H
urakan nói đúng. Chuyến đi về Bãi biển Venice trái ngược hoàn toàn với chuyến đi tới cõi Hư Không. Xung quanh chỉ có bóng tối, lạnh lẽo và những tiếng thì thầm vô hình sắc nhọn:
Yếu ớt
Thảm hại.
Tôi rơi qua một bầu trời đỏ rực.
Đáng chết.
Ngu si.
Lẫn giữa những tiếng thì thầm ấy, tôi nghe thấy tiếng rên khe khẽ của Rosie, tim bất giác vỡ thành hai mảnh. Thế rồi tiếng bà Cab truyền đến: “Cháu đang phí phạm thời gian đó.”
Không có cái lưới nào đón đỡ. Tôi đâm sầm xuống cơ thể mình. Này cứ như đập thẳng bụng xuống bể bơi vậy. Tôi không thể mở mắt. Không thể cử động hay nói hay làm bất cứ thứ gì ngoại trừ nghe và cố hít đầy không khí cho buồng phổi.
“Cậu ta ngừng chảy máu chưa?” Là giọng Brooks.
“Nhét thêm khăn giấy vào mũi nó đi,” cậu Hondo nói. “Đừng có dây máu lên gối à,” Jazz nói. “Hàng mua tận Marrakesh đó!”
Tạ trời đất, cơ thể tôi đang được đặt trên một cái gì đó êm ái, hoặc giường hoặc ghế nệm. Nằm yên đó, tôi gần như cảm nhận được dòng máu luân chuyển trở lại trong người, dồn dập chảy suốt toàn thân như thể bây giờ nó mới nhớ ra cách hoạt động. Tôi níu giữ lấy hình ảnh Hurakan cùng những lời đã đóng sâu vào óc như dấu sắt nung: dòng máu của đấng sáng tạo. Tôi biết các vị thần sáng tạo, những vị thần cùng nhau tạo ra thế giới… không chỉ một lần. Nhưng nếu tôi nhớ không nhầm thì họ cũng là những kẻ đã hủy diệt thế giới. Mà nếu đúng là vậy thì có nghĩa…
Tôi cũng mang dòng máu của kẻ hủy diệt.
Một giây sau, tôi mở choàng mắt. Phía trên kia là một cái trần nhà sơn màu xanh lơ, viền vàng lấp lánh.
“Cái thằng nhóc này!” Cậu Hondo nói. “Tưởng mày không tỉnh nữa luôn rồi chứ.”
Tôi ngồi dậy giữa ổ gối. Rút hai cái khăn giấy nhét mũi ra, tôi vo chúng lại trong tay. Cái áo thun xám trên người dính đầy máu. Ghi chú: Đường tới cõi Hư Không rất lạnh và bẩn.
“Cháu đang ở đâu đây?” Tôi nhìn quanh.
Jazz mỉm cười. “Nhà anh. Anh sống trên cửa hàng. Thích không? Đừng có để mớ khăn giấy bẩn đó dính vào đâu đấy.”
Căn phòng có màu xanh lam và xanh lục, cho ta cảm giác như được biển cả bao bọc xung quanh. Bộ bàn ghế khổng lồ đẽo bằng tay, bức tường đá đầy những vết nứt nẻ như bị ai giận dữ cầm rìu chém cho mấy nhát.
Nhìn đâu cũng thấy những món đồ lấp lánh: cốc, chén, gương. Sàn nhà đá hoa cương thô ráp trải thảm xanh lơ, làm tôi nhớ đến mấy tấm thảm của người Navajo từng thấy ở nhà.
“Đẹp lắm,” tôi xoa xoa đầu. “Có chuyện gì vậy?”
“Cậu ngất xỉu, chảy máu mũi tùm lum,” Brooks tỉnh bơ đáp. “Giống như mấy lần trước ấy mà Zane. Tớ bảo anh Jazz là không có gì phải lo.”
Mấy lần trước?
Cậu Hondo hừ một tiếng, bắn cho tôi ánh mắt cứ-diễn- theo-đi. “Hễ nó căng thẳng là bị vậy à,” cậu nói với Jazz. “Chảy máu mũi, xỉu cái đùng.”
Jazz trao cho tôi cái cau mày lo lắng. Tôi ghét lắm vẻ thương hại trong mắt anh ta. Nó làm tôi muốn nói toạc ra rằng hai người kia dựng chuyện đó. Tôi không có mắc chứng chảy máu mũi mất kiểm soát đâu. Tôi có một nửa là thần đó!
Brooks nhảy lên mép giường cách mặt đất gần cả mét. Đoạn nắm lấy tay tôi.
Cậu mới xuất hồn đúng không?
Sao cậu biết?
Đừng nói ra cậu đã đi đâu hay gặp ai. Không an toàn đâu.
Nhưng… tớ tưởng Jazz là bạn cậu.
Vậy nên mình càng không muốn anh ấy biết bất cứ thứ gì. Nếu có ai tìm đến, anh ấy có thể bị liên lụy. Không biết gì là tốt nhất. Không thể làm một người đổ máu khi họ chẳng có gì để khai.
Đổ máu?
Jazz lắc đầu. “Xin lỗi đã làm em căng thẳng nhé nhóc. Người khổng lồ bọn anh có sức tác động vậy đấy.” Tôi biết anh ta đang áy náy. Mặc dù lòng tự tôn muốn lên tiếng biện minh, nhưng Brooks nói đúng. Tôi không muốn Jazz gặp rắc rối chỉ vì tôi.
Cậu Hondo đi qua đi lại cuối giường. “Máu mũi mày đúng là phun như suối luôn đó nhóc.”
“Vâng,” tôi quệt tay qua cái lỗ mũi đã khô máu. “Xin lỗi nhé.”
Jazz mỉm cười, vừa dọn mớ gối quý giá ra khỏi giường vừa huyên thuyên một tràng nào là Marrakesh nằm ở phương Đông, nào là phương Đông may mắn thế nào, rồi Bacab chống trời ở đó là bạn của anh ta…
“Anh mới nói Bacab à?” Tôi hỏi.
“Ừ,” Jazz đáp. “Em quen họ sao?”
“Ờ… ừm, không. Em chỉ đọc thấy trong truyện thôi,” tôi so vai nói.
Jazz nghe thế thì hài lòng, vì ngực anh ta căng phồng cả lên. Rồi anh ta nói, “Anh có thứ này cho em đây,” sau đó sải bước ra khỏi phòng.
Brooks vẫn nắm tay tôi. Chảy máu là tác dụng phụ khi xuất hồn, nhất là với những ai mới làm lần đầu.
Lần đầu? Tôi không chắc chuyến hành trình đó có đáng công không, cũng không chắc có muốn làm lại lần hai không nữa. Tôi đưa tay tìm chiếc răng ngọc, tự nhủ từ giờ phải cẩn thận với lời nói hơn. Không được vô tư buông ra tiếng cha nữa.
Nghe như cậu đã từng xuất hồn rồi ấy, tôi nói.
Chưa. Có từng thấy, nhưng biến thành diều hâu là đủ phép cho… hiện tại rồi.
Nhắc tới phép rồi máu bỗng khiến tôi nhớ lại cái hạn chót của cả bọn. “Mấy giờ rồi?” Trong này không có cửa sổ, không thấy được ngoài kia sáng tối thế nào.
“Cậu bất tỉnh tới mấy tiếng,” Brooks khẩn trương nói. “Gần tám giờ tối rồi.”
Đêm trăng thứ hai! Tôi quýnh quáng leo xuống giường, liền ngã rầm xuống sàn đá. Bên chân tật đau nhói lên. “Sao lại…? Tớ chỉ… tớ chỉ thấy như mấy phút thôi mà.”
“Thời gian ở vùng không gian giáp ranh không giống bên ngoài đâu,” Brooks nói.
“Tới rồi đây.” Jazz trở lại, cầm theo một cái cốc to tới nỗi tôi phải đỡ bằng hai tay. “Uống đi.”
Tôi nhìn vào trong cốc. Thứ chất lỏng sậm màu đặc sệt xoay tít như lốc xoáy. “Sao nó lại xoay như thế?” Tôi sợ rằng trong cốc có thứ gì mới khiến nước xoáy như thế, mà tôi thì không muốn cái thứ đó vào bụng mình đâu.
Jazz hít hít mấy cái. “Là sôcôla…” Nhưng anh ta phát âm kiểu Tây Ban Nha: chô-cô-la-tê. “Thức uống của thần đấy. Đã từng nghe tới Ixkakaw chưa?”
“Nữ thần sôcôla,” tôi đáp.
“Tất cả các thần đều ghiền món này,” Jazz nói. “Hơn nữa nó có tác dụng hồi sức thần kì. Này, coi chừng.” Anh ta chìa bàn tay to tướng ra đỡ cái cốc. “Đừng làm đổ ra thảm chứ.”
“Có cả nữ thần sôcôla sao?” Cậu Hondo cười hỏi. “Tôi nhất định phải gặp bà ta mới được!”
“Chỗ sôcôla này thu từ một mùa rất tốt đấy.” Jazz cười rạng rỡ. “Có chút hương vani, dâu, rồi một tí vị caramen cháy nữa. Uống thử đi.”
Brooks gật đầu, ý nói cứ uống đi không sao đâu. Tôi chậm rãi nhấp một ngụm. Vị sôcôla đậm đà ấm áp. Ngon quá đi chứ, trôi xuống cổ họng như bánh pudding mịn vậy. Thảo nào thần linh lại mê món này. Đây hẳn là thứ thức uống ngon nhất tôi từng nếm qua.
Jazz cười phá lên, vỗ bộp lưng tôi. Suýt nữa là tôi văng qua bên kia phòng. “Thấy thế nào rồi?”
Tôi thầm kiểm tra lại. Lạ thật, mấy chỗ đau nhức ê ẩm, thậm chí cả cái lạnh… tất cả biến mất hết rồi. Tôi thấy khỏe khoắn hẳn ra. Đầu óc tỉnh táo hẳn. “Rất tốt,” tôi nói, ước gì có thêm thứ thức uống thần linh này bởi cái cốc đã cạn rồi.
“Biết ngay mà!” Anh chàng khổng lồ oang oang nói. “Chú em đúng là sinh vật sobrenatural29. Đừng có chối. Chú em mà là người thường thì đã gặp chuyện lớn khi uống cốc sôcôla đó rồi.”
29. Siêu nhiên (tiếng Tây Ban Nha).
“Hả?!”
“Cậu có thể giết nó đó!” Cậu Hondo la lên.
“Không đâu,” Jazz nói. “Người khổng lồ bọn tôi nhạy lắm. Thằng nhóc vừa đặt chân vào tiệm là tôi biết nó mang dòng máu phép thuật rồi.” Anh ta dời mắt sang Brooks.
“Anh Jazz,” Brooks cất tiếng, “em… em muốn cho anh biết chứ, nhưng… nhưng mà…” Cô lắp bắp. “Em chỉ không muốn anh gặp nguy hiểm thôi.”
“Người khổng lồ chuyên trị nguy hiểm đó Bé Diều à,” anh ta nói. “Giờ thì thú thật hết đi.”
Tôi hết nhìn Jazz rồi tới Brooks, biết rằng không đời nào có thể tiết lộ chuyện mình là thần chủng cho anh ta.
Hất cằm, Brooks hết sức tự tin nói, “Cậu ta là ảo sư.”
Jazz nheo mắt, cởi nút áo khoác ra. “Vậy thì trổ chút phép cho anh xem đi,” anh ta nói với tôi.
“Phép? Ưm… em vẫn còn rất mệt và…”
“Nó vẫn còn đang học cách sử dụng năng lực,” cậu Hondo xen vào.
Brooks leo lên giường, áp hai tay lên má Jazz. “Anh biết là em không bao giờ nói dối anh mà. Còn bây giờ bọn em phải đi trước khi quá trễ.”
Trời, cô nàng này biết cách thuyết phục thật. Bất giác tôi tự hỏi cô đã thuyết phục được tôi bằng bao nhiêu lời nói dối rồi. Bụng dạ bỗng nhộn nhạo hết lên.
Jazz xụ vai. “Anh tin em.”
Brooks hôn má anh ta một cái, đoạn nhảy xuống đất, lẳng ba lô lên vai. “Cảm ơn anh… vì tất cả.”
“Chờ đã,” Jazz nói. “Còn một món này nữa cho các người đây.” Anh ta rời đi, sau đó quay lại cùng ba cái túi treo quần áo. “Trong lúc Zane bất tỉnh, anh đã tranh thủ thực hiện cái việc Bé Diều nhờ. Các người không thể tới dự cái buổi tiệc sinh nhật hoành tráng kia trong…” anh ta đưa mắt đánh giá ba người bọn tôi “… trang phục thế này đâu.”
Tôi nhìn xuống cái áo thun dính máu. Trừ đi vết bẩn thì cái áo này cũng ngầu mà!
Cậu Hondo cầm lấy một cái túi, kéo dây kéo xuống. Cậu ấy nhìn vào bộ đồ, rồi nhìn sang Jazz, rồi nhìn bộ đồ lần nữa. “Này, tôi không có đi dự đám tang à.”
Jazz cười phá lên. “Ai biết được.”
Ờ, nghe mà nhẹ cả người luôn ấy.
Brooks nhận lấy cái túi của mình, nhìn vào trong rồi trợn mắt. “Váy sao anh Jazz? Thật hả? Anh biết là em ghét mặc váy mà!” Tôi không thể nào hình dung Brooks mặc váy được. Nói cho đúng thì tôi còn không thể hình dung cô ấy trong một buổi tiệc. Cô nàng có giống kiểu con gái dễ dàng hòa nhập đâu chứ.
Jazz khoanh tay nói, “Chỉ những sinh vật xinh đẹp mới thu hút được cặp sinh đôi thôi.”
Cậu Hondo cười vang. “Quần áo kiểu gì cũng không thể làm tôi… ơ… chẳng phải xinh đẹp là từ dành cho con gái à?”
“Chỗ trang phục này được yểm mị thuật đó cậu,” Brooks nói.
“Mị thuật?” Tôi lặp lại, kiểm tra chiếc áo sơ mi trắng phau cùng áo vét đen trong túi. Có cả cà vạt nữa? Anh ta giỡn à?
Brooks giật lấy cái túi trên tay tôi, ném lên giường, thở dài nói, “Có nghĩa nhìn cậu sẽ vô cùng hoàn hảo, bất kể ngoại hình thật của cậu có như thế nào. Tất cả những khuyết điểm đều biến mất. Mọi người sẽ thấy ta thật…” cô ngập ngừng, đoạn đảo mắt đi. “Xinh đẹp.”
Jazz xoa cằm. “Kiểu như cô bé Lọ Lem ấy. Tiện thể, cái câu chuyện đó là một sự ăn theo trắng trợn từ chuyện gia tộc anh đấy. Nhưng thôi, khi khác hẵng kể. Mị thuật này có vài luật đi kèm. Thứ nhất, trong các người có ai mặc trang phục yểm phép trong vòng một năm qua không?”
Cậu cháu tôi bối rối nhìn nhau rồi cùng lắc đầu.
“Em cũng không,” Brooks nói.
“Tốt,” Jazz bảo. “Giờ thì nhớ này, phép thuật chỉ có tác dụng trong hai tiếng. Vậy nên mọi người phải nhanh chóng gây chú ý với anh em nhà kia đi đó.”
“Bọn này nhìn sẽ vô cùng hoàn hảo à? Không chút khuyết điểm nào luôn?” Cậu Hondo cười toét tận mang tai. “Tôi chịu vụ này rồi nha!”
Brooks nhìn trời. “Ờ!”
“Khoan đã,” tôi nói. “Vậy có nghĩa chỉ cần ta mặc thứ này trước mặt cặp sinh đôi thì sẽ muốn gì được nấy?”
“Không hẳn,” Brooks nói. “Chẳng qua bọn chúng sẽ chịu tiếp chuyện cậu thôi. Anh em chúng bài xích những người không đẹp kinh lắm luôn. Bảo rồi mà, một lũ khốn.”
Nụ cười toe toét của cậu Hondo héo dần. “Nghe như cái lũ này cần được tẩn một trận ra trò.”
Brooks và cậu Hondo sang phòng khác thay đồ, để lại tôi một mình giữa căn phòng xanh biển, nhìn chằm chằm vào bộ trang phục mà nghĩ, Nó có giấu được cái chân tật không? Tôi có nông cạn không khi ước ao điều đó? Khi mong muốn được chú ý vì điều gì đó khác chứ không phải cái khuyết tật của mình?
Tôi mặc quần áo vào, lòng không khỏi thán phục Jazz. Anh ta chọn cỡ chính xác cực kì. Thậm chí cả đôi giày cũng vừa như in. Cái anh chàng này đúng là có tài mà! Cơ mà cũng lạ, xét tới phong cách thời trang của Jazz. Giờ thì tới cái cà vạt… Làm thế quái nào để thắt nó đây?
Tôi bước tới chiếc gương đứng viền khung vàng đặt trong góc. Vừa tới nơi, tim tôi liền ngừng đập. Không phải vì cái tôi thấy, mà vì nhận ra mình vừa bước đi cả quãng một cách trơn tru. Tôi quay lại, đi tới đi lui vài vòng. Bên chân tật phối hợp hoàn hảo với bên chân lành.
“Ôi mẹ ơi!” Tôi lẩm bẩm, chạy ù tới bên giường, nhảy phóc lên rồi nhún lên nhún xuống. Quá đã! Tôi lao ngược lại chỗ tấm gương. Có lẽ là do cái phép, nhưng bộ trang phục này quả thật bảnh tỏn đến không lời. Lớp ngụy trang tuyệt nhất trần đời.
Ngụy trang… Một ý tưởng điên rồ chợt ập tới. Tôi nhìn ra cái cốc sôcôla còn đầy đặt trên tủ đầu giường. Thức uống của thần linh… Jazz nói thần linh không thể cưỡng lại món này. Tôi có thể bỏ hạt ớt siêu cay của ông O vào đó rồi dụ Ah-Puch uống. Một khi La Muerte phát huy tác dụng, tôi sẽ một đường tống tiễn lão xuống Xib’alb’a. Thiên tài!
Tôi vội chạy vào phòng tắm, tìm xem có thứ gì đựng sôcôla được. Nhưng chỉ thấy mấy ống kem đánh răng to đùng và bánh xà phòng hình vỏ sò. Mò mẫm một hồi, tôi khám phá ra một cái tủ nhỏ gần bộ sô pha, bên trong chứa mấy chục chai rượu các loại. Mấy chai nhỏ đặt sau mấy chai lớn. Tôi cầm lên một chai dán nhãn JACK DANIEL’S ALUX BLEND, đổ hết số rượu vào bồn rửa mặt. Sau đó tôi lấy trái ớt La Muerte trong ba lô ra. Cẩn thận xẻ quả ớt ra, tôi thả mớ hạt vào trong chai, đoạn đổ sôcôla vào.
“Cha cha!” Cậu Hondo cất tiếng. “Cái thằng này, nhìn mày… bảnh thật đó!”
Cậu ấy làm tôi giật mình tới suýt đánh rơi cái chai. Cất chai sôcôla vào túi áo vét, tôi quay lại nhìn cậu. Trước giờ tôi vốn không để ý cậu Hondo nhà mình có đẹp trai hay không. Ừ thì cậu có, hoặc tự nhận là có rất nhiều bạn gái (chưa từng dắt cô nào về nhà). Nhưng giờ thì nhìn cậu ấy y như mấy gã người mẫu phong trần lãng tử trong quảng cáo siêu xe luôn vậy. Giống như tôi, cậu ấy cũng mặc một bộ âu phục đen với sơmi trắng và cà vạt đen mảnh.
Tôi chớp mắt. “Cậu cao lên kìa!”
“Biết chứ! Jazz nói đây cũng là do mị thuật, cái điều ta ghét nhất ở bản thân bị giấu đi triệt để.” Cậu cười rạng rỡ. “Còn chú mày? Trời, ai biết mày lại guapo30 thế chứ? Nhất định là di truyền từ bên nhà ngoại rồi, nhưng vẫn sốc đấy.”
30. Đẹp trai (tiếng Tây Ban Nha).
Hít sâu một hơi, tôi bước về phía cậu. Mắt ông cậu tôi lập tức tròn xoe. “Cái chân tật…” Cậu lạc giọng.
“Không còn nữa.”
Nhưng tôi biết việc này sẽ không kéo dài mãi mãi. “Tụi mình cứ như mấy gã trong Men in Black ấy ha.”
Cậu Hondo bước tới trước gương, chỉnh lại cái cà vạt. “Ừ, mấy gã ấy xử được mấy con quái ngoài hành tinh lợi hại lắm!”
Cửa phòng mở ra, Jazz bước vào, cười toét tận mang tai. Brooks đi ngay phía sau.
Để tôi bảo các vị này, tôi đã xem nhiều phim, cũng như xem nhiều tạp chí. Nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ trong đời tôi thấy ai giống như cô ấy. Không cần biết Jazz nói gì, đây không phải do mị thuật, hay do bộ váy trắng hở một bên vai như nữ thần La Mã, hay do mái tóc nâu dài ôm lấy gương mặt được tết thành hai bím nhỏ phía sau cô. Đây là do cái nét sáng ngời vượt cả những điều trên. Là cái cô Brooks đã xuất hiện ngoài văn phòng Cha Baumgarten ngày hôm ấy, chân đi đôi ủng chiến cũ mòn, miệng nở nụ cười sáng ngời cả triệu watt. Cái cô gái sẵn sàng bất chấp tính mạng để cứu ta.
Tôi nghẹn thở.
Cậu Hondo bước tới trước cô. “Diện lên nhìn khá đấy, Capitán.”
Tôi cứ ngỡ Brooks sẽ đỏ mặt hay ngượng ngùng, nhưng không, cô thoải mái đón nhận lời khen. Cô phô hết sắc đẹp ra như thể đã… quen với việc đó. Đôi mắt diều hâu bắt được ánh mắt tôi, và tôi mới là người phải đỏ mặt. Tôi là người phải nhìn xuống vì… nghiêm túc đó, nhìn vào cô ấy cứ như nhìn thẳng vào mặt trời vậy.
May thay cậu Hondo đã tiếp lời, “Cái fiesta31 này có gì để ăn không?” Cậu vỗ vỗ bụng. “Đói meo rồi đây!”
31. Buổi tiệc (tiếng Tây Ban Nha).
“Có đầy,” Jazz đáp, nhìn xuống cái đồng hồ đeo tay bằng vàng to bản. “Nhưng Người đẹp ngủ trong rừng đây làm ba người trễ giờ lắm luôn rồi. Ba mươi phút nữa là cửa đóng. Mà tình hình xe cộ ngoài kia thì các người không đời nào tới kịp đâu.”
“Bọn em đi bộ được không?” Tôi hỏi, vì với cái chân mới này tôi chạy marathon còn được.
Jazz trầm ngâm xoa cằm. “Anh có ý này hay hơn. Lại đây. Để anh cho mọi người xem.”
Bọn tôi nhanh chóng xuống lại cửa tiệm bán đồ lướt sóng. Anh ta len lỏi qua mấy hàng xe đạp, bước tới một cái tủ rồi đẩy từ trong ra một chiếc xe trượt chạy điện, có điều chiếc này làm cho người có kích cỡ của Jazz. Tức là chỗ đặt chân khổng lồ và hai bánh xe trước cỡ đại ấy.
“Anh muốn bọn em lái xe trượt tới bữa tiệc sao?” Brooks hỏi.
Jazz hít mạnh một hơi như bị xúc phạm. “Này không phải là xe trượt nhé!” Anh ta lắc đầu, “Anh gọi nó là chiếc Jazz Siêu Tốc. Bé cưng này có công suất và tải trọng hơi bị lớn đấy. Kết hợp cả thắng đĩa và giảm xóc nữa.”
Cậu Hondo vừa gật gù vừa cười cười, tay ve vuốt chiếc xe như thể nó là điều gì màu nhiệm lắm. Hẳn là cậu ấy muốn cho nó xuống đường lắm luôn rồi. “Mèn ơi, mấy cái bánh này leo núi còn được ấy. Nhìn mấy cái rãnh kìa.”
“Tôi cũng đã chỉnh sửa lại hệ thống định vị,” Jazz khoe. “Cơ bản là nó tự lái. Nhưng bất kể có làm gì thì cũng đừng nhấn nút Siêu Tốc nha.”
“Sao thế?” Tôi hỏi.
“Lần cuối thử nghiệm cả chiếc xe bốc cháy luôn.” Anh ta xoa cằm đăm chiêu. “Khá chắc là anh sửa mấy mối nối rồi, nhưng chưa kiểm tra lại.”
“Đã rõ,” Brooks nói. “Không động vào nút Siêu Tốc. Lái nó thì mất bao lâu để tới nơi?”
Jazz bấm bấm bảng điều khiển rồi nói, “Đã lập trình tới tận Beverly Hills. Mất khoảng năm phút là nhiều nhất.”
Brooks chớp chớp mắt, há hốc mồm. “Anh nghĩ tụi em đi hai mươi bốn cây số trong vòng năm phút bằng thứ… thứ này được sao?”
“Nói rồi đó,” Jazz cười toe toét, “nó nhanh lắm. Các người có thể lách qua dòng xe. Thậm chí có thể leo lề. Cơ đừng tông chết người đi bộ nào à. Tôi không muốn nhận thêm vé phạt đâu. À, nói mới nhớ, đây thuộc loại phương tiện bị cấm lưu thông, vậy nên đừng để mấy tay cớm trông thấy nhé.”
“Coi bộ phải phát nổ rồi,” cậu Hondo nói, có phần hào hứng thái quá.
Một giây sau cả nhóm đã dắt chiếc Jazz Siêu Tốc ra phố đi bộ. Màn sương mờ cuộn lên. Dòng người bắt đầu thưa thớt, hàng quán thu dọn, tiếng nhạc lắng dần. Thậm chí mấy bức tranh tường cũng cơ hồ tan biến theo tia nắng cuối ngày.
“Ai cầm lái nào?” Jazz hỏi.
“Tôi,” cậu Hondo đáp.
Tôi và Brooks không có gì để phản đối.
“Ai vững chân nhất đứng cuối,” Jazz nói. “Người đó làm trụ. Không ai muốn bị rớt mất dọc đường đâu ha?”
“Đi đi.” Brooks huých tôi. “Cậu đứng cuối.”
Các vị nghe chưa? Tôi làm trụ đó!
Cậu Hondo bước lên chỗ đặt chân khổng lồ, nhấn nút. Cỗ xe rung lên trong im lặng. Không có động cơ, tôi thật không rõ cả bọn có thể phát nổ như thế nào, nhưng cho tới bây giờ thì tôi đã được chứng kiến lắm trò kì dị của phép thuật.
“Có muốn anh đi với em không?” Jazz hỏi Brooks. Con mắt xám nhìn cô với nét dịu dàng.
Thở dài, cô đáp, “Em lo được mà.”
Jazz nói bọn tôi cứ việc để đồ lại chỗ anh ta. Để tôi nói cho các vị biết nhé, bỏ lại cây gậy ấy? Đó chính là phần tuyệt nhất đấy.