà lại, nhét vào trong ngực rồi khệnh khạng bỏ đi. Tiếng còi báo động vang lên.
Chúng tôi biết rõ lực lượng cảnh sát đang ở đâu, nên cũng chẳng cần quá gấp gáp, sau khi rẽ vào một ngõ nhỏ, chúng tôi thay áo chui đầu, giấu kỹ khăn trùm đầu xong mới quay trở lại phố lớn. Muốn lấy bật lửa để châm điếu xì gà ẩm kia quả đúng là ý nghĩ viển vông, chúng tôi đang lo lắng băn khoăn, trước mắt xuất hiện một luồng ánh sáng.
Phía trước chúng tôi có một biển hiệu to tướng viết là: Pollo (tiếng Tây Ban Nha: thịt gà). Một lò quay khổng lồ đang phả ra hơi nóng ngay trước mặt chúng tôi, từng con gà được vặt sạch lông bị xiên trên lò quay đang hưởng thụ xông hơi, để lộ ra cơ thịt và lớp da màu đồng thiếc.
Tôi gọi với vào trong cửa hàng : “Ông chủ, có đồ chín ăn được ngay không ? Tôi mua một con!”.
“Có, có hết rồi đây, các cậu vào trong ngồi trước đi”, tôi bước vào trong quán ngồi xuống, trong lúc đợi chủ quán bưng một thịt gà và và khay dĩa lên, tôi quay ra A Tam đang đứng ngoài cửa ra dấu tay ám chỉ “OK”, cậu ấy nhanh như cắt, thẳng tay ném điếu xì gà bọc trong khăn giấy vào lò nướng gà. Ai chà, các thực khách tiếp theo có thể được thưởng thức gà nướng tẩm thêm hương vị mới.
A Tam bước vào quán liền ngồi xuống và định dùng tay không bốc thịt gà, tôi gạt tay cậu ấy ra, nhét cái bao tay ni long vào tay cậu ta “cậu đi bao tay vào đi”. Cậu ta nói: “Lúc mới quẳng điếu xì gà vào lò, nó bốc lên ngọn lửa màu xanh”.
Vẫn chưa ăn hết thịt gà, chúng tôi trông thấy Todt đi nhanh qua trước cửa hàng, rõ ràng là cậu ấy đang đi về phía viện bảo tàng. Chúng tôi ăn uống nhồm nhoàm như những con hổ đói, thanh toán xong chúng tôi tính đi ngược lại hướng của Todt. Nào ngờ vừa ra khỏi cửa, một giọng nói quen thuộc hô lên: “Nè! Hai anh cảnh sát!”.
Chúng tôi nghĩ thầm thôi như tiêu rồi, anh ta vốn dĩ đang ở viện bảo tàng lau kính, xem ra có vẻ không phải là chuyện nghiêm chỉnh rồi. Cậu ấy mồ hôi nhễ nhại chạy đến trước mặt chúng tôi: “Các cậu không để lại số điện thoại, làm tôi chạy tới chạy lui kiếm các cậu. Phải rồi, có tin tốt đây, hai thanh niên kia cuối cùng đã tìm thấy rồi!”.
“Chúng tôi, chúng tôi nghe thấy phía viện bảo tàng có tiếng báo động…”. A Tam và cậu ấy tranh nhau nói, bởi A Tam đang muốn thanh minh, nhưng nghe đến đây, A Tam lập tức đổi giọng, gấp gáp hỏi: “Sao cơ? Tìm được hai người kia rồi sao?”.
“Mặc kệ chuyện của viện bảo tàng đi, cái báo động đểu đó cứ thỉnh thoảng lại hỏng kêu báo động giả. Hai người kia vừa được máy bay trực thăng vớt lên ở dưới biển, bây giờ đang nằm trong viện để kiểm tra rồi”. Xem ra Todt có vẻ rất vui, rốt cuộc cuối cùng cũng không có gì nguy hiểm, nhưng ấp a ấp úng, hình như có chuyện gì đó muốn nói mà không biết mở lời như thế nào.
“Sao vậy?”, tôi hỏi.
“Cũng không phải chuyện gì to tát… chỉ là, chỉ là hai thanh niên kia, họ luôn miệng nói rằng mình được… được thiên thần cứu vớt ở giữa biển. Thanh niên trẻ bây giờ lại có đức tin sùng đạo như vậy, cũng coi như là hiếm có”. Trong lòng Todt cuối cùng đã trút được gánh nặng, còn nói ra mấy câu đùa nhạt nhưng có lẽ cậu ấy quên mất rằng, bản thân mình cũng đang là thanh niên trẻ.
Tôi không có ý định hỏi thêm gì từ phía cậu ấy, nhìn dáng bộ là biết cậu ấy không có niềm tin về lĩnh vực này. Hai chúng tôi đi theo cậu ấy đến bệnh viện. Hai thanh niên trẻ có tên lần lượt là Arms và Padrik, đang được truyền glucose để bổ sung dưỡng chất, họ đã trải qua một ngày không được ăn uống gì rồi.
A Tam biết rõ, đuổi cảnh sát địa phương đi ra ngoài dường như không phải hay ho cho lắm. Thế là cậu ấy vỗ vai Todt và nói: “Đi thôi, hãy để bạn của tôi nói chuyện với họ, cậu ấy học hai bằng về điều tra tội phạm và tâm lý học. Cậu ấy có thể làm tốt”. Nói xong, A Tam liền kéo Todt đi, dắt ra đến cửa.
Tôi hỏi hai người thanh niên kia: “Nghe sĩ quan cảnh sát nói, hai người được thiên thần cứu sống có phải không ?”, nói thực thì bản thân tôi cũng không hoàn toàn tin vào điều này. Tôi và A Tam tiêu hủy điếu xì gà không lâu sau, lập tức nhận được tin hai thanh niên được cứu sống, phải nói rằng chúng tôi đã giải phóng được linh hồn oán hận bị vây hãm, sức mạnh kéo hai thanh niên xuống đáy biển bị biến mất, bọn họ có thể tự cứu mình.
Thế nhưng cách nói này cũng không có logic lắm, họ không thể sống sót dưới đáy biển suốt một đêm. Lẽ nào trên đời này thực sự có thiên thần hay sao?
Lúc này, Arms, là một cậu thanh niên có mái tóc xoăn màu khói và đôi mắt màu nâu nói: “Xin các anh hãy tin tôi, chúng tôi không phải nói bừa. Hôm qua chúng tôi đang lái moto lướt sóng dạo chơi, đột nhiên thấy xuất hiện đất liền ngay trước mắt chúng tôi…”, nói đến đây thì cậu ấy dừng lại, có vẻ như đang muốn thăm dò từ sắc thái biểu cảm của tôi, xem tôi có tin vào những lời cậu ta nói hay không.
Tôi gật đầu tán thành, tỏ ý muốn nghe cậu ta nói tiếp.
Arms tiếp tục kể: “Cả nhóm chúng tôi khi ấy thấy rất lạ. Mặc dù chúng tôi biết rõ, hầu hết đó chỉ là ảo ảnh hão huyền, nhưng chúng tôi vẫn muốn lại gần đó một chút xem thế nào. Đến khi chúng tôi nhận thấy mình đi quá xa, liền ngoái đầu lại nhìn, thì thấy cả hòn đảo, bến đậu ở sau lưng đều biến mất. Chúng tôi nhìn xung quanh một lượt, ngoài ảo ảnh hoang tưởng phía trước ra, còn lại đều là biển cả mênh mông mù mịt.
“Lúc đó chúng tôi vô cùng sợ hãi, bởi vì căn bản không liên lạc được, moto lướt sóng cũng không thể đi quá xa như thế, hơn nữa khi ấy chúng tôi chỉ mới chạy được khoảng hai ba phút. Trong nhóm chúng tôi có hai cô gái, họ bắt đầu sợ hãi khóc lóc. Điện thoại của tôi hoàn toàn mất tín hiệu, không thể định vị được GPS. Chúng tôi không dám tùy tiện chuyển về hướng nào, ngay cả quay đầu lại cũng không dám”.
“Mấy người chúng tôi đợi khoảng hơn một giờ đồng hồ, trên trời không có máy bay cứu hộ bay qua, còn trên biển thậm chí cũng chẳng có tàu bè nào đi qua cả. Ánh nắng mặt trời chói chang ngay trên đỉnh đầu, gần như hoàn toàn không có dịch chuyển gì hết, cũng có nghĩa là, khả năng phán đoán hướng Đông hướng Tây đều không có”. Dường như lúc đó cậu ấy dừng lại suy nghĩ, trên mặt còn tỏ ra một chút sợ hãi. Cậu ấy cầm cốc nước lên uống.
Đến đây, thanh niên còn lại tên Padrik tiếp lời vào, nhịp điệu nói chuyện của cậu này nhanh hơn nhiều: “Sau đó chúng tôi giống như bị một sức mạnh nào đó kéo lên, rồi ấn xuống biển. Chúng tôi cố gắng vẫy vùng trong nước, nhưng hoàn toàn không phải là đối thủ, đến khi tôi cảm thấy gần như nghẹt thở, thì lại được kéo lên. Lúc này, cả trời đất như biến thành một màu đen sì chỉ trong chớp mắt, ngay chính vị trí của mặt trời ban nãy, đã đổi thành mặt trăng màu đỏ sẫm. Ngay dưới ánh sáng chiếu rọi của mặt trăng đỏ, tôi trông thấy các bạn đồng hành của mình và mấy chiếc moto lướt sóng đã không còn nữa. Chỉ còn lại tôi và Marvin (Marvin Arms).
“Lúc chúng tôi lại rơi xuống mặt nước lần nữa, tôi biết rõ rằng, lần này là chết chắc rồi. Quả nhiên đúng như vậy, khi tôi cảm nhận được toàn bộ không khí bên trong phổi đang bị dồn nén từng chút một, thì sức mạnh kia vẫn khăng khăng ấn chặt lấy chúng tôi. Thế nhưng, kỳ tích lại xuất hiện. Vào lúc tôi có cảm giác ý thức bắt đầu bị phân tán, nước biển tanh mặn mà đắng liên tục đổ vào cổ họng, gần như từ bỏ sức chống cự buông xuôi mọi thứ. Tôi trông thấy một tia ánh sáng trắng vô cùng rực rỡ, xuyên qua màn nước tối đen, sau đó tôi thấy mình có thể thở lại được, trong cổ họng hình như chưa hề nuốt qua vị đắng chát của nước biển.
Tôi trông thấy dưới vầng ánh sáng đó, một bóng dáng quay ngược phía ánh sáng đang nâng hai tay, nhấc chúng tôi từ dưới biển lên. Khi đó ý thức của tôi còn hơi mơ hồ, thậm chí còn cho rằng bản thân mình đã chết, và đang ở vào tình trạng chuyển tiếp sang thế giới bên kia. Khuôn mặt người đó ngược phía ánh sáng, nên tôi không nhìn thấy rõ diện mạo trông ra sao, nhưng đến khi ngoái lại thấy mình đã cách xa mặt nước biển rồi, tôi mới nhìn được rõ, lúc ánh sáng trắng từ trên rọi xuống, phản chiếu lên mặt nước biển, liền xuất hiện hình bóng đôi cánh đen sì to khổng lồ!”. Vừa nói, cậu ấy vừa duỗi tay ra, cố gắng sải rộng sang hai bên, “Đây chỉ là độ dài của một bên cánh”. Trong ánh mắt của Arms, chứa đầy sự tán đồng.
Sau khi nghe cậu ấy trình bày xong, tôi gật đầu, thể hiện sự tin tưởng của mình, sau đó lẳng lặng rời khỏi phòng. Tôi lập tức liên tưởng đến lúc ngồi trong xe trông thấy Millea đang đi trong con hẻm nhỏ, nhưng hai thanh niên đó nói là người mặc quần áo trắng, lại khiến tôi không thể không nghĩ đến người đàn ông mặc bộ quần áo trắng hôm nọ, cùng với những lời anh ta nói với tôi.