T
ôi ì ạch leo lên ghế phụ lái.
Cậu Hondo liếc mắt nhìn tôi một lượt rồi lắc đầu. “Tóc mày dính rong biển kìa.” Tôi gỡ nó ra, len lén đưa mắt nhìn Brooks. Cô đang nghiên cứu tấm bản đồ thông quan ở băng sau, cố tình tránh ánh mắt tôi. Cô bị cái gì vậy chứ? Tôi thật muốn kéo cô ra một góc để nói rõ hai mặt một lời với nhau, nếu được.
“Tớ phải thay đồ.” Tôi với tay ra sau lấy ba lô. “Ừm… Brooks có thể… quay mặt đi chỗ khác không?”
Cô trợn mắt, đoạn nâng tấm bản đồ lên che khuất mặt. Tôi cởi bộ đồ ướt nước biển ra, thay vào quần áo mới rồi nhét cây răng ngọc vào túi quần. Mớ đồ ướt bị tôi ném ra thùng xe để phơi nắng cho khô. Vẫn còn thấy rét run, tôi bèn mặc chồng thêm một cái áo thun dài tay màu xám.
Nhiều lúc phải nói tôi đúng là cái thằng có số nhọ nhất vũ trụ này. Sinh ra với cái chân tật là một chuyện, làm cái thằng ngu xui xẻo giải phóng cho thần chết lại là chuyện khác hoàn toàn. Rồi phải trốn tránh để không bị các thần cho vào danh sách truy nã? Vâng, thê thảm không kém. Nhưng có một điều còn kinh khủng hơn hết thảy: bằng chứng sống cho việc có kẻ đã vi phạm lời Thánh Thệ. Phiền não đủ đường, tôi lại càng thấy mình dị biệt và cô đơn hơn bao giờ hết.
“Capitán à,” cậu Hondo đeo cặp kính râm Ray-Bans lên. Ngoài kia mặt trời hé lộ sau áng mây dày. “Tới Venice rồi thì đi đâu nữa?”
Brooks vẫn giữ tấm bản đồ trước mặt. “Ở trên bãi biển ấy.”
“Chúng sống trên bãi biển à?” Tôi hỏi.
“Đại loại thế,” cô bảo. “Tới nơi rồi biết.” Giọng cô nghe đầy mệt mỏi, mặt mày xanh xao kiệt quệ. Tôi muốn nói chuyện với cô để xem có giúp được gì không. Biết đâu nếu cùng ngồi lại bàn bạc, hai đứa có thể tìm ra lí do cô không thể biến hình. Tôi cũng muốn cho cô biết chuyện Thái Bình và khối ngọc báo nữa… có điều Thái Bình đã bắt tôi hứa không được kể với ai.
Tôi ngả người ra lưng ghế, khoanh tay trước ngực.
Sao Brooks lại không chịu mở lòng với tôi? Cô có vấn đề gì với Ixtab vậy? Thế quái nào mà bà chủ mới của Xib’alb’a lại phái lâu la đi bắt Brooks? Nhất định là cô đang gặp rắc rối gì đó không nhỏ, nhưng là gì mới được chứ?
Rồi một giả thuyết khác ập tới, làm tôi nôn nao muốn bệnh. Liệu Brooks có đang chơi trò gián điệp hai mang không? Liệu cô có thật sự giữ kín chuyện tôi là thần chủng, không trình tấu lại cho kẻ khác không? Đã có quá nhiều người biết được cái bí mật này rồi. Bí mật ngu ngốc! Chỉ giỏi hại đời người ta.
Cậu Hondo bật nhạc punk rock lên, âm lượng lớn tới mức răng tôi va lạch cạch.
Bên khóe mắt, tôi thấy Brooks ngồi nhìn ra cửa sổ, ánh mắt thẫn thờ đến đáng lo ngại. Không biết người ta truy nã Brooks vì lí do gì, nhưng chắc chắn không thể tệ như cái lí do giải phóng vị thần của cái chết, bóng tối và hủy diệt đâu ha?
Chiếc xe phóng vun vút theo Xa lộ 101 cặp bờ biển với người tài xế hát vang sôi nổi. Cậu Hondo ngâm nga theo cái bài gì mà cơ hội cuối cùng rồi được tất hay mất tất. Nếu có vị thần bảo hộ nhạc punk rock thì ông ta chắc chắn phải nghe cái kênh này.
Bãi biển Venice nhìn như một cái hộp nêm chặt. Xe hơi nối sát đuôi nhau suốt Đại lộ Venice, lái xe bấm còi inh ỏi như thể bấm càng to thì người ta đi càng nhanh không bằng. Cả một khu vực rộn ràng nhộn nhịp. Nhà dân, cửa hiệu chen nhau dày đặc, chỉ chừa mấy con hẻm nhỏ làm lối đi. Hai bên đường là hàng cọ cùng cột điện nối dài. Bọn tôi chạy ngang một công trình xập xệ, trên tường vẽ hình một cô gái tóc vàng trượt ván với dòng suy nghĩ đặt trong đám mây lời thoại: LỊCH SỬ LÀ THẦN THOẠI.
Sẽ sớm thôi, nếu cặp sinh đôi không giúp mình, tôi thầm nghĩ.
Đám đông nhàn nhã thả bộ dọc phố: kẻ mang dép lê, người mặc quần đùi với áo bơi. Thậm chí còn có vài anh chàng để ngực trần. Có lẽ đây là phong cách California, nhưng ở nơi tôi sống ấy à? Không có cửa đâu nhé!
Chạy ngang mấy con đường nhỏ, tôi thoáng thấy được vài chiếc cầu bắc qua kênh. Tôi từng xem ảnh chụp Venice thật. Cái nơi này có thể nói là một phiên bản nhỏ hơn nhưng mới hơn. Dòng kênh mất hút vào mê cung những con ngõ tối tăm, cho người ta cảm giác đến cả nơi này cũng ẩn chứa lắm điều bí mật.
“Rẽ phải vào đường Thái Bình,” Brooks nói. Nghe thấy cái tên làm người tôi căng cứng. Cô lại tiếp tục nghiền ngẫm cái bản đồ thông quan. Cô đang tìm gì vậy chứ?
“Gần đây có thông quan nào không?” Tôi hỏi.
Cô gấp bản đồ lại, nhét vào ba lô. “Không.”
Cậu Hondo huýt sáo khẽ một tiếng. “Trước khi xong vụ này cậu phải thử đi qua một cái thông quan mới được.”
Trước khi xong vụ này tôi chỉ mong thế giới đừng có bị tiêu diệt thôi. Tôi chẳng còn kế hoạch nào sau cặp sinh đôi nữa. Cầu mong anh em nhà đó sẽ cho bọn tôi gợi ý để định hướng bước tiếp theo. Không cần biết Brooks nói bọn chúng khó ưa ích kỉ thế nào, hay làm trùm tổ chức mafia phép thuật ra sao, tôi tuyệt đối không rời khỏi đây khi chưa biết được cái bí quyết đánh bại Ah-Puch đâu. Chỉ còn hai ngày nữa thôi, bọn tôi sắp hết thời gian rồi.
Bỗng tôi lạnh người kêu lên, “Nhỡ Ah-Puch tìm thấy anh em bọn chúng rồi thì sao?”
“Chưa đâu,” Brooks nói.
“Sao cậu biết?”
“Cậu không tìm được chỗ đậu xe gần đó đâu,” Brooks bảo cậu Hondo. “Cứ đậu đại ở đây đi.” Cô chỉ vào cái bãi đỗ công cộng, đoạn quay sang tôi. “Vì anh em chúng rất giỏi lẩn trốn. Chúng giăng những loại phép mạnh nhất để bảo vệ mình. Trừ khi được chúng cho phép, còn không thì nơi chúng ở là nội bất xuất, ngoại bất nhập.”
Nghe thế tôi bỗng nhớ tới khối ngọc báo. Thứ phép thuật cổ xưa nhất thế gian, Thái Bình bảo thế. Nó có nghĩa là gì? Nó giúp được gì cho tôi khi tôi thậm chí còn không biết cách sử dụng?
Không chừng nó là một loại ngọc ước ấy nhỉ? Tôi bèn nắm chặt cây răng ngọc trong tay, thầm ước có một cái bánh rán nhân thịt để ăn sáng. Mắt nhắm lại, tay kia xòe ra chờ đợi, nhưng chẳng có gì hết. Chẳng có cái bánh rán ngon lành nóng hổi nào cho tôi.
Giây lát sau, bọn tôi vượt qua được đại lộ đông đúc, vòng vèo theo một con hẻm chất đầy thùng rác hai bên, cuối đường dẫn ra phố đi bộ.
Tôi dừng chân, thu vào tầm mắt toàn bộ quang cảnh. Làn gió nhẹ mang theo mùi muối biển và sách cũ. Những gã trai (mình trần) trượt ván phóng vèo vèo qua, người lái xe đạp, người trượt pa-tin dẫn chó đi dạo, những chiếc xe hàng rong xếp thành cả một hàng dài, bán nào sáo trúc, nào áo thun, nào áp phích mấy bộ phim kinh điển (cậu Hondo thích cái áp phích phim Scarface, nhưng lại chẳng muốn bỏ ra tới hai mươi đô cho nó). Một người tung hứng đội tóc giả bảy màu đứng mua vui cho khán giả, rồi một vũ công nhào lộn gần đó cũng đang cố gắng kiếm khách cho mình. Thêm vài bước nữa là một người bói bài tarot, tóc tết cả rừng bím nhỏ, ngồi gảy ghi-ta theo một giai điệu não nề.
Gã cất tiếng hát trầm trầm: “Ngày Sấm Truyền kề cận… Ôi, kề cận lắm rồi. Mau tìm bóng râm mà ẩn nấp, bởi ngày ấy đã cận kề…”
Tôi cố lảng mắt đi, bởi biết mình mà nhìn một cái thôi là sẽ bị gã chèo kéo rủ rê bói này bói nọ. Thôi cảm ơn!
Brooks bỗng vỗ trán một cái. “Ây… để quên cái ba lô trên xe rồi. Chờ chút nha.” Cô lấy chìa khóa của cậu Hondo rồi chạy vội đi.
Cậu Hondo liền tranh thủ quay lại trả giá mua tấm áp phích Scarface. Vậy là chỉ còn một mình tôi, chơ vơ đứng cách gã thầy bói tóc bím hát nhạc sầu chưa đầy một thước. Tự nhủ phải đứng yên đó rồi ra vẻ bận rộn, tôi bèn đút tay vào túi quần, ngửa đầu nhìn trời mà huýt sáo theo bài “Người tuyết băng giá” (tôi nghĩ đến Giáng Sinh vì có lẽ sẽ không bao giờ được hưởng Giáng Sinh nữa, được chưa?). Thế nhưng cái bài hát não nề kia dường như có cánh tay dài lôi kéo tôi. Chân vô thức bước, tôi dừng lại ngay trước tấm bảng phấn ghi: NĂM PHÚT NĂM ĐÔ.
Người thầy bói đeo một cặp kính râm gọng bạc. Thấy tôi dừng lại, gã nhoẻn miệng cười, khoe ra hai cây răng cửa vàng chóe. “Tương lai em nằm ngay trong túi tôi đây,” gã nói, giọng đặc sệt, lơ lớ khó nghe.
“Ừm… tốt thôi.” Tôi chẳng có tiền, mà nếu có thì cũng chẳng muốn nghe thêm mớ lời tiên tri dự báo tương lai ảm đạm.
Làn da màu đồng của gã ánh lên dưới nắng. “Em đang gặp nhiều rắc rối. Tôi biết em muốn đi đâu.”
Tôi dợm bỏ đi, gã liền nói, “Lời Sấm Truyền đang kề cận.”
Thế hở? Tôi thầm nghĩ. “Nó đã đến luôn rồi.”
Gã cười cái nữa, hạ cặp kính xuống để lộ đôi mắt đen. Lông mày gã như bị ai đốt trụi, chỉ để lại hai vết sẹo nhỏ. “Đó mới chỉ là khởi đầu thôi,” gã nói. “Lời Sấm Truyền Lửa. Nhưng lửa lại cháy lan. Lan đến khi thiêu rụi mọi thứ trên đường.”
Chỉ là trùng hợp thôi. Sao gã này lại biết được chứ?
Trống tùng tùng từ xa vọng đến. Sóng biển rì rào. Hay đó là tiếng axít sôi trong bao tử tôi vậy?
Brooks chạy tới đưa tôi cái ba lô rồi kéo tay tôi. “Cậu làm cái gì vậy?” Cô liếc mắt nhanh qua gã bói bài, “Đi thôi.”
Người đàn ông đeo kính lên lại, tiếp tục dạo đàn hát vang,"Trong chúng ta có kẻ lọc lừa, bão đang đến rồi đấy."
“Vụ gì đấy?” Brooks hỏi.
“Cậu hỏi gì cơ?”
Brooks đứng lại nhìn thẳng mặt tôi, tay siết chặt quai ba lô. Những đốm hổ phách trong mắt sáng ngời kể cả khi đứng trong bóng râm. Tôi xác định đây đích thực là mắt diều hâu, lòng bỗng dấy lên hy vọng rằng cô không bị mất đi khả năng biến hình vĩnh viễn. Cô nghiêng đầu nhìn tôi. “Tay đó nói gì với cậu vậy?”
“Hắn biết Lời Sấm Truyền Lửa đó Brooks! Sao có thể chứ?”
Brooks liền tái mặt. Cô mở miệng, nhưng chẳng phát ra tiếng nào.
Tôi ngoái đầu nhìn lại sau lưng. “Hắn nói một cơn bão đang đến! Hay là tớ cho hắn bói một quẻ xem tương lai thế…”
“KHÔNG ĐƯỢC!” Brooks quát. Rồi cô nắm hai vai tôi, buộc tôi nhìn thẳng vào mắt cô. “Cậu tự tạo ra tương lai cho mình, rõ chưa Zane? Tất cả những thứ khác? Chỉ làm cậu phân tâm thôi. Đi nhanh nào. Cậu phải tập trung vào đi.”
“Nhưng nhỡ hắn giúp được chúng ta thì sao?”
Cậu Hondo đuổi tới nơi, tay cầm một cuộn áp phích. “Hai đứa cãi cọ gì đấy?”
“Tụi cháu không có cãi,” tôi đanh hàm. “Có đấy,” Brooks bảo, tiếp tục bước đi.
Cậu Hondo nhìn tôi một cái kiểu rất-tiếc-nhưng-hai-đứa- bây-rõ-ràng-đang-cãi-nhau.
Thật kinh khủng khi nhìn thấy hay nghe thấy những thứ người khác không thể. Có lẽ nửa phần máu thần linh đã làm cháy hết dây thần kinh và giờ tôi chính thức là một thằng não tàn rồi. Hoặc có lẽ vừa rồi là một thứ ảnh thuật gì đó nữa để làm tôi rối trí. Hoặc tôi chỉ tưởng tượng ra gã. Ôi thần linh ơi, không chừng Thái Bình cũng chẳng có thật luôn…
Tôi vội nhét tay vào túi quần, nhẹ nhõm hẳn khi chạm trúng cây răng ngọc.
Vừa đi dọc phố, tôi vừa ngẫm nghĩ trong tất cả mọi thứ, sao cha lại cho mình một cây răng ngọc… Sao không phải là một thứ gì hữu ích như kiếm hay dao tẩm độc? Hờ, sao ông ta không trực tiếp giúp tôi đánh bại Ah-Puch luôn đi? Mẹ mà có được quyền năng như ông ta thì thể nào cũng dời non lấp bể để cứu tôi rồi.
Không biết mẹ có lo cho bọn tôi không? Hay là thử gọi cho bà… Không được. Mẹ sẽ phát hoảng lên rồi bắt bọn tôi về nhà ngay. Bỗng tôi nảy ra một ý cực hay. Lần tới gặp bà gà Cab trong mơ, tôi sẽ hỏi thăm tình hình của mẹ.
Cả ba tiếp tục đi ngang một mớ quầy hàng rong với nghệ sĩ đường phố. Cậu Hondo suýt thì lăn ra xỉu khi nhìn thấy Bãi Lực Sĩ: nguyên một khu tập luyện thể hình ngay giữa phố đi bộ, những người đàn ông vóc dáng lực lưỡng đứng nâng tạ ngay dưới nắng trưa. Cậu đứng lại trước cái hàng rào xanh lơ, cười toe toét như một đứa trẻ. “Tuyệt quá trời ơi!” Nhưng Brooks giục cả bọn đi nhanh, bảo là muốn giải quyết chuyện này mau chóng cho rồi.
Qua được nửa con phố, Brooks dẫn cậu cháu tôi vào một cửa hiệu treo bảng Jazz-E.
Bên trong là những hàng xe đạp đủ màu, lẫn vài chiếc xe trượt cùng ván trượt dài. Mấy chục tấm ván lướt sóng dựng dọc tường. Cái góc nhỏ cuối tiệm bày đầy những tấm bưu thiếp, vỏ sò, nữ trang rẻ tiền. Tường sơn màu hồng và vàng kim, không gian nức mùi kẹo bông gòn ngọt lịm.
“Tính thuê xe đạp à?” Cậu Hondo hỏi.
Brooks lắc đầu, bước tới chỗ người thu ngân ở cuối tiệm. Anh ta cúi gầm mặt đọc tạp chí, nhưng tôi vẫn nhìn ra được cái vóc dáng khổng lồ. Dù đang ngồi, cơ chiều cao kia ít nhất cũng phải hai mét tư. Anh ta đeo băng bịt mắt, một bên tai xỏ khuyên bạc, mặc áo ghi-lê ca-rô đính nút vàng. Nhìn tổng thể thì giống một tên cướp biển sành điệu kiêm đô vật nhà nghề hơn là người thu ngân.
“Một ngày đẹp trời để lấy máu,” Brooks nói.
“Máu cho các vị thần,” anh chàng khổng lồ không hề ngẩng lên.
“Máu cho các vị thần,” Brooks lặp lại.
Cuối cùng anh ta cũng nhìn lên. Nụ cười nở rộ trên gương mặt nhẵn nhụi. “Bé Diều!” Anh ta cất tiếng oang oang, vòng qua quầy nhấc bổng Brooks lên. “Còn tưởng không bao giờ gặp lại em nữa chứ.”
Đứng thẳng lên thế này nhìn anh ta còn kì dị hơn! Quần bò rách rưới, đôi dép xỏ ngón to cỡ thảm chùi chân. Chí ít thì anh ta cũng có mặc áo bên dưới cái ghi-lê.
“Chào anh Jazz,” Brooks nhoẻn miệng cười, thả lỏng trong vòng tay anh ta.
Hai má cô đỏ ửng khi được anh ta đặt xuống đất lại.
“Đừng có nói là em trở lại nha,” anh ta nhướn mày. “Anh không nhận được điện thoại của tay gác cổng. Sao em qua được hay thế?” Jazz nói. “Cái thằng đó làm ăn chểnh mảng quá.”
“Tay gác cổng?” Tôi hỏi.
Tới giờ Jazz mới nhìn sang tôi. Phải, anh chàng này cao to quá khổ, hai cánh tay có không ít hình xăm, nhưng trông vẫn vô cùng vui tính. Anh ta cứ cười suốt. Cho đến khi nhìn tới tôi. Nụ cười kia lập tức tan biến như sương. “Ai đây?” Anh ta hỏi.
“Em là Zane,” tôi trả lời, ráng làm giọng thản nhiên, còn tệ lắm thì cũng đừng có như gà mắc tóc. Nhưng biết làm sao được, cái gã này nhìn như có thể đạp bẹp tôi dưới chiếc dép khổng lồ kia bất cứ lúc nào ấy.
“Bạn em,” Brooks nói. “Còn đây là cậu Hondo. Cậu ấy là nhà vô địch đô vật,” cô bổ sung như thể cậu vừa mới giành cúp hôm qua.
Cậu Hondo bắt tay với anh chàng thu ngân, nhón chân lên để rướn thêm được vài phân. Rồi cậu trầm giọng nói, “Rất vui được gặp chú em.”
“Đây là Jazz, hậu duệ của các người khổng lồ Maya vĩ đại,” Brooks nói.
“Jazz-E,” anh chàng khổng lồ chỉnh lời. “Không, tôi không có lấy tên theo Jay-Z27 đâu. Ngược lại mới đúng. Nhưng cứ gọi tôi là Jazz. Chỉ cần đừng có nhầm với cái tên Sipakna là được,” anh ta nhấn giọng. “Một gã khổng lồ quỷ quyệt ngông cuồng, lây tiếng xấu cho cả họ khổng lồ luôn. Gia tộc bên tôi danh giá hơn nhiều.”
27. Một rapper, doanh nhân người Mỹ, là một trong những nhạc sĩ bán chạy nhất mọi thời đại.
Oa! Tôi đang đứng đối diện một người khổng lồ chánh hiệu kìa! Nhưng làm thế nào mà Brooks quen anh ta? Họ hàng xa? Bạn bè với gia đình?
Con mắt xám của Jazz nheo lại nhìn Brooks. “Amigos28 của Bé Diều cũng là…” Anh ta ngập ngừng vài giây rồi cười phá lên. “Ha! Giỡn thôi. Tôi làm gì có amigos.” Đoạn anh hỏi Brooks, “Em tới đây làm gì? Không phải để mua ván lướt sóng là chắc rồi đó.”
28. Những người bạn (tiếng Tây Ban Nha).
Brooks đảo mắt quanh cửa hàng. “Em cần… cần gặp chúng. Jordan và Bird.”
Ai cơ? Tôi không khỏi thắc mắc.
Jazz khoanh hai cánh tay to như đá tảng lại. “Sau cái chuyện chúng làm…?”
“Anh Jazz à…,” Brooks run giọng. “Bạn em… họ cần gặp cặp sinh đôi. Anh biết cách duy nhất để chúng chịu giúp…”
“Là trao đổi phép thuật hoặc chơi một ván.” Jazz u ám gật đầu như thể bọn tôi đang yêu cầu anh ta cung cấp dao găm để quyết đấu.
“Bọn này không có phép thuật gì để đổi cả, còn chơi là chơi cái gì cơ?” Tôi hỏi. Brooks có nói gì về vụ chơi bời này đâu. “Kiểu như cờ Tỷ Phú ấy à?” Tôi đoán. Hoặc xếp chữ. Gì chứ xếp chữ thì tôi là trùm. Hoặc anh ta muốn nói là chơi đấu trí. Dạ dày tôi bỗng dấy lên một dự cảm bất an. Cậu Hondo thì ngược lại, mặt mày hớn hở, gần như là nhỏ dãi trước ý tưởng được thi thố.
Jazz vừa xoa cằm vừa bước ra sau quầy lại, lầm bầm gì đó không rõ. Anh ta ấn vài nút để mở ngăn tủ đựng tiền, đoạn lấy ra hai viên đá đen to cỡ đồng xu. Chúng có hình tròn, phẳng dẹt, bóng loáng.
“Cái gì đấy?” Cậu Hondo hỏi, cầm một viên lên.
“Chìa khóa để gặp cặp sinh đôi,” Brooks nói.
“Hắc diệu thạch cổ,” Jazz tiếp lời. “Một loại đá thần.”
“Nhìn như thủy tinh núi lửa nhỉ?” Tôi lẩm bẩm, cầm viên còn lại lên. Tôi từng thấy một khối giống vậy trong bảo tàng, sau đó có lên ngọn Quái Thú tìm mấy lần nhưng chẳng thấy mảnh nào hết.
Jazz đóng tủ quầy lại, đưa mắt nhìn tôi. “Nhóc con này thông minh đấy. Em lượm được ở đâu vậy?”
Brooks trả lời, “Chuyện dài lắm.”
“Không liên quan gì tới…?”
Brooks trừng mắt một cái, làm Jazz nín bặt. Tôi bất giác tự hỏi cô sợ anh ta nói ra cái gì. Brooks xốc vai chỉnh lại ba lô. “Anh Jazz này…, quanh đây hổm rày có rắc rối gì không?”
Anh ta nghiêng người tới, nhướn mày hỏi, “Rắc rối kiểu gì?”
“Kiểu như… mấy con quỷ dễ sợ hay thần linh giận dữ này nọ,” tôi nói.
“Cái loại lái môtô ấy,” cậu Hondo bổ sung.
Tôi lẳng lặng quan sát Jazz. Ở anh ta có cái nét gì đó… cái cách cơ mặt co giật, con mắt láo liên, nhìn như anh ta không thoải mái với cơ thể mình vậy. Như thể đang đeo một cái mặt nạ.
“Chậc,” Jazz nói, “nếu em muốn hỏi cái tên Bị Thịt Âm Giới thì không. Chẳng thấy hắn đâu. Ngoài phố đồn là hắn đang tiến hành kế hoạch báo thù. Đủ loại giả thuyết hết: nào là liên minh với anh em hắn, nào là tìm lại đám chúa quỷ thuộc hạ, nào là tìm cách giải phóng tất cả kẻ thù của thần. Chẳng ai biết rõ. Nhưng tai mắt bọn anh rải khắp nơi. Phố đi bộ ngoài kia toàn người của bọn anh cả đấy: mấy người làm xiếc, vũ công nhào lộn…”
“Họ làm việc cho cậu sao?” Cậu Hondo hỏi.
“Tất cả người bán hàng rong ngoài kia đều làm việc cho cặp song sinh,” Jazz đáp.
“Nhưng mà…” cậu Hondo cất tiếng.
“Tôi biết,” Jazz nói. “Nhìn giống như người thường. Bọn này đâu thể treo biển thông báo ngay trước ngực đúng không?”
Vậy ra cái gã bói bài là người gác cổng. Thật không biết còn bao nhiêu người tôi từng gặp qua cũng thuộc cái cộng đồng Maya điên rồ này nữa.
“Không chỉ có khu phố đi bộ cần được bảo vệ đâu anh,” Brooks bảo Jazz.
Anh ta gật đầu. “Bọn anh cũng cắt cử người canh gác tại các thần đạo rồi.”
Tôi tính hỏi thần đạo là cái khỉ gì thì Brooks đã giải thích, “Những con đường phép thuật của thần linh.”
Cái từ này không có trong sách của tôi à.
“Bé Diều không cần lo đâu,” Jazz nói. “Bọn anh đã tăng cường phép thuật bảo vệ nơi này. Cặp sinh đôi thậm chí còn đóng cửa hang ổ, dời lên phố trên.”
“Dời là sao cơ?” Brooks hỏi. “Bọn chúng đã ở đây từ… đời nào rồi mà.”
“Đảm bảo an toàn thôi. Nhưng cái nhà mới của chúng ấy? Mèn ơi, đẹp dã man. Tầm nhìn…” Anh ta thở dài sườn sượt.
“Có xa không anh?” Tôi hỏi. Nhỡ đâu chúng dời tới tận Nebraska thì sao?
Nhưng Jazz không trả lời. Anh ta chỉ lắc lắc đầu, dộng nắm đấm vào lòng bàn tay. “Tin anh đi, một khi tóm được cái thằng não phẳng dám thả Ah-Puch ra, anh sẽ quẳng nó tới dải Ngân Hà luôn.”
Tim tôi hẫng mất một nhịp. “Vâng,” tôi lẩm bẩm, “não phẳng.” Hết ý! Vậy là không chỉ có thần linh muốn giết tôi vì là thần chủng, mà gần như tất cả mọi người đều muốn bêu đầu tôi vì tội não phẳng dám thả tự do cho Ah-Puch.
Cậu Hondo hắng giọng. “Có lẽ thằng não phẳng ấy có lí do chính đáng cũng nên.”
“Chẳng hạn như?” Mặt Jazz lạnh như đá.
“Như biết đâu đó là một tai nạn,” cậu Hondo nói. “Hoặc biết đâu con truy quỷ nào đó đã thả hắn ra.”
“Biết đâu hơi bị nhiều đấy… Mà anh nói tên anh là gì nhỉ? Hondo à?” Jazz đưa lon Red Bull lên nốc ừng ực. Cạn lon rồi, anh ta bóp dẹp nó trong tay. “Vấn đề duy nhất ở đây là các vị thần giam giữ hắn, nên chỉ có các vị thần mới thả hắn ra được. Mà chẳng có vị thần nào lại đi vi phạm lời Thánh Thệ, vậy nên nhất định phải có bí mật đen tối gì đó ở đây, mà ở đâu có bí mật thì ở đó khắc có người bật mí. Cứ chờ đi. Không sớm thì muộn sẽ có kẻ phun ra thôi.”
Hai gối mềm nhũn, lần đầu tiên tôi lạnh người nhận ra mình hình như đang đẩy cậu Hondo và Brooks tới bờ vực thẳm mất rồi.
“Vậy là các thần đều biết hết rồi?” Brooks mím môi hỏi.
Tôi thầm nghĩ.
“Phải,” Jazz nói. “Nhưng hiện tại họ đang chỉ tay buộc tội lẫn nhau.” Anh ta ném cái lon bẹp dí vào thùng rác. “Còn tất cả các nhà tiên tri thì mất tăm mất tích.” Anh ta nói với Brooks như thể cậu cháu tôi chẳng có đứng ngay đây. “Tình hình nghiêm trọng lắm rồi Bé Diều. Nghiêm trọng lắm rồi.”
Tôi nhét tay vào túi quần, siết chặt cây răng ngọc. “Vậy thì… tại sao các thần không tìm cách bắt Ah-Puch lại đi?”
“Không tìm được hắn. Vả lại có tìm được thì một cuộc đại chiến cũng sẽ nổ ra. Các mối liên minh rạn nứt, những lời giao ước bị phá vỡ, rồi chúng ta cuối cùng cũng sẽ chết hết.” Anh ta so vai, tiếp, “Có lẽ chúng ta đã sống trong hòa bình quá lâu rồi.”
Brooks quay sang cậu cháu tôi. “Lời Thánh Thệ đặt ra là để gìn giữ hòa bình.”
“Như một hiệp ước ấy à?” Tôi hỏi. “Họ có kí tên vào không?”
“Máu đậm hơn mực nhiều,” Jazz nói.
Brooks bồn chồn đổi chân, cuối cùng nói, “Bọn em cần một thứ nữa…”
Jazz vuốt lại cái băng bịt mắt. “Gì thế?”
“Encantado.”
Mị thuật là cái gì cơ?
Jazz gật đầu. “Thời buổi này hơi bị khó kiếm. Nhưng vì em? Làm gì cũng được.” Đoạn anh ta ngâm nga cái bài hát gã bói bài rêu rao hồi nãy.
“Bài hát đó…”
Jazz gác hai cánh tay săn chắc lên quầy, trừng mắt với tôi. “Nó làm sao?”
“Nó giống với…”
“Nhóc à, em chưa từng nghe bài này trước đây đâu.”
Tôi chẳng biết tại sao mình lại không bỏ qua, hay im lặng đồng tình với cái anh chàng khổng lồ đang nuôi ý định ném mình tới dải Ngân Hà này. Từng lời cứ thế phun ra khỏi miệng tôi không kiểm soát. “Cái gã bói bài tarot. Gã hát bài này. Ngày ấy đã cận kề.”
Trán anh chàng khổng lồ bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Anh ta đưa tay quệt rồi từ từ đứng lên, cả người lắc lư.
“Anh Jazz?” Brooks kêu lên. “Zane! Cậu Hondo! Mau tìm chút đường đi.”
Jazz tiếp tục đứng thẳng lên, còn không là chân anh ta đang mọc dài ra. Thoáng một cái đầu anh ta đã chạm tới cái trần cao gần bốn mét rưỡi. Một cái cúc áo bung ra, chiếc quần rách toạc theo đường chỉ. Này cứ như nhìn Người Khổng Lồ Xanh biến hình ngay trước mắt vậy. Tạ trời đất là Jazz không có đổi màu xanh lá.
“Bệnh tiểu đường tái phát đó,” Brooks gắt. Cô bước ra giữa tôi với anh chàng khổng lồ, giơ tay ra trước. “Anh Jazz, được rồi mà. Để em kiếm Red Bull cho anh. Hoặc sôcôla gì đó.” Cô dáo dác nhìn quanh. “Quanh đây có bánh kẹo gì không?”
Cậu Hondo chạy một vòng quanh cửa hiệu, nhưng đành về tay không.
“Vậy là chú em đã gặp Santiago,” Jazz chậm rãi nói, nhưng âm lượng đã tăng thêm mấy bậc, rung chuyển cả vách tường, làm màng nhĩ tôi ong ong cả lên. “Thú vị thật.”
Brooks tìm được một thanh sôcôla, vội bóc vỏ rồi đưa cho anh bạn khổng lồ. “Đây này. Anh biết chuyện gì xảy ra khi anh bị hạ đường huyết mà. Ăn đi.”
Con mắt độc nhất của Jazz hằn tơ máu, mặt xám ngoét đi. Anh ta miễn cưỡng cầm lấy thanh sôcôla, chẳng buồn lột hết vỏ mà cho ngay vào miệng. Tôi nhanh chân lẻn ra sau quầy, tránh bị giẫm bẹp như gián. Ở đó tôi tìm thấy một lốc lon Red Bull. Nhìn gần thế này, có thể thấy được mấy ngón chân to tướng của anh ta bám đầy bùn đất, mọc lông tua tủa. Anh chàng này cần phải làm móng gấp thôi.
Tôi ném một lốc sáu lon bò húc cho Brooks. Cô khui lia lịa, nhét vào tay anh chàng khổng lồ trước khi đầu anh ta đục thủng luôn trần nhà.
Jazz nốc cạn hai lon, cả người lảo đảo. Con mắt độc nhất trợn to, anh ta nấc cụt một cái rồi ợ lên, tống ra luồng khí mạnh như gió Bắc cực, có điều luồng hơi này rất ấm và ẩm và làm lông tóc tôi dựng đứng. Còn cái mùi? Cứ tưởng tượng mùi nước ngọt trộn đậu xanh trộn bắp cải thiu đi nhé.
Cậu Hondo choáng váng lùi lại, đưa tay che miệng. “Êu, kinh quá đi!”
Jazz chầm chậm thu lại kích cỡ hai mét tư bình thường. “Àaaa…” Anh ta lấy khăn lau trán. “Nhẹ cả người.”
Brooks bực bội giậm chân. “Anh phải giữ lượng đường trong máu ở mức ổn định chứ. Bệnh tiểu đường của anh không có nhẹ đâu. Em bảo anh bao nhiêu lần rồi hả?”
Jazz vung tay lên trời. “Anh có cố mà, được chưa?” Con mắt xám nhìn sang tôi, chằm chằm như thế suốt ba giây dài. “Chú em có chắc là đã gặp Santiago không?”
“Ừm…” Này là hỏi mẹo à?
“Em không thể thấy gã được,” anh ta tự hỏi tự trả lời. “Sao lại không?” Tôi không khỏi tự ái. Tôi biết mình nhìn thấy gì mà.
“Gã vô hình.”
“Ồ,” tôi làm giọng mỉa mai. “Nếu anh muốn nói thế.” Tôi ngập ngừng rồi nói toạc ra. “Em vẫn thấy được gã đấy!”
Jazz nheo mắt. “Chỉ có ai mang dòng máu siêu nhiên mới nhìn thấy gã… Nói tôi nghe xem nào Zane,” anh ta kéo dài tên tôi, “chú em thật ra là ai thế?”
Tôi không có dại mà thừa nhận mình là cái thằng não phẳng anh ta muốn bóp vụn, hay là một thần chủng đâu. Thật là, tên tôi rốt cuộc có trong bao nhiêu danh sách truy nã vậy? Tôi kéo tay áo xuống, che đi cái dấu ấn ngu ngốc của lão thần chết, đoạn nhét tay vào túi quần.
Brooks nhảy vào. “Cậu ta là bán ảo sư.”
“Em đang đi tìm cha,” tôi bổ sung.
Jazz hừ một tiếng như biết chỉ có một nửa trong đó là sự thật. Tôi không thích cái cách anh ta nhìn chằm chằm mình tí nào. Cứ như anh ta đang nghĩ nói dối, nói dối, nói dối vậy. Mà anh ta càng nghĩ thế thì người tôi càng nóng lên. Cây răng ngọc trong tay bỗng rung động.
Ai đó vừa bật máy sưởi lên à? Căn phòng bỗng chốc chao đảo. Lúc đầu chậm, rồi càng lúc càng nhanh tới mức tôi thấy mình như bị giằng khỏi cơ thể, từng sợi dây níu giữ thi nhau đứt phựt.
Chân tôi dấy lên một cơn đau vỡ óc, đau như cả triệu con dấu sắt nung đóng vào từng sợi thần kinh. Tôi muốn thét lên, nhưng chẳng phát được tiếng nào hết.
Thanh âm cuối cùng tôi nghe thấy là tiếng quát của cậu Hondo.
Cầm máu lại mau!