"C
húng ta đi đâu vậy?” Brooks vừa đi theo Jazz vừa hỏi.
“Làm người khổng lồ có nhiều cái lợi, chẳng hạn như có thể nhìn rất xa.”
“Anh thấy được gì rồi?” Tôi hỏi, cố đuổi theo nhưng chẳng kịp, dù đã chống gậy.
“Tới đi rồi thấy,” Jazz hào hứng đáp.
Bầu không gian lặng tờ lạnh lẽo. Không một con vật bò hay trườn hay chạy hay bay ngang qua. Cứ như nơi này đã bị tất cả các sinh vật sống ruồng bỏ vậy. Tất cả, trừ một kẻ phải có mặt ở đây: Giáng Chớp Trắng.
“Chúng ta không thể cứ lang thang vô định vậy được,” cậu Hondo nói sau khi đi bộ được chừng một dặm qua rừng.
“Không đâu,” Jazz nói. Anh ta phải cúi đầu liên tục để không vướng phải cành cây. “Chúng ta đang đi tới Puksí’ikal.”
“Nói lại xem?” Cậu Hondo bảo.
Brooks vừa đi vừa chạy để bắt kịp sải chân khổng lồ của Jazz.
“Trái tim trong tiếng Maya, trung tâm của Cổ Giới,” Jazz nói bằng cái giọng rổn rảng. “Nơi được các vị thần cùng nhau tạo nên, để gặp gỡ, họp mặt, bàn bạc. Sáng tạo, hủy diệt. Nói chung là mấy thứ thần linh thường làm khi rảnh quá ấy mà.” Anh ta vẫn sải bước băng băng, lâu lâu lại đưa tay gạt mấy cành cây cản lối. “Đó là mảnh đất nguyên thủy nơi thế giới đầu tiên được hình thành. Rồi thế giới thứ hai và thứ ba nữa.” Anh hít nhanh mấy hơi. “Thứ phép thuật cổ xưa nhất, quyền năng nhất vũ trụ sinh ra từ đây! Trời, sự nghiệp anh sau chuyến này sẽ thăng hoa lắm cho xem!”
Tôi suy nghĩ thật nhanh. Vậy là Hurakan cũng có phần ở nơi này. Ông ta và Mat là hai vị thần khai thiên lập địa mà. Gáy tôi bỗng râm ran, Đây là nơi bắt đầu tất cả. Phép thuật đầu tiên. Một vùng đất có thể nói là… linh thiêng. Cơ mà Jazz có đoán đúng không? Chẳng lẽ vì đây là nơi các thần không quản nên Hurakan mới bảo tôi tới? Cứ có cảm giác sai sai. Nhưng sai thế nào thì tôi chẳng rõ.
Tôi đi sau Jazz, sóng vai với cậu Hondo. Hôm nay cậu đi chậm hơn bình thường, nhờ vậy tôi mới bắt kịp.
“Mày có kế hoạch tiêu diệt thằng già Mặt Mửa kia chưa?” Cậu Hondo hạ giọng hỏi để người khác không nghe thấy.
“Đại để.”
“Đại để không lấy được huy chương vàng về cho mày đâu.”
“Cháu có kế hoạch rồi, được chứ?” Tôi chẳng quan tâm tới vàng hay bạc. Tôi chỉ muốn đánh bại Ah-Puch, ngăn lão nghiền nát cả thế giới này. Và nếu có thể tránh luôn kiếp nạn phải xuống Xib’alb’a thì càng tuyệt vời hơn nữa. Cái cổ tay bị thương của tôi nóng bừng bừng, đầu giật tưng tưng.
“Giờ mày đã hủy hoại cặp mắt Lão Mửa,” cậu Hondo tiếp, “vậy làm sao để hắn tìm mày đây? Không phải toàn bộ kế hoạch là để con quỷ hôi đó theo mày tới đây à?”
“Lão biết cháu tới Cổ Giới rồi. Tin cháu đi, lão sẽ tìm ra cháu. Trừ khi cháu tìm ra lão trước.”
Brooks đi chậm lại, nói, “Cậu phải chuẩn bị tinh thần sẵn đi. Có thể là bất cứ lúc nào đó.”
Hàng cây tách ra, chúng tôi bước vào một khoảnh đất trống rộng cỡ năm sân bóng bầu dục. Có năm cái kim tự tháp khổng lồ xếp thành hình bán nguyệt. Kiến trúc tất cả đều giống hệt nhau. Mỗi cái đều có bậc thang dốc nằm ở ba mặt nhìn thấy được, dẫn lên ngôi đền vuông vuông tít trên đỉnh. Tôi bỗng liên tưởng đến cái kim tự tháp Hurakan tạo ra trong cõi Hư Không, nhưng năm cái này cao hơn rất nhiều.
Cả bọn bước vào giữa khoảnh đất trống. Jazz ngẩng đầu nhìn kim tự tháp, ngỡ ngàng nói, “Đây chính là đất thánh. Nơi hội đồng, tức năm vị thần tối cao cai quản, sáng tạo và hủy diệt vạn vật.” Anh ta nghẹn giọng, phải tằng hắng một cái. “Đúng thật kìa,” anh ta thì thầm.
“Cái gì đúng?” Tôi hỏi.
“Mỗi mặt kim tự tháp có chín mươi mốt bậc thang, tổng cộng là ba trăm sáu mươi tư bậc.”
Chà! Anh ta tính nhẩm nhanh phết. Chắc là biệt tài của người khổng lồ.
Anh ta tiếp, “Nếu cộng thêm bậc cuối dẫn vào ngôi đền trên đỉnh thì sẽ có ba trăm sáu mươi lăm bậc.”
“Số ngày trong năm,” Brooks rồi cũng hiểu ra.
“Vậy là các thần biết đếm,” cậu Hondo sốt ruột nói. “Chúc mừng nha.”
“Đó chính là cách để tính thời gian,” Jazz tuyên bố. “Đây là nơi nó được phát minh ra. Truyền thuyết kể rằng các vị thần đã tranh giành để được ngồi ở đây. Hội đồng hình thành như thế đó. Mỗi ngôi đền đại diện cho một vị thần trong hội đồng: Nakon, thần chiến tranh. Ixtab, hiện tại đang điều hành Xib’alb’a. Rồi Hurakan, thần bão tố…”
Tôi nghẹn thở.
Jazz vẫn tiếp tục kể, “Ixkakaw, nữ thần sôcôla… Hình như bà ấy đã giành ghế của một nữ thần khác. Ixchel thì phải? Nữ thần chữa bệnh, không thích đánh đấm. Rồi cuối cùng là Alom, thần bầu trời.”
“Vậy là các vị thần này tự phong làm vua?” Tôi hỏi.
“Và nữ hoàng,” Brooks bổ sung.
Jazz vẫn cười thật tươi. “Rồi một vị thần, chẳng rõ là ai, tạo ra thời gian, và thế giới hình thành. Hoặc chí ít là phiên bản thứ ba. Trời, giá như có máy ảnh ở đây!”
Vậy ra Thái Bình cũng từng là thành viên hội đồng… trước khi bị các thần trục xuất, bị xóa hoàn toàn khỏi lịch sử.
Brooks nhìn lên. “Người ta nói các vị thần làm mất sợi thừng thời gian. Ngày xưa nó được quấn quanh Trái Đất, nhưng sau đó đã biến mất. Vậy nên ngày nay các vị thần không thể du hành thời gian được nữa.”
“Nghe ra cũng quan trọng phết, thế mà lại để mất,” cậu Hondo lắc đầu. “Cháu vừa nói là du hành thời gian sao?”
Jazz ngáp dài một cái. “Anh dựng trại ngoài bìa rừng đây.
Tất cả chúng ta cần nghỉ ngơi, vì bất cứ khi nào cũng có thể là…” anh ta nhìn tôi, “thời khắc quyết định.”
“Chúng ta không đi tìm Giáng Chớp Trắng sao?” Ruột gan tôi thắt lại.
“Nhóc cần ăn uống với nghỉ ngơi,” Jazz nói. “Vả lại không ai đi tìm Lão Bà Sấm Sét hết.” Anh ta lôi mớ bánh xếp và kẹo dẻo trong ba lô ra, chuyền cho ba người. Bộ người khổng lồ chỉ ăn có vậy thôi sao? Tôi tự hỏi.
“Để cậu gác phiên đầu cho,” cậu Hondo nhai ngồm ngoàm cái bánh. “Tiện thể, cái đồng hồ của chú em có Wi-Fi không?”
Jazz buồn bã lắc đầu như tự trách mình không nghĩ tới chi tiết đó. “Nhưng tôi có một khối gỗ có thể cháy suốt mười tám tiếng này!” Anh ta lấy trong túi ra. “À, chắc chúng ta cũng cần thứ này nữa.” Anh ta đưa cho mỗi người một cái đèn pin diệt quỷ. Vậy ra anh chàng này là người cung cấp hàng cho Brooks.
“Mà chúng ta canh chừng cái gì vậy?” Brooks quệt vụn bánh trên miệng. “Ah-Puch chưa ra mặt là đã thấy mùi rồi mà.”
“Phải trông chừng mấy vị thần khác nữa,” Jazz nói. “Đảm bảo cậu nhóc nhà em đụng độ Ah-Puch trước.”
Hai má Brooks đỏ ửng. “Cái gì mà cậu nhóc nhà em chứ?” Cô lẩm bẩm.
Tôi vội đổi chủ đề. “Có ai thừa cái bánh nào không?” Tôi ngốn nốt chỗ còn lại của cái bánh ngon lành. “Món này ngon thật đó anh Jazz. May mà có anh đem theo.”
Brooks nằm dài ra, lấy tay che mặt. “Mọi người nói nhỏ tiếng lại chút được không? Này cứ như treo nguyên cái bảng đèn neon để các thần biết mình ở đâu vậy.”
Đầu óc tôi cứ thế quay cuồng trong suốt mấy tiếng tiếp theo. Quay cuồng trong lúc cả bọn ngồi quanh đống lửa, quay cuồng trong lúc bóng tối buông phủ xuống Cổ Giới, quay cuồng trong lúc Jazz ngáy ầm ầm còn Brooks và cậu Hondo lần lượt chìm vào giấc ngủ. Tiện thể, cậu Hondo đúng lí phải gác phiên đầu tiên, nhưng có lẽ ông cậu nhà tôi vẫn chưa hoàn toàn bình phục sau vụ trúng độc thịt viên. Tôi cởi bộ âu phục ra, thay bằng quần bò áo thun (thoải mái hơn nhiều để đánh thần), rồi ngẩng đầu ngắm vầng trăng song sinh chậm rãi lướt qua bầu trời không sao. Giờ đã mất chiếc răng ngọc, liệu tôi có còn được gặp lại Hurakan nữa không? Cổ tay nóng bừng, cái chân tật đau nhức, tôi không thể không tự hỏi làm thế nào mà một thằng nhóc gầy gò chỉ còn một tay với một chân lành lặn có thể đánh bại vị thần của cái chết, bóng tối và hủy diệt. Nhưng phải có lí do để Hurakan bảo tôi tới đây. Tìm Giáng Chớp Trắng. Có điều Jazz nói việc đó là không thể. Vậy tôi phải làm gì đây? Ngồi chờ lão bà Bổ Sét ấy đến mời mình đi ăn tối à?
Hình ảnh về những cuộc chiến cổ đại, sinh vật siêu nhiên, các vị thần cuồng nộ, phép thuật huyền bí cứ thế xoay vần trong đầu. Tôi nghĩ mãi không ngừng rằng Chuyện này có thật không? Sao nó lại có thật được? Đêm dần trôi, nặng nề tăm tối. Tôi cố động viên mình, tự nhủ mình can đảm lắm. Nhưng nói thật thì tôi sợ chết khiếp đi được. Sợ hãi, kém cỏi. Ước gì có Rosie ở đây, để tôi có thể gãi đầu, lắng nghe tiếng thở nhẹ nhàng của nó. Nhưng nó cũng đang ở một nơi mà nó chẳng muốn. Nghĩ đến cảnh con chó cưng cũng đang sợ hãi biết chừng nào, lòng tôi lại đau đến quặn thắt.
Tôi thiếp đi lúc nào không hay.
Tiếng sột soạt làm tôi choàng tỉnh. Rosie? Tôi mơ màng nghĩ. Lăn người trên nền đất cứng, tôi dụi đầu xuống cái áo thun cuộn tròn làm gối.
Lại nữa rồi, một tiếng rắc khẽ của bàn chân giẫm nhẹ lên cành cây, ngoài bìa rừng, cách chưa đầy năm thước. Tôi ngồi dậy, phóng mắt vào màn đêm.
Một người đeo mặt nạ đứng lẫn trong bóng tối. Nhìn thẳng vào tôi.