T
ôi và Brooks mỗi đứa nằm một đầu băng ghế, bàn chân chạm nhau. Tôi nhường gần hết cái chăn cho cô, gió thổi mạnh, đẩy nhanh dòng hải lưu. Nhắm mắt, tôi chìm dần vào giấc ngủ sâu, mơ về cánh rừng kim loại như lần trước, có điều lần này không thấy Rosie. Chỉ có bà Cab trong lốt một con gà khổng lồ ngang ngửa tê giác đang gào rú om sòm, “Tìm điểm mù của hắn!”
“Ah-Puch không có điểm mù!” Tôi hét lên lại. Rồi bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn. Bà Cab là cầu nối của tôi với nhà mình. “Mẹ cháu sao rồi?”
“Mẹ cháu? Cháu lo cho bà ấy trong khi ta đang ngày càng giống một con gà sao? Hôm nay ta đã thèm hạt kê đó Zane. Hạt kê! Cháu phải nhanh lên đi.”
“Cháu hiểu rồi! Nhưng mà cho cháu biết đi… bà ấy có sao không?”
Bà Cab cục một tiếng bực dọc, “Nếu đã muốn biết thì lão già gàn dở Ortiz không lúc nào rời mắt khỏi bọn ta hết. Một khi thoát khỏi lốt gà, ta thề là sẽ…” Cái mỏ gà xổ ra một tràng dọa dẫm đòi chém đòi giết.
Tốt rồi. Cả ba người họ đều được bình an.
“Trở lại với Lão Mửa,” tôi nói. “Trừ khi bà có tuyệt chiêu gì hay, còn không thì kêu réo cháu trong mơ chẳng có ích gì đâu. Vả lại mổ tay cháu như thế đau lắm đấy!”
“Ờ, đáng đời cháu. Đúng là liên lạc qua mơ không phải cách hay. Chỉ có vài lời của ta truyền tới chỗ cháu được, dễ quạu thật. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm vậy thôi.”
“Vậy cháu phải làm gì đây? Khi tới Cổ Giới ấy?”
“Giết hắn.”
“Hay ghê ha!”
“Zane, ta là một con gà! Chân ta là chân gà. Mắt ta là mắt gà. Não ta? Hiểu rồi ha. Ta không hẳn… TA CÓ NÓI MÌNH LÀ GÀ CHƯA VẬY? Còn cái lão gàn kia thì cứ hát cho ta suốt ngày. Hát dở mới đau chứ!”
Hy vọng tôi sẽ sống sót trở về để cho ông O biết rằng trái ớt La Muerte thật sự cay dã man như ông hằng mơ ước. Nhất định ông ấy sẽ phấn khích lắm cho xem. “Còn Rosie thì sao ạ?” Tôi khấp khởi hỏi. “Bà có tin nào từ mấy người bạn không?”
“Bộ ta giống thư kí của cháu lắm hả?”
Hàng cây kim loại loang loáng những hình ảnh méo mó tôi chẳng nhìn ra. Rồi bà Cab kêu quác lên. “Tới giờ dậy rồi. Nhớ tìm điểm mù đó Zane. Tìm đi!”
Một cú nổ bùm dữ dội, khói mù cuộn lên khắp nơi. Tôi choàng tỉnh, ho sặc sụa. Brooks kéo chăn trùm kín đầu, đạp tôi một cái.
“Xin lỗi,” tôi lẩm bẩm, chống tay ngồi dậy. Tạ trời đất vụ nổ chỉ là mơ. Lớp khói mù thay bằng màn sương dày đặc che khuất cả đại dương. Bầu trời trên cao đùng đục. Không chắc lắm, nhưng tôi đoán mặt trời đã mọc.
Jazz từ tầng trên lao xuống. “Chúng ta đi với tốc độ kỉ lục luôn đó! Thấy chưa? Đã bảo con thuyền này thần kì lắm mà!”
“Sắp tới chưa anh?” Tôi hỏi, hạ giọng để không bị Brooks đá thêm cú nữa.
“Tới rồi.”
“Đây là Cổ Giới sao?”
Brooks nghe thế thì tỉnh. Tóc cô rối bù, hai mắt thâm quầng.
Jazz khịt mũi. “Không, đây là lối vào.”
Tôi chớp mắt nhìn quanh, cố xuyên qua màn sương. “Đâu?” Tôi cứ ngỡ sẽ có cửa hay cổng gì đó.
Brooks quỳ lên, phóng mắt qua lan can. “Em chẳng thấy gì hết.”
Con thuyền chồm lên một cái rồi khựng lại như đâm phải tường đá. Lớp sương dần dần tách ra, như những sợi ruy băng cuộn lại thành một hình thù gì đó. Tôi nín thở, nhìn nó tạo thành hình… một đôi mắt khép chặt, một cái mũi, và một cái miệng. Là một gương mặt khổng lồ.
“Lạy thần K!” Brooks kêu lên. “Cái gì đó?”
“Làm sao để vượt qua đây?” Tôi hỏi.
Jazz hừ một tiếng. “Dĩ nhiên là đường miệng rồi.”
“Chúng ta có cần đọc thần chú hay gì không?” Brooks hỏi. “Cho nó mở ra ấy?”
Jazz cau mày, rồi khẩn trương nhìn xuống hai đứa tôi bằng con mắt độc nhất. “Mỗi đứa đưa cho anh một món đồ của mình đi. Cái gì nặng nặng ấy.”
Không có thời giờ để thắc mắc. Brooks cởi một chiếc ủng ra, lẩm bẩm cái gì mà lạnh tê chân, rồi dúi chiếc giày vào tay anh ta.
Jazz lật qua lật lại ngắm nghía.
“Em chỉ nghĩ được vậy thôi,” Brooks nói. “Trừ khi anh muốn một chiếc tất bẩn.”
Tôi nhìn quanh, chộp lấy cây gậy ngu ngốc đặt dựa băng ghế, đưa cho anh chàng khổng lồ. “Anh nghĩ nó chịu mở miệng vì một chiếc ủng lính và một cây gậy à?”
Jazz ném chiếc giày vào gương mặt kia. Không gì xảy ra. “Đúng như mình đoán,” anh ta lẩm bẩm. Màn sương lại cuộn lên, gương mặt bắt đầu tan biến. “Máu cho các thần, mở ra đi!” Anh ta phóng cây gậy vào gương mặt, đập thẳng ngay giữa sống mũi.
Chầm chậm, cái miệng há ra, tựa như cái ngáp dài để lộ bóng tối đặc quánh bên trong.
“Ờ… anh có chắc này là ý hay không vậy?” Tôi hỏi.
“Em có muốn tới Cổ Giới hay không thì bảo?” Jazz chạy lên cầu thang, khởi động máy. Chiếc thuyền lặng lẽ chạy vào trong khoang miệng, chẳng mấy chốc đã bị nhận chìm trong bóng tối đen đặc.
“Anh Jazz ơi?” Brooks lên tiếng.
Anh ta hít mạnh một hơi. “Anh đây nhóc.”
Mắt tôi dần điều tiết lại. “Đây là thông quan sao?” Giọng tôi vang vọng như trong đường hầm. Một cái đường hầm lạnh lẽo bốc mùi chuột chết ven đường.
Brooks chun mũi, lấy tay bịt miệng. Cái mùi buồn nôn này… giống như mùi của cái trang trại sữa gần nhà, trộn với mùi thịt gà phân hủy dưới nắng ấy. Rồi tôi nhận ra tại sao: dưới dòng nước đen kia là những con cá không mắt dị hợm, dài như cá mập bò, trương phình như cá nóc. Lớp da trắng nhợt bị cắn xé nham nhở, bơi tới đâu rơi rớt xương thịt tới đó.
Bọt trắng vón cục trên mặt nước.
Brooks mở to hai mắt, cố nhìn xuyên qua bóng tối. “Cậu thấy được gì vậy Zane?”
“Nhìn như một đường hầm.” Tôi nhoài người qua lan can. Vây quanh bọn tôi là bức vách kim loại rỉ sét. “Hoặc vỏ một con tàu đắm.”
Không gian chật hẹp tới mức tôi có thể với tay chạm trần nếu muốn. Cơ tôi không có điên mà muốn. Tiếng cót két cọt kẹt dội khắp khoảng không lạnh lẽo.
“Sao chỗ này lại kinh khủng vậy chứ?” Tôi hỏi, cố hạn chế hít thở tối đa trong bầu không khí hôi thối này.
“Không được bảo trì,” Jazz nói, bật đèn pin lên. Nhìn như cái loại đèn đốt cháy da thịt Brooks làm mất trong núi lửa ấy. “Khi các thần dựng lên thông quan mới thì mấy cánh cổng này cũng bị bỏ hoang. Tử thần luôn có cách phá hoại mọi thứ mình chạm vào mà.”
Tôi nhìn lên Jazz. Anh ta đang cau mày săm soi tôi như soi một con chuột thí nghiệm. Kiểu như sẵn sàng bật chế độ đèn đỏ rồi đốt tôi ra tro ngay ấy.
“Gì thế?” Brooks hỏi. Mặt khuất hết nửa trong bóng tối.
“Lúc nhận được lá thư,” Jazz chậm rãi nói, “anh cứ tưởng có nhầm lẫn thế nào đó. Rồi anh đâm ra nghi ngờ. Sao lại có người kêu anh đưa họ tới Cổ Giới, vùng đất của các vị thần chứ?”
“Anh nói cái gì vậy anh Jazz?” Brooks hỏi.
Anh ta lại bắt đầu ngâm nga cái bài hát ngu ngốc “Ngày ấy đã cận kề.” Tôi bỗng thấy bồn chồn khủng khiếp.
“Chỉ có thần linh mới mở được những thông quan cũ,” anh ta nói. “Anh không phải là thần, Bé Diều cũng không, vậy là chỉ còn hai người trên thuyền. Mà linh tính mách bảo anh người đó không phải là anh chàng El Luchador37 dưới khoang.”
37. Đấu sĩ (tiếng Tây Ban Nha).
Tôi mở miệng để nói gì đó… Nói gì? Tôi chẳng biết.
Brooks trừng mắt với tôi trong lúc Jazz tiếp tục tháo nút bí ẩn. “Cây gậy của em,” anh ta nói. “Nó là thứ làm cổng mở ra.”
“Sao một cây gậy có thể mở được thông quan cổ đại chứ?” Tôi cười hỏi, hy vọng Jazz có thể nhận ra ý tưởng ấy điên rồ cỡ nào.
“Bởi vì nó thuộc về nơi này,” Jazz nói. “Bởi vì nó thuộc về một vị thần.”
Tôi không thích cách anh ta quan sát tôi bằng con mắt độc nhất kia chút nào. Việc này vượt ngoài tầm kiểm soát mất rồi. Có quá nhiều manh mối, quá nhiều dấu hiệu chỉ ra tôi là thần chủng, chỉ là vấn đề thời gian trước khi tất cả đều biết được. Tôi phải tiêu diệt Ah-Puch. Tôi phải tiêu diệt lão càng sớm càng tốt.
Chợt tôi bắt được một thoáng chuyển động nơi mặt nước.
Chậm rãi như không muốn ai phát hiện, dòng nước đen bắt đầu dâng lên. Chỗ bọt trắng sủi tăm, bốc khói.
“Anh Jazz này?” Tôi nhìn lại anh ta.
“Vậy là,” anh ta nói, vẫn quả quyết tôi có năng lực mở thông quan, “em có gì để nói không? Em là một vị thần cải trang à? Em đang chơi trò gì thế hả?”
“Nói chuyện đó sau được không? Vì bây giờ chúng ta có vấn đề rồi kìa.”
“Vấn đề?”
“Hình như nước đang dâng lên đó,” miệng tôi bình tĩnh nhưng tâm lại không được vậy.
Jazz nhướn cao mày. Anh ta chạy vội ra lan can, quét đèn pin khắp mặt nước. Mấy cái bóng cá không mắt lướt vụt qua ngay dưới bề mặt. Anh ta làu bàu chửi thề mấy tiếng, “Còn tệ hơn thế nữa kìa.”
“Anh Jazz!” Brooks kêu lên. “Mấy bức vách thu hẹp lại kìa…”
“Có kẻ đang cố đóng cổng lại!” Jazz cởi phăng áo ghi-lê ra. “Chúng ta phải ra khỏi đây ngay.”
“Ra khỏi đây?” Brooks nói. “Còn bao xa nữa vậy?”
“Có lối thoát hiểm khẩn cấp nào không?” Tôi thầm hy vọng.
“Vài thước nữa thôi,” Jazz quát. “Vài thước chết tiệt.”
Không cần đoán cũng biết ai đang đóng thông quan: Mặt Mửa. Cái thiết bị định vị khỉ gió. Đúng lí tôi phải lóc nó ra. Nhưng cái thằng ngu tôi lại tin rằng lão đang bận tra tấn cặp song sinh nên chẳng ngó ngàng gì tới mình.
Jazz vội chạy lên tầng trên, ấn mạnh động cơ tới mức chiếc thuyền rên lên phản đối. Máy kêu lụp bụp. “Đi coi nào!” Anh ta hét lên.
Tôi bất lực đứng đó. Nước tiếp tục dâng. Mớ động cơ rỉ sét nghiến ken két khi mấy bức tường càng lúc càng khép chặt. Bầu không khí ngột ngạt như một sinh vật sống cố bóp nghẹn bọn tôi.
“Zane!” Brooks la lên. “Làm gì đi!”
Tôi hoảng loạn nhìn cô, đầu trống rỗng. “Làm gì chứ?”
“Cậu là con của…” Cô vung tay lên trời, “Không biết nữa, GÌ CŨNG ĐƯỢC!”
Tôi nhoài người ra ngoài, vận hết ý chí bắt dòng nước ở yên tại chỗ. Mat chỉ cần vuốt tay là ra lệnh được cho nước. Tôi bèn theo bản năng giơ tay lên. “Đứng lại!” Được rồi, chọn từ dở quá. Tôi có phải đang ra lệnh cho chó đâu. Nhưng tôi chỉ nghĩ được có vậy.
Nước tiếp tục dâng.
Dâng và dâng và dâng.
Cả người tôi cứng đờ ra. Jazz rủa xả luôn mồm, chạy xuống khoang dưới lôi lên một cái xuồng hơi. “Thuyền không qua lọt rồi. Nó sẽ bị nghiền nát như hộp cá mòi mất!”
Anh ta nói không sai. Chỉ một phút nữa thôi là quá trình nghiền nát bắt đầu. Jazz đưa cái xuồng lên miệng thổi. May là buồng phổi người khổng lồ có thể tích đủ để thổi căng một chiếc xuồng ba người ngồi trong vòng mười lăm giây.
“Em không ngồi lên đó đâu!” Brooks nói với Jazz. “Lũ… lũ quái vật kia sẽ cắn thủng nó ngay.”
“Chúng chỉ ăn thịt tươi thôi,” Jazz xoa cằm. “Chắc không thích cao su đâu.”
“Ờ,” tôi thản nhiên so vai. “Vậy nên đây là giải pháp tối ưu đó ha!”
Cổ tay tôi bỗng nóng rực lên như bị nhỏ sáp nóng. Tôi không muốn nhìn xuống đâu. Vì lẽ nào đó tôi biết giây phút mình nhìn xuống, tất cả sẽ thay đổi.
Tỏng. Tỏng. Tỏng.
Nghiến răng, tôi liếc nhìn cái dấu ấn của Ah-Puch. Đôi tròng mắt bên dưới lớp mí điên cuồng đảo qua đảo lại. Rồi chầm chậm, đầy đau đớn, lớp da ở cổ tay tách ra như bị một cái lưỡi lam vô hình rọc ngang. Tôi cắn môi để không thét lên, mắt vẫn hãi hùng nhìn không chớp.
Cái mí mắt vén lên. Này không phải dấu ấn hay hình xăm gì. Mà là mắt thật. Một đôi mắt đen ngòm có thể thấy được tất cả. Giờ thì tôi thét vang.
Máu chảy thành dòng dọc khắp cánh tay.
“Cái gì vậy?” Brooks run giọng hỏi.
Một tiếng cười âm u trầm thấp vọng khắp các bức tường.
“AH-PUCH!” Tôi gào lớn tới mức mấy bức vách rung rinh. “Đồ hèn hạ!”
“Ông già của mi đâu rồi nào?” Lão đều đều hỏi, một làn khói đen mỏng bốc lên từ vết cắt trên cổ tay, bao bọc quanh tôi.
“Zane?” Brooks sững sờ nhìn tôi. Cô không nghe thấy tiếng lão thần chết.
Lửa giận bùng lên tận cổ họng tôi, ngút ngàn dữ dội. Nóng bỏng tựa dung nham.
“Hai đứa!” Jazz ở mũi thuyền hô vang, anh đã vác cậu Hondo lên. “Xuống đây!”
Tôi vội đẩy Brooks tới, đảm bảo cô leo xuống được xuồng cứu hộ. Cô quay lại tính nắm tay tôi, nhưng tôi đã bước lùi ra sau.
Hai mắt cô sáng rực lên như lửa. “Zane!”
“Tha cho họ đi Ah-Puch! Người ngươi muốn là ta!” Tôi siết chặt lan can. Bức vách mục nát tiếp tục ép sát.
“Zane!” Brooks gào lên lần nữa. Cô đang cố trèo lên thuyền lại, nhưng bị Jazz giữ rịt. Cô vùng vẫy đạp chân tứ tung. “Buông em ra!”
Tiếng cười hắc ám dội khắp đường hầm. Ah-Puch hẳn đang khoái trá lắm.
Đám quái vật bạch tạng dần dần trồi lên mặt nước, tỏa ra luồng sáng vàng ệch khắp đường hầm.
Tôi nhìn xuống cặp mắt trên cổ tay. Chúng đang nhìn lên tôi. Thần linh có thể cùng lúc hiện diện ở nhiều nơi, Mat nói thế. Giờ tôi đã hiểu. Ah-Puch có thể nhìn thấy tôi, biết được nhất cử nhất động của tôi, nhưng không phải vì cái thiết bị định vị nào. Cặp mắt này… cặp mắt lão đã trở thành một phần của tôi. Tôi nhợn lên tới cổ họng.
“Không có Zane thì không đi đâu hết!” Brooks rồi cũng vùng ra khỏi tay Jazz được, lần mò leo lên thuyền lại. Mấy bức vách vẫn từ từ khép lại. Sao cô lì quá vậy trời?
Kim loại nghiến nhau răng rắc. Nước bắn tung bên mạn thuyền, bọt đọng khắp khoang. Lũ quái vật há to cái hàm cự đại, chuẩn bị nuốt gọn bất kì miếng thịt tươi nào đi ngang.
Mọi thứ diễn ra như phim chiếu chậm. Bên khóe mắt, tôi thấy Brooks lần mò về phía mình, bước đi loạng choạng qua con thuyền đã nghiêng hẳn về một bên.
Tôi quỳ sụp xuống. Tôi biết mình phải làm gì. Brooks bám theo lan can mà đi, càng lúc càng tới gần. “Lùi lại đi!” Tôi gầm lên. Nhưng vô ích thôi. Cô chẳng bao giờ nghe đâu.
“Mi mạnh đấy thần chủng,” Ah-Puch rít lên. “Nhưng chưa mạnh đủ đâu.”
Chợt tôi nảy ra một ý. Mò tay vào túi quần, tôi rút ra cây răng ngọc. Ai cho đi cây răng ngọc này có thể đặt vào nó bất kì sức mạnh nào. Vươn tay ra, tôi cố đưa nó cho Brooks. Cho cô năng lực điều khiển nước để bọn họ còn thoát khỏi đây.
“Cầm lấy!” Tôi hét lên.
Cô nhìn thẳng vào cây răng ngọc, hiểu ngay ý đồ. Nhoài người tới, cô chìa bàn tay không vịn lan can ra.
Ngón tay hai bên chạm nhau, con thuyền nhồi lên, làm tôi buông rơi cây răng ngọc. Nó trượt dọc qua khoang.
Lăn vòng vòng như bông vụ, Brooks đuổi theo cây răng ngọc, nhưng lại không thấy đường để tìm.
Nó rơi mất rồi.
Nước biển đen ngòm dâng càng lúc càng cao. Như cá mập đánh hơi ra mùi máu, lũ quái vật tụ tập lại, há to mồm.
Tôi quay đầu gọi Brooks, “Chừng nào tớ kêu thì kéo tớ lại, nghe không?”
“Kéo…? Cậu… cậu nói cái gì vậy hả?”
“Nhanh lên đó!” Tôi gào to, đoạn nói với Ah-Puch, “Muốn ta hả? Vậy thì tới đây mà bắt ta này.”
Vừa dứt lời, tôi liền thọc tay xuống dòng nước đói ngấu.