T
rong một phần triệu giây, mọi thứ tôi biết
Hay nghĩ rằng mình biết đều gói gọn trong một từ: chất độc. Tôi quỳ sụp xuống, ôm Rosie vào ngực. Tôi chẳng thèm quan tâm lớp nhầy trên lông nó đang đốt cháy từng lớp da thớ thịt của mình. “Rosie!” Tôi vuốt tay dọc theo người nó, gạt bỏ lớp dịch nhầy nhiều nhất có thể. Nó trút từng hơi ngắt quãng, khe khẽ rên. “Xin lỗi mày. Xin lỗi mày nhiều lắm.”
Brooks hóa lại hình người. Cô quỳ xuống ngay bên cạnh tôi, lắc đầu liên tục và luôn miệng xin lỗi. Cứ như thể giọng cô đã lạc đâu đó trong đường hầm tăm tối kia. Nghe thật nhạt nhòa và xa xăm.
“Làm sao chữa cho nó đây?” Tôi hỏi, chẳng quan tâm giọng mình có nghe như con nít hay hai mắt bỏng rát vì những giọt nước mắt nóng hổi. Rosie run rẩy trên tay tôi. “BROOKS!”
Cô gái nawal thất thần nhìn quanh như thể phép màu đang nằm đâu đó trong hang cho chúng tôi nhặt vậy. Rosie đưa cặp mắt nâu tròn nhìn lên như van nài tôi giúp nó bớt đau đớn. Tôi căm ghét bản thân vì không giữ được lời hứa, vì đã để Rosie bị thương.
“Cố lên đi gái,” tôi nói, đứng thẳng dậy. Tôi bắt đầu bế nó ra khỏi hang. Mọi cơ bắp trên chân tôi kêu gào đau đớn. Mày làm được mà, tôi tự nhủ. Bước từng bước cẩn thận nối tiếp nhau, như khi đi trên miệng núi lửa ấy.
Hơi thở Rosie dần trở nên khó nhọc. Từng tiếng khò khè khiến tôi muốn đấm cả cái thế giới này. Và rồi, Rosie rùng mình một lần cuối. Thân thể nó buông thõng trên tay tôi, bất động. Tôi ngã quỵ, không thở nổi.
Bỗng nhiên… chớp mắt cái, Rosie biến mất, tan thành một làn khói lấp lánh xanh.
Tôi ngó trân trân xuống đôi tay trống rỗng. “Rosie? Rosie đâu rồi? Chuyện gì vừa mới xảy ra vậy?”
Brooks trông cũng bàng hoàng không kém.
“Brooks! Con chó của tớ đâu?” Tôi nổi giận thực sự. Giận tới phát rồ.
Cô nhắm mắt, chầm chậm lắc đầu. “Xib’alb’a. Âm giới.”
“Không thể nào! Sao lại như vậy?”
“Nó bị… giết bởi một con truy quỷ, thế nên… ”
“Nơi đó có thật sao? Nó ở đâu? Tớ phải đi tới đó.” Tôi gào thét.
“Cậu… cậu không thể đến đó đâu.”
“Sao lại không?”
“Bởi vì cậu phải chết trước đã.”
Cơn giận của tôi bỗng chốc hóa thành ngọn lửa phẫn nộ chảy khắp huyết mạch như dung nham.
“Chúng ta phải rời khỏi đây thôi!” Brooks kêu lên. “Sẽ có thêm truy quỷ tới đây để…”
“Không có Rosie thì không đi đâu hết.”
“Nó không còn ở đây nữa Zane! Chiến đấu với một con truy quỷ đã khó khăn đến nhường này rồi. Cậu thử tưởng tượng chiến đấu với một tá đi.” Brooks ôm lấy cánh tay tôi, khiến tôi nhìn vào mắt cô ấy. “Xin cậu đấy.”
“Còn cái nhiệm vụ quan trọng của cậu thì sao?” Tôi giật tay ra.
Môi Brooks khẽ run. “Lời Sấm Truyền diễn ra vào lúc nhật thực,” cô lí nhí nói. “Chúng ta vẫn còn một ngày để… tìm món bảo vật kia. Nhưng bây giờ thì phải ra khỏi đây ngay thôi. Giờ không phải lúc…”
Tiếng sấm rền vang vọng ngoài hang. Con tim tôi chẳng muốn rời đi một chút xíu nào, nhưng lí trí mách bảo phải làm thế ngay. Nếu tôi muốn cứu Rosie, tôi cần câu trả lời, mà cái hang này thì chẳng có câu trả lời nào cả. Lão Mửa, cái món bảo vật ngu xuẩn, lũ quỷ của lão, tôi chả quan tâm.
“Tao sẽ không quên mày đâu Rosie,” tôi nói vọng vào bóng đêm. “Tao sẽ đến cứu mày.”
Trở ra ngoài hang, một cơn mưa bất chợt quét qua hoang mạc, hai đứa chẳng mấy chốc đã ướt như chuột lột. Nước mưa gột sạch đống dãi nhớt, làm dịu da tôi. Máu vẫn rỉ ra từ vết thủng trên bắp chân, đầu tôi vẫn còn choáng váng, từng phần cơ thể đau đến rã rời.
Brooks vốn có thể bỏ mặc tôi lại đây, nhưng cô không làm thế. Cô lẽo đẽo theo sau, nhìn tôi tập tễnh trên con đường mòn sình lầy.
Tôi lật lật hai bàn tay, xem xét vết thương do chất độc. Lòng bàn tay tôi cứ như bị ai đó tưới nước sôi lên ấy.
Brooks xoa xoa tay dưới mưa. “Khi truy quỷ bị… đe dọa, chúng… chúng sẽ tiết chất độc qua da. Một dạng phản xạ phòng vệ ấy.”
“Tại sao chất độc… giết được Rosie, còn chúng ta thì chẳng sao hết vậy?”
Brooks tránh ánh mắt tôi. “Rosie chỉ là một con chó.”
“Nó không phải chỉ là một con chó!”
“Ý tớ không phải thế,” Brooks vội nói. “Chỉ là… Tớ là một nawal, một sinh vật siêu nhiên, thế nên chất độc không giết nổi tớ. Còn cậu thì là… ” Bỗng cô im bặt.
“Là cái gì?”
“Cậu cũng là sinh vật siêu nhiên.”
“Siêu nhiên ư?” Tôi sững sờ lặp lại.
Ánh đèn chiếu sáng từ phía bên kia sa mạc. Ai đó đang lái xe về phía hai đứa bọn tôi.
“Tớ phải đi thôi.” Cô kêu lên, cơn mưa đã bắt đầu nhẹ hạt.
“Cậu phải chỉ tớ cách cứu Rosie trước đã!”
Brooks vén lọn tóc sũng nước khỏi mặt. “Tớ không biết.”
Giọng cô run rẩy đến mức tôi nghĩ cô sắp phát khóc, nhưng chẳng có giọt lệ nào ứa ra cả. Hoặc có thể cơn mưa đã cuốn trôi đi mất rồi. “Là tại tớ,” cô tiếp lời. “Tớ cứ ngỡ là tớ làm được, tớ cứ ngỡ có thể khắc phục mọi thứ.”
“Khắc phục? Khắc phục cái gì chứ?”
Ánh đèn xe chỉ còn cách chừng hai mươi mét. Người lái xe nhất định đã nhìn thấy bọn tôi. Tôi lại tiếp tục lê bước, lòng quyết tâm tìm bằng được con chó cưng cũng như đáp án cho chuyện này. Nếu Brooks không có câu trả lời, biết đâu trong quyển sách thần thoại Maya lại có thì sao. Quyển sách có viết về Âm giới, tôi lờ mờ nhớ là đã từng có người xuống đó. Hoặc từ đó trở về. Không rõ lắm.
Tôi quay sang định hỏi Brooks có biết gì về thần thoại đó không thì chẳng thấy cô đâu nữa. Cô đã bay đi mất tự lúc nào.
Một tiếng sột soạt gần đó khiến tôi chú ý. Tôi đảo mắt nhìn theo, trông thấy một con cú với bộ lông đen hơn mực đậu trên một tảng đá lớn. Chính là con cú đêm hôm nọ. Đâu thể là Brooks đúng không? Con cú dán chặt mắt vào tôi, cặp mắt tỏa ánh vàng nhè nhẹ như hai đốm lửa tí tách. Không đâu, Brooks chỉ biết hóa thành diều hâu thôi. Mà dù có biết thì chắc chắn cô cũng không chọn lốt cú. Mẹ nói cú là điềm báo của cái chết, dặn tôi phải tránh thật xa chúng ra.
Ánh đèn xe đảo đến gần hơn, con cú bắt đầu xòe rộng đôi cánh. Tôi đông cứng cả người khi nghe nó cất tiếng khàn khàn của một bà lão, “Lời Sấm Truyền đã bắt đầu.”
Một con cú biết nói sao? Cơ mà một ngày điên rồ như hôm nay thì thêm chuyện này cũng chẳng có gì lạ. Tôi nhặt một cục đá ném vào con cú. Hòn đá đáp cách thân hình lấp lánh của nó cả mét. “Tao không dính líu gì tới mấy lời Sấm vớ vẩn hết. Tao chỉ muốn con chó của tao quay về thôi!”
Con cú kêu một tiếng (nghe giống tiếng thét hơn là tiếng cú kêu), đoạn tung cánh vào bầu trời đêm.
Tôi nhận ra chiếc xe tải đỏ ngay khi thấy bà Cab bước xuống xe. Nó vốn là đống sắt vụn đậu trước nhà bà Cab suốt bấy lâu nay. Mất thêm một giây nữa não tôi mới bắt đầu hoạt động. Người mù đâu thể lái xe. Làm sao bà ấy ra đây được? Làm sao bà ấy biết tôi đang ở đâu?
“Zane, cháu cần phải đi theo ta,” bà ấy nói.
Dạ dày tôi bỗng nhiên quặn ngược. Đầu gối mềm nhũn, tôi ngã lăn ra bất tỉnh.
Tôi tỉnh dậy tại nhà bà Cab. Cái quạt trần quen thuộc xoay từng vòng chầm chậm ngay trên đầu.
“Tốt quá, cháu tỉnh rồi.” Bà vừa nói vừa bước tránh đống giấy tờ sách vở nằm rải rác khắp căn phòng khách bừa bộn. Tôi chả bao giờ hiểu được tại sao bà lại có nhiều sách đến thế, bà bị mù cơ mà. Tôi chống tay ngồi dậy trên chiếc ghế sô pha nhung vàng. Tôi thường hay ngồi chỗ này mỗi khi giúp bà trả lời cuộc gọi xin bói quẻ. Nhà bà có mùi như sa mạc và vụn viết chì, chắc là do tường nhà được xây bằng gạch bùn trộn cùng rơm rạ.
Bà ngồi xuống chiếc ghế da màu đỏ viền đinh ghim quen thuộc. “Ta đã đắp thuốc mỡ lên mấy chỗ bỏng rồi.”
Tôi ngó xuống bàn tay được thoa một lớp dầu bóng mượt, nhìn như nha đam. Chưa gì tôi đã thấy mấy chỗ bỏng đỏ phai màu bớt rồi.
Điện thoại bỗng reng chuông, bà Cab thở dài nhấc máy. “Đi nghỉ, tới khi nào có thông báo hẵng gọi lại.” Bà nói, đoạn hạ ống nghe về chỗ cũ. “Kể cho ta nghe chuyện gì đã xảy ra đi Zane.”
Giọng bà nghe cứ như bản ghi âm phát chậm ấy. Tôi ngó trân trân lên cây quạt trần không biết trong bao lâu, thế rồi thực tại ập về đau điếng. Theo như một lời Sấm Truyền ngu xuẩn nào đó, tôi sẽ giải thoát cho vị thần của cái chết, bóng tối và hủy diệt. Việc tôi dọn đường vào hang đã kích hoạt lời Sấm. Rồi cái con truy quỷ đó, nó đã gọi tên tôi…, nó đã giết Rosie. Rosie chết thật rồi. Mắt tôi cay sè.
Bà Cab đặt đôi tay nhăn nheo lên đùi. “Zane?”
Tôi ngồi thẳng dậy, nhìn bà Cab hồi lâu. “Làm sao bà biết cháu ở ngoài đó? Làm sao bà lái xe được khi không thấy đường?”
“Tất cả rồi sẽ được trả lời vào thời điểm thích hợp,” bà đáp. “Nhưng trước hết…”
Ấm đun chợt hú lên, khiến tôi giật mình nhảy dựng. “Chờ đó,” bà nói. Bà đi vào bếp, mang ra hai cái tách bốc khói. Giờ tôi chẳng có tâm trạng đâu để uống trà. Mà thật ra thì có bao giờ tôi có tâm trạng uống trà đâu cơ chứ, nhưng tôi thừa biết không nên tranh cãi với bà làm gì, nên đành hớp lấy một ngụm. Vị còn kinh khủng hơn liếm một cái gạt tàn thuốc. Tôi sặc lên tận mũi, thè lưỡi ra.
“Nó giúp cháu hồi phục cơ thể và thư giãn,” bà nói. “Cháu bầm dập không ít chỗ đâu. Ta đã dặn là phải tránh xa cái chốn ghê tởm đó ra rồi mà.”
Phải chi tôi chịu nghe lời bà sớm hơn. Rosie sẽ không chết.
Bà Cab gỡ cặp kính xuống. Cặp mắt trắng dã chẳng hề có con ngươi. “Chuyện gì xảy ra trong ngọn núi lửa vậy Zane? Tại sao cháu lại đi cùng con bé nawal đó? Nó đã nói gì hả?”
Cơn giận cay đắng cuộn trào trong lòng, tôi muốn nói, bà là thầy bói cơ mà, bói thử đi. Nhưng thay vào đó, tôi chỉ nói, “Rosie chết rồi.”
Bà Cab lắc đầu. “Ta rất tiếc về điều đó. Đưa ta cái hộp kế bên cháu giùm với?”
Tôi run rẩy đưa bà cái hộp đen to cỡ hộp đựng giày. Tôi chưa từng thấy nó trong căn nhà này trước đây. Nó khá nhẹ, làm bằng gỗ balsa thô kệch. Trên nắp sơn mấy chữ tượng hình Maya màu đỏ: một hộp sọ có cặp mắt ngoại cỡ, một con chim mỏ bự, cùng một con rắn lưỡi nhọn hoắt.
Bà Cab chầm chậm mở nắp hộp. Nhìn thấy thứ bên trong, bụng tôi lại thêm một phen nhào lộn, tôi nôn thật mất.
Xếp trong đó là hai hàng mắt người. Vâng, chính xác đấy. Mắt người sống! Bà cúi xuống cái hộp, móc hai con mắt trên mặt ra cứ như thể chúng chỉ là kính sát tròng, rồi thay bằng hai con mắt mới. Bà chớp mắt vài cái, để lộ đồng tử màu xám tro. Xong bà xếp cặp mắt trắng ngay ngắn vào trong hộp.
Tôi nghĩ tôi phát bệnh mất thôi.
“Bà Cab! Bà…”
“Bình tĩnh nào, Zane. Uống trà đi cháu.”
Vậy ra cảm giác bị sốc là thế này sao? Nghẹn thở, tê dại rụng rời. Tôi chỉ biết gật đầu và chớp mắt. Tôi chớp mắt liên tục, cứ như thể chớp mắt là tất cả chuyện này sẽ trở thành một cơn ác mộng mà thôi. Rồi tôi sẽ tỉnh dậy bình an vô sự, cùng với Rosie nằm ngay kế bên. Tôi vô thức nhấp từng ngụm trà dở ẹc.
Đôi mắt mới của bà Cab quan sát tôi.
Mặc dù trà dở như hạch, nó vẫn giúp tôi trấn tĩnh lại đôi chút. “Mắt của bà trông vẫn kinh dị quá.” Tôi bảo. Lời vừa ra khỏi miệng, tôi liền không tin nổi mình lại nói một câu khiếm nhã đến như vậy. “Cháu xin lỗi, cháu…”
Bà Cab vừa chỉnh lại chiếc thắt lưng trên chiếc váy hoa, vừa cười tủm tỉm. “Tác dụng phụ của trà hồi phục đấy. Nó bắt cháu nói thật. Giờ kể ta nghe thật chi tiết nào.”
Não đơ đơ, nhưng tôi không thể nào ngăn được cái miệng phun ra tất cả mọi chuyện cho bà Cab. Hình như tôi còn nói cả chuyện thấy Brooks rất xinh.
Nghe xong toàn bộ câu chuyện đáng sợ, bà gật đầu rồi đứng dậy, “Vậy là nó đã bắt đầu rồi.”
Tôi có hàng triệu câu hỏi, nhưng điều quan trọng nhất lúc này là tập trung vào cô chó của mình. “Cháu cần tìm Rosie. Tại sao nó lại biến mất như vậy?”
Bà Cab nở một nụ cười hiền từ nhưng ngập tràn buồn bã, cứ như thể bà thật sự cảm thấy buồn cho Rosie. “Phép thuật vốn rất khó lường,” bà đáp. “Không một ai có thể hoàn toàn thấu hiểu tính chất hay quy luật của nó. Nhưng một khi truy quỷ giết ai, thì kẻ đó thuộc về Âm giới mãi mãi. Ôi cháu yêu, trông cháu xanh xao thế?”
Cả thế giới chao đảo. “Cháu cảm thấy không khỏe lắm.” Vừa dứt lời là tôi nôn thốc nôn tháo xuống sàn nhà.
Bà chẳng hề bận tâm, thậm chí còn vỗ nhè nhẹ lưng tôi nữa. Vừa lau sàn, bà vừa trấn an rằng cái loại trà nói thật kia khiến ai uống vào cũng nôn thốc hết.
Sau khi nôn sạch sẽ, tôi cảm thấy cơ thể đỡ được đôi chút, nhưng tâm trạng thì tệ hơn và bối rối hơn rất nhiều. Tôi ngồi thụp xuống ghế bành, xoa xoa cái cổ căng cứng. “Cháu vẫn chưa hiểu gì hết. Bà liên quan gì đến mấy thứ này? Bà có biết trước việc con quỷ đến hay không?” Tôi kịp nuốt câu mình thực tâm muốn hỏi: Và nếu bà biết, tại sao bà không giúp cháu trước khi con chó cưng của cháu chết?
Bà Cab đi đến kệ sách, lôi ra một cuộn giấy dài ngả vàng theo thời gian. “Ta là một nik’wachinel,” bà đáp, “một nhà tiên tri người Maya.”
Brooks nói vị Đại Thị Nhân kia cũng là một nhà tiên tri… Thảo nào bà Cab hành nghề bói toán.
Nhưng mà sao tự nhiên đùng phát tôi lại gặp phải đủ thứ liên quan đến thần thoại Maya thế này?
Tôi nhớ lại lời Sấm: Kẻ mang trái tim thuần khiết đầy quyền năng với dòng máu cổ xưa… Tôi quá chú ý đến chữ quyền năng mà quên mất đoạn dòng máu cổ xưa. Cha tôi cũng là người Maya sao? Rồi tôi chợt nhớ đến lời cuối cùng Brooks nói với tôi: Cậu cũng là sinh vật siêu nhiên. Câu đó rốt cuộc là có ý gì?
Đầu tôi quay cuồng, bà Cab thì vẫn tiếp, “Nhiệm vụ của ta là trông chừng cháu, và… Đừng nhìn ta kiểu đó chứ.”
Tôi đang định hỏi Kiểu gì? thì bà tiếp lời, “Không tiên đoán tương lai chuẩn đâu phải lỗi của ta chứ. Là do mấy con mắt trời đánh này nè! Ta phải nói chuyện lại với người bán hàng mới được.” Bà lắc đầu, con mắt trái lệch đi một tí. “Cái chính là ta tới ngay khi nhìn thấy viễn cảnh cháu đánh nhau với con truy quỷ. Còn chuyện làm sao ta có thể lái xe, khả năng thị kiến của ta có đôi lúc hơi không đáng tin, nhưng thị lực thì hoàn toàn bình thường đấy nhé, cảm ơn rất nhiều.”
“Ý bà là mấy con mắt trắng kia là giả á?” Không thể tin nổi bà ta lừa tôi bấy lâu nay.
“Ta đeo nó ở nơi công cộng để ngụy trang. Không muốn mọi người đồn ầm lên ta là một nik’ wachinel. Có thể dẫn tới nhiều nguy hiểm.” Bà đặt cuộn giấy xuống bàn cà phê. “Với lại, chúng khiến ta chuyên nghiệp hẳn lên. Người ta thường hay kính nể mấy bà đồng mù. Chả rõ tại sao.”
“Khoan. Bà vừa nói nhiệm vụ của bà là trông chừng cháu ư? Không phải cháu hỗn, nhưng mà bà… ừm… bà không giống người đủ sức bảo vệ cháu đâu.” Bà ấy thấp ngang ngửa mẹ tôi, và già hơn chừng ba chục tuổi đấy!
“Cháu an toàn mà, đúng chứ? Ít nhất là cho đến lúc này.”
“An toàn á? Con quỷ đó giết Rosie… Nó lôi cháu xuyên cả hang để bắt cháu giải thoát cho lão thần Mặt Mửa.”
“Ừ thì… đôi khi ta không chắc viễn cảnh mình thấy diễn ra ở hiện tại hay tương lai. Cái này gọi là phản ứng chậm. Nhưng ít nhất thì ta cũng kịp tìm ra cháu rồi còn gì, tí nữa là con bé kia bắt cháu giải phóng Ah-Puch ra ngoài rồi.”
“Không phải,” tôi cau mày. “Brooks đến đây để cảnh báo cháu, để mang cái món bảo vật kia đi thật xa. Để ngăn lời Sấm Truyền thành sự thật.”
“Lũ nawal gian xảo lắm Zane. Cháu không tin chúng nó được.”
Tôi thầm ngẫm lại. Brooks nói lòng trung thành chảy trong máu của cô. Cô đã giúp tôi đánh bại con truy quỷ… đúng không? Nhưng tới giờ tôi vẫn chẳng biết được bao nhiêu điều về cô hay cái nhiệm vụ của cô. Nếu nhiệm vụ này quan trọng đến thế, tại sao cô cứ nằng nặc phải rời khỏi hang thật nhanh? Là cô cảm thấy có lỗi với Rosie đến mức không thể tiếp tục được? Hay là cô thật sự sợ lũ truy quỷ lại kéo đến nữa?
Bà Cab đặt ngón tay lên mắt trái, xoay nhẹ nó tới khi con ngươi quay về vị trí chính giữa. “Cháu sẽ còn cảm thấy buồn nôn nữa, tùy thuộc vào việc cháu giấu bao nhiêu lời nói dối trong lòng.” Bà thản nhiên nói như thể đang mô tả triệu chứng bệnh cúm.
“Bao nhiêu lời nói dối trong lòng? Cháu không có nói dối!”
Bà Cab mặc kệ tôi nổi giận, tiếp. “Việc cháu cần làm bây giờ là án binh bất động. Lũ truy quỷ sẽ lại kéo đến đông hơn, rồi khi bọn chúng biết cháu giết đồng loại của chúng thì… ôi Dios.” Bà lắc đầu khe khẽ, cứ như tôi chỉ làm vỡ tách trà chứ không phải giết một con quỷ ấy.
Ôi trời, chỉ mới nghĩ tới con truy quỷ thôi đã khiến tôi muốn nôn mửa nữa rồi. “Chúng ta phải chạy trốn!” Tôi run giọng. “Đón mẹ cháu với cậu Hondo, rồi trốn đến một nơi thật xa. Alaska, Tây Tạng, đâu cũng được.” Chỉ cần không có núi lửa.
Bà Cab ung dung bước đến bên cửa sổ, kéo rèm cửa lên rồi phóng mắt ra màn đêm. “Ta e rằng làm thế cũng không được gì đâu Zane. Cháu thấy đấy, Lời Sấm Truyền Lửa vô cùng quyền năng, quyền năng hơn ý chí của cháu nhiều.” Như đọc được sự bối rối trên mặt tôi, bà bước tới ngồi xuống bên cạnh. “Nó giống như giấc ngủ vậy. Dù cháu có trốn chạy khỏi nó như thế nào đi chăng nữa, cơn buồn ngủ cũng sẽ ập đến mà thôi. Không gì ngăn được nó cả.”
Tôi chẳng buồn lí giải lời bà bằng phần não logic nữa rồi. Để đối mặt với cái thực tại khác lạ này đòi hỏi một thứ khác. Một thứ tôi không chắc là mình có. Niềm tin vào điều bất khả.
Tôi ngả đầu ra ghế, dụi mắt. “Sao lại là cháu cơ chứ? Cháu chỉ là một thằng nhóc quèn thôi mà.”
“Thật ra cháu không phải là một thằng nhóc quèn đâu. Cháu là…” bà ngập ngừng.
“Sinh vật siêu nhiên? Vâng, Brooks có nói rồi. Nhưng mà nó có nghĩa gì cơ chứ? Bộ cháu cũng là nawal sao bà?”
Nếu bà Cab ngạc nhiên thì cũng không thể hiện. Bà chỉ vỗ vỗ cái chân tật của tôi, từ tốn nói, “Nó có nghĩa cháu chỉ có một nửa là người.”
Lời bà đến tai tôi, nhưng phải mất vài giây nữa mới chui được vào não.
“Ta biết phần con người trong cháu đang rất sốc trước chuyện này,” bà nói. “Cho cháu vài phút để tiếp nhận đấy.”
Vài phút thật ra chỉ vỏn vẹn năm giây, vì bà đã ngay lập tức giải thích phần tiếp theo. Và những lời đó đúng nghĩa khiến thế giới của tôi đảo ngược từ trên xuống dưới lẫn từ trong ra ngoài.