T
ôi đẩy ánh đèn pin khỏi mắt.
“Xí cái! Tớ không cần biết cái bà Đại Thị Nhân này thần thông cỡ nào, nhưng bà ta sai quá sai rồi nhé. Tớ không có ngu đến mức thả tự do cho một con quái vật xấu xí lắm lông hiếu chiến đâu!”
“Ừ hử.” Brooks nhướn mày. “Chậc, tớ có nói Ah-Puch lắm lông hồi nào đâu chứ, với cả Đại Thị Nhân đã bị trừng phạt vì dám đưa ra lời Sấm đó, nên tớ khá chắc nó là thật. Việc gì bà ấy phải hy sinh tính mạng vì một lời nói dối đúng không?”
“Hy sinh tính mạng?”
“Các vị thần đã xử tử bà ấy. Tớ đoán họ chẳng thích điều bà ấy tiên đoán.”
“Lời Sấm đó cụ thể là thế nào vậy?”
Cô hạ giọng xuống như muốn thầm thì. “Rằng một kẻ mang trái tim thuần khiết đầy quyền năng với dòng máu cổ xưa sẽ hạ thế, và hắn sẽ phá tan xiềng xích cho vị thần của cái chết, rằng quỷ dữ sẽ được phóng thích vào thời khắc nhật thực.”
Nhật thực? Tôi phát hoảng. Ngày mai là đến nhật thực rồi.
“Làm sao cậu biết mấy câu này nói về tớ chứ? Nó có thể chỉ bất kì ai.” Tôi chả có quyền năng nào. Một tí cũng không. Rồi cái vụ trái tim thuần khiết là sao chứ? Làm như tôi là nai Bambi không bằng!
Brooks mím môi. “Tất cả manh mối đều dẫn đến cậu.”
“Ai nói thế?”
“Đừng lo. Tớ sẽ giúp cậu tìm ra chỗ chôn giấu Ah-Puch. Rồi một khi có được món bảo vật, tớ sẽ mang nó đi thật xa, không để cậu trở thành kẻ hủy diệt thế giới. Nghe ổn chứ?”
“Nhưng lỡ con truy quỷ kia lấy nó đi rồi thì sao?” Tôi mong tình huống này xảy ra chết đi được.
“Không thể nào.”
Tất nhiên là không thể rồi. “Tại sao chứ?”
“Lũ truy quỷ muốn cậu giải thoát cho Ah-Puch. Chúng không mang món bảo vật kia đi đâu. Với cả chỉ có thể giải phóng Ah-Puch tại đúng nơi hắn bị giam cầm.”
(Mấy ông thần bà thánh các vị phòng ngừa hết đủ đường rồi đấy nhỉ?)
“Chuyện … chuyện gì sẽ xảy ra nếu Ah-Puch được tự do?” Tôi hỏi. “Chắc lão sẽ trở về địa ngục ha? Giành lại vương quốc? Tiếp tục làm vua chết hay thần chết gì gì đó đúng không?” Giọng tôi âm vang khắp đường hầm.
“Chưa chắc đâu. Lúc bị phong ấn lão ta đã thề độc rằng sẽ báo thù tất cả những ai trừng phạt lão. Và sau đó, lão ta sẽ hủy diệt toàn bộ thế gian này.”
Đương nhiên rồi… Tôi tuyệt đối không thể để chuyện đó xảy ra được. “Cậu có biết cái món bảo vật đó trông thế nào không vậy?”
“Nó có thể là bất kì vật gì. Một tảng đá. Một bức tượng. Một mảnh kính vỡ.” Cô đảo mắt nhìn quanh. “Nhưng đừng lo. Thấy là biết thôi.”
Mặt tôi bỗng nóng bừng bừng. “Tớ thà không biết gì thì hơn.”
“Đừng hoảng vậy chứ,” cô nói, giọng đều đều bình tĩnh.
Phải rồi, lo lắng làm gì? Chỉ là một lão thần chết thời viễn cổ bị nhốt trong một món bảo vật (có thể là bất kì thứ gì), giấu giữa lòng một ngọn núi lửa phía sau nhà tôi, và tôi được tiên đoán sẽ thả lão ta ra thôi mà. Đấy, chả có gì phải lo hết.
“Còn cậu thì có vai trò gì trong toàn bộ chuyện này?” Tôi hỏi, định bụng sẽ viện cớ tới giờ ăn tối hay giờ học hay bất cứ giờ gì để đánh bài chuồn khỏi chỗ này.
“Đây là nhiệm vụ của tớ.”
“Nhiệm vụ?”
“Nhiệm vụ để chứng tỏ bản thân.”
“Chứng tỏ với ai cơ?”
Cô kéo tay áo, lắc lắc đầu. “Cứ coi như đây là một việc rất quan trọng đối với tớ, tớ bắt buộc phải thành công, nhưng cái đó tính sau đi. Cái chính bây giờ là cậu cần phải biết phép thuật của bảo vật kia sẽ vời gọi cậu đến. Chỉ mình cậu mới có thể cảm nhận được mà thôi. Hiểu chứ?”
“Chà, nếu thế thì tớ cứ để mặc Lão Mửa chết rục ở đây thôi. Tớ sẽ giả vờ tất cả chuyện này chưa từng xảy ra. Thế là khỏi cần đi vào tìm kiếm lão nữa, nhé.”
Brooks cau mày, tôi biết mình sẽ không ưa những lời cô sắp nói. “Mọi thứ không vận hành như thế. Cậu không có lựa chọn nào khác đâu. Một khi phép thuật vẫy gọi, cậu bắt buộc phải trả lời.”
“Gọi? Gọi kiểu tổng đài 1-800-Phép-Thuật-ơi hả?”
“Như thể cậu có thể cảm nhận được phép thuật bằng một cách nào đó.” Brooks nhìn tôi chăm chú. “Cậu sẽ biết khi phép thuật triệu hồi… tớ nghĩ thế. Cậu không tài nào phản kháng nổi đâu. Dù cậu có cố gắng làm vậy đi chăng nữa, lũ truy quỷ cũng sẽ bắt cậu lại và ép cậu phải giải phóng Ah-Puch.”
“Tớ chỉ biết là chúng ta không nên có mặt ở đây.” Bụng dạ tôi nhộn nhạo như bị xay thành sinh tố. Tôi ghét cái sự thật là mình chẳng có lựa chọn nào. Sao cũng mặc, tôi sẽ chứng minh cho mụ Đại Thị Nhân kia, và cả Brooks nữa, là cả hai người họ sai đứt đuôi rồi. Tôi cũng sẽ chặn số bất kì cuộc gọi nào từ cái phép thuật quái quỷ kia.
Cảm giác tội lỗi trào ngược trong bụng. Tôi mở cái con đường dẫn vào lòng núi lửa làm gì cơ chứ?
“Tại sao tớ phải tin cậu?” Tôi buột miệng. “Làm sao tớ biết cậu ở phe thiện trong cái mớ bòng bong này?”
Mặt Brooks xụ xuống, tôi biết mình đã nói động đến lòng tự ái của cô. “Cậu thắc mắc cũng đúng thôi,” cô đáp. “Làm sao cậu biết chắc tớ là người tốt được chứ?” Ánh mắt chúng tôi giao nhau trong ánh sáng lập lòe mờ ảo. “Tớ là một nawal, bản chất của chúng tớ là trung thành. Nó ở trong ADN của tớ rồi. Chúng tớ có nghĩa vụ phải phụng sự những mục đích cao cả.”
Mục đích cao cả ư? Tôi chẳng hiểu cô ta đang nói cái gì nữa.
“Zane, động não đi. Nếu tớ muốn Ah-Puch được tự do, tớ đã để cậu tìm thấy lão rồi giải thoát lão luôn rồi. Nhưng như tớ đã nói, tớ muốn mang món bảo vật kia đi thật xa!” Cô tiến lại gần, gương mặt đầy căng thẳng và quyết tâm. “Tớ tới từ một thế giới mà cậu… cậu không thể nào hiểu được đâu. Sao cậu không thể đơn giản cảm ơn tớ vì đã giúp cậu chứ?”
Chẳng hiểu tại sao, nhưng lời nói của cô làm lòng tôi đau nhói. Tôi xoay người, tiếp tục dấn sâu vào bóng tối. “Thật ra thì,” tôi nói vọng ra sau vai, “nếu tớ là người duy nhất có thể nghe được lời triệu gọi của phép thuật, vậy thì cậu phải cảm ơn tớ mới đúng.”
Rosie thở hồng hộc sánh bước bên cạnh tôi.
Tôi vỗ về đầu nó. “Mày nói đúng đó gái. Vụ này điên thật.”
Cả bọn đi tới một cái dốc thoai thoải dẫn vào khoảng hang rộng lớn. Tôi từng đi ngang qua đây trong mấy lần thám hiểm hang động, nhưng lần này có mùi gì đó thối rữa lấn át không khí cùng mùi đất thơm mọi khi. Ruột gan tôi gào thét. CHẠY NGAY ĐI!
Khoảng sáu mét phía dưới là một bãi cát mấp mô rộng khoảng bốn mét vuông. Nó dẫn tới một hành lang hẹp mà tôi biết chắc là ngõ cụt.
Brooks thận trọng quan sát. “Lạy thần K,” cô thì thầm.
“Thần K?”
“Gọi tắt cho thần Kukuulkaan, đại thần siêu cấp bá đạo ấy.” Cô thấy tôi tròn xoe mắt thì thở dài. “Thôi bỏ đi.”
Rosie đánh hơi mặt đất rồi lại rên rỉ.
Tôi theo chân Brooks xuống con dốc, đống sỏi lởm chởm làm tôi suýt ngã sấp mặt.
“Được rồi, chẳng thấy cái gì kêu gọi tớ hết,” tôi hoan hỉ nói, “Cậu tìm lộn người rồi nhé. Nhầm người với người ấy mà. Chuyện xảy ra suốt. Cậu đói chưa? Về nhà tớ ăn tối nhé?”
Brooks lo lắng nhìn quanh, “Cậu chắc là không cảm thấy gì đặc biệt chứ?”
“Chắc cú luôn.”
“Chắc cỡ sáu mươi phần trăm, hay là gần mức trăm phần trăm?”
Bỗng một tiếng kêu rợn gáy cất lên từ đường hầm bên phải. “Ờ… sau tiếng đó thì chắc khoảng âm-phần-trăm,” tôi đáp. “Cậu nghe chứ?”
Lách cách. Lách cách. Lách cách.
“Còn tiếng đó thì sao?”
Tôi phóng tầm mắt vào khoảng không đen kịt. Chúng tôi không hề đơn độc. Có cái gì đó đang ẩn nấp ở cuối đường hầm.
Rosie bắt đầu bồn chồn. Tôi phải móc tay vào vòng cổ để giữ nó lại. “Bình tĩnh nào cưng,” tôi thì thào.
Một tiếng gầm khe khẽ truyền tới, theo sau đó là cái mùi nôn mửa kinh tởm đến quen thuộc. “Cậu ngửi thấy mùi đó không?” Tôi lại thì thào.
“Ừa,” Brooks khẽ nói. “Ngửi thấy nãy giờ rồi.” Dứt lời, cô lao thẳng vào trong đường hầm.
“Brooks!” Tôi rít lên, theo chân cô vào trong.
Đuổi tới nơi, tôi thấy cô đứng chết trân ra đó. Phía cuối con đường ba mét kia là một con truy quỷ đang đứng cúi mình lom khom, quay lưng lại với bọn tôi. Không rõ có phải cùng con quỷ tôi thấy hôm nọ hay không nữa. Da thịt của nó nhờ nhờ trong suốt, mạch máu đen thui đan chằng chịt như dây thừng.
Phần dị nhất? Con quái vật đang đeo một cặp tai nghe to quá khổ.
“Quỷ cũng nghe nhạc á?” Tôi thì thầm.
May mắn thay, nó vẫn chưa nghe thấy hay nhìn thấy bọn tôi. Brooks bắt đầu thở gấp.
Tôi nhận ra con quỷ đang cố đào hầm xuyên qua bức tường bằng cách cẩn thận gỡ từng tảng đá đặt xuống đất. Công việc tẻ nhạt nhất Trái Đất, chắc luôn. Mong là danh sách nhạc của nó phải thật hay vào, và phải thật êm tai nữa.
Brooks từ từ lùi lại.
Rosie bỗng kêu ư ử, con truy quỷ quay phắt lại nhìn thẳng về hướng chúng tôi. Có khi đây là anh bạn phi công hôm nọ, tôi không dám chắc lắm. Mắt nó vẫn to thô lố, mấy tảng lông trông đen hơn và xơ xác hơn khi nhìn gần. Nom hệt một miếng chùi nồi khổng lồ đang nổi điên vậy.
Tim đập liên hồi, tôi lùi lại từng bước một, không quên kéo cổ con Rosie theo. Rosie bỗng sủa vang ầm ĩ, cố giằng khỏi tay tôi.
Con quỷ gầm gừ, đánh hơi không khí rồi tiến về phía cả bọn. Tôi lùi một bước, nó tiến một bước, đầu nghiêng sang bên như đang nghiên cứu mọi hành động của tôi.
“Ờm, tụi này tính đi ngay đây,” tôi run giọng.
Con quỷ vẫn không chịu dừng bước. Tôi chỉ muốn quay đầu phắn khỏi đây thật nhanh, nhưng sợ chuyển động đột ngột sẽ khiến con quái chuyển sang chế độ đồ sát mất.
Chúng tôi đã lùi đến cái hang hồi nãy, “Tránh ra đi Zane,” Brooks bước ra chắn trước tôi.
Con quỷ vừa ra khỏi đường hầm, Brooks liền gào “Đỡ này!” Ánh đèn pin trên tay cô chuyển màu đỏ rực, cô chĩa thẳng vào mặt con quái. Nó quằn quại gào thét, da thịt bốc cháy. Vậy mà tôi tưởng cái mùi nãy giờ đã là thối lắm rồi.
Rosie gầm gừ.
Brooks tiến đến gần con quỷ, cho nó nếm trọn mùi đèn- pin-đốt-da. Rồi đột nhiên, cây đèn pin nhấp nháy, mờ dần rồi tịt hẳn.
Thật hả trời? Bộ nhỏ này không biết kiểm tra pin trước khi đi săn quỷ sao?
Cô lấy tay vỗ vỗ cây đèn. Con quỷ hoàn hồn lại, gỡ cặp tai nghe xuống, rồi lại tiếp tục tiến về phía chúng tôi.
“Nhanh lên Brooks! Chúng ta phải biến khỏi đây gấp.”
Cô trèo ngược lên lối ra, băng qua tôi ở chỗ dốc, chân cô chạy nhanh hơn tôi mà.
Sỏi đá lăn xuống theo chân cô, đập vào cây gậy. Tôi mất điểm tựa mấy lần, không thôi nguyền rủa cái chân ngu xuẩn, nhưng may mà vẫn lấy lại được thăng bằng. Con quỷ bỗng rú lên một tiếng “Ah-Puch!” vang dội khắp hang, làm tôi rợn cả người.
Rosie phía trước tôi hoảng loạn thấy rõ, nó ba chân bốn cẳng trèo lên, nhưng cứ trượt chân xuống mãi. Tôi cũng suýt vấp ngã mấy lần, có thể do tôi đang sợ chết khiếp, hoặc cũng có thể là do con quỷ chỉ còn cách có một bước chân, cơ thể bóng nhẫy thứ dịch nhầy vàng khè tởm lợm.
“Zane Obispo,” nó rít lên. “Zane Obispo.”
Nghe thấy câu đó, tôi vấp chân suýt ngã. Thế quái nào mà nó biết tên tôi vậy?
“Nhanh lên!” Brooks gào toáng, vội vã lao về phía lối ra. “Đừng để nó chạm vào người, dịch nhầy nó có độc đó.” Nói xong thì cô hóa thân thành diều hâu. Cây đèn pin rơi lăn lóc xuống đất.
Vào giây phút đó, tôi nhận ra rằng mình chẳng có cơ may nào chạy thoát. Thôi thì hãy đánh lạc hướng con truy quỷ càng lâu càng tốt để Brooks và Rosie có đường thoát thân.
Leo hết con dốc, tôi dựa lưng vào tường, lấy thân mình che chắn cho Rosie. Tôi chĩa cây gậy ra, thầm ước nó là một thanh kiếm diệt quỷ thì hay biết mấy.
Rosie lớp tru lớp sủa, đoạn lách qua giữa hai chân tôi.
Dùng hết sức lực chi sau, nó phóng thẳng vào ngực con quái, cắm ngập răng vào cổ họng.
“ROSIE!”
Con quái loạng choạng, cố gỡ Rosie ra bằng đôi tay đầy dịch nhầy nhụa. Nhưng hàm răng Rosie vẫn cắm chặt vào cổ họng nó không buông.
“Đừng chạm vào nó!” Tôi gào lên.
Brooks sà xuống trợ giúp. Cô cào cấu mắt con quái vật, tiếng kêu quác quác to đến mức hộp sọ tôi rung lên bần bật.
Tôi nhặt một hòn đá ném xuống con quỷ. Hụt cả thước. Con quỷ cuối cùng cũng gỡ được Rosie ra, quăng mạnh con chó đi. Rosie kêu thảm khi va trúng tường, rơi xuống mặt đất phía dưới.
“KHÔNG!” Tim tôi dấy lên một cơn thịnh nộ không gì kiểm soát nổi. Tôi lao đến chỗ con quái, nó tóm lấy hai cánh tay tôi, cắm móng vuốt sâu vào da thịt. Gào thét trong đau đớn, tôi ngã xuống đất, đánh rơi cây gậy.
Brooks lượn vòng phía trên, con quỷ vung tay xua cô như đuổi muỗi.
Cả người tôi nóng bừng như lửa đốt. Nuốt đau, tôi bò dậy, lết đến chỗ Rosie. Chất nhầy lèo xèo trên tay áo đốt bỏng da thịt tôi như axít.
Con quỷ tóm lấy cái chân tật của tôi. Bộ vuốt bấm thủng lớp quần jeans, cắm ngập vào bắp chân tôi đau điếng.
“Bỏ tao ra, đồ nhầy nhụa!” Tôi thét, vặn vẹo lật ngửa lại trong lúc con quỷ kéo lê tôi qua mặt đất. “Mi. Giải thoát Ah-Puch,” nó rít lên.
Nó kéo lê tôi về hướng đường hầm khi nãy, chẳng thèm quan tâm đầu tôi đang nảy tưng tưng trên mặt đất đầy sỏi đá. Brooks bay trên cao với cây gậy chiến trong mỏ. Cô thả nó xuống cạnh tôi, nhưng hai tay tôi hiện thời xìu như hai cọng bún vậy. Nọc độc của chất nhầy ư? Tôi mơ màng hỏi. Cuối cùng cũng xoay sở vớ được cây gậy, ôm chặt vào lòng.
Con quái lôi tôi đến chỗ bức tường bị đào bới. Nó lại tiếp tục công việc với một tay còn lại. Tôi biết mình phải làm gì, chỉ có đúng một cơ hội mà thôi.
“Này!” Tôi gào lên. “Tao sẽ giúp mày. Chỉ cần… chỉ cần mày thả chân tao ra, để tao đứng dậy thôi.”
Con truy quỷ ngoái đầu nhìn tôi. Hàm răng lởm chởm thấp thoáng sau cặp môi mỏng tím đen. Dịch nhầy ứa ra từ hai cái lỗ đúng lí ra là lỗ mũi. Cặp tai sần sùi đeo một mớ khuyên gỗ nặng trịch, kéo thõng xuống như bột nhão. Chẳng biết nó đang nghĩ gì, nhưng may mắn là nó làm theo lời tôi.
Ngay khi con quỷ thả chân ra, tôi liền bò ngược ra sau để lấy thế. Cái chân lành quét thẳng vào mắt cá con quỷ (chiêu đốn chân ưa thích của cậu Hondo), khiến nó ngã lăn ra đất. Lồm cồm bò dậy, tôi giơ cao cây gậy trong lúc con quỷ lóng ngóng tìm cách đứng lên.
Khoảnh khắc con quỷ quay đầu nhìn thẳng tôi, tôi dùng chút sức lực cuối cùng đâm cả cây gậy xuống nó. Cây gậy cắm lút cán vào cái bụng mềm như thạch, nghe ục một tiếng kinh tởm.
Con quái gào lên.
Tôi nhảy lùi lại, sẵn sàng cho một cú trả đòn.
Nhưng không, nó ngã xuống, vừa gào rú vừa cào cấu bụng. Tôi chớp mắt, nhìn con quái vật từ từ tan chảy thành một bãi nhầy đen sì đậm đặc với cây gậy chỏng chơ ngay giữa.