K
ẻ đó mặc áo chùng đỏ dài, đeo một cái mặt nạ đỏ phẳng lì chỉ để hở mắt và miệng. Đặt cạnh bên là một cây rìu đá. Thay đỏ thành đen và cây rìu thành lưỡi hái thì ta sẽ có Tử Thần chính hiệu.
Chết thật!
Từ từ, dè dặt, tôi lăn người đứng dậy. Lồng ngực căng cứng như da khô. Tôi phải làm gì đây? Bước tới bắt chuyện à? Ê mặt nạ đỏ, đằng ấy có phải là Chớp Trắng không? Nửa đêm nửa hôm tới đây làm gì thế? Được rồi, không hay chút nào. Vậy nên tôi đứng đó giương mắt nhìn lại, không nhúc nhích. Nhưng có run rẩy.
Bầu trời đen thẫm như mắt Ah-Puch, ngoại trừ khu vực đống lửa thì xung quanh đều chìm trong cảnh âm u. Kẻ kia nhấc cây rìu lên, bổ ngang một cú vào thân cây. Tôi co rúm người trước tiếng choang dội khắp cánh rừng. Jazz, cậu Hondo và Brooks vẫn ngủ say như chết, phải nói là thần kì thật đấy bởi cái âm thanh vừa rồi chẳng khác gì tiếng búa tạ nện vào chuông nhà thờ.
Cái cây rung bần bật, ngân lên như dây đàn. Chỗ mạng nhện bám trên cành lá rơi lả tả, để lộ… tôi chớp mắt. Giống hệt như trong mơ, một cái cây kim loại, phản chiếu cái bóng méo mó của tôi. Một thằng nhóc cao kều, đứng niểng về bên trái, tóc đen rối bù, vai ngang, cặp mắt mở to ra chiều sợ hãi. Chắc chắn không phải dạng có khả năng đánh bại vị thần của cái chết. Nhưng biết điều kì lạ ở đây là gì không? Cái bóng phản chiếu của tôi đang cầm một vật gì đó trong tay. Không phải cây gậy. Nhưng là gì thì tôi không nhìn ra được.
Những đốm nhỏ li ti xam xám bắt đầu rơi từ trên trời xuống, chậm rãi xoay tròn tiếp đất. Tôi đưa tay hứng, day nhẹ trên đầu ngón tay. Tro. Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Một đường nứt mỏng như sợi tóc kéo ngang qua nền trời đen. Thế là thế nào? Chẳng lẽ thế giới này cũng sắp sửa sụp đổ như thế giới cặp sinh đôi tạo ra? Tôi nhích sang Brooks để gọi cô dậy, liền nhận ra dưới mớ chăn mền kia chẳng có ai. Cô chạy đi đâu mất rồi?
“Brooks ơi?” Tôi thì thầm gọi. Không tiếng trả lời. Cô ta mới là người cần thiết bị theo dõi đó!
Tôi bước lên một bước về phía kẻ đeo mặt nạ. Vừa đặt chân xuống, kẻ đó liền phóng vọt đi. Tôi đuổi theo. Có biết tôi nghĩ gì suốt thời gian đó không? Mình không nên đuổi theo thứ này. Không nên. Không nên. Không nên chút nào.
Kẻ đó nhanh vô cùng. Tôi cố hết sức để không rơi lại phía sau. Lâu lâu cái chân tật lại làm tôi ngã sấp mặt xuống mớ lá dính đầy mạng nhện nhớp nháp.
Những lần như vậy kẻ kia lại dừng chân, ngoái đầu ra sau như để đảm bảo tôi vẫn theo kịp. Đây có phải là bẫy không vậy? “Ê!” Tôi kêu lên, đứng dậy lần thứ ba. “Ai đó?”
Cái giọng thanh thanh của thiếu nữ vang vọng qua hàng cây, “Nhanh chân lên đi Obispo.”
Sao cô ta biết tôi là ai? Chưa gì tôi đã thấy đây là một kẻ khó ưa rồi đấy.
Cả hai đi tới một trảng cỏ nhỏ. Cô ta dừng lại cách tôi chừng ba thước, vẫn quay lưng về phía tôi. Tôi không khỏi mừng thầm vì có cơ hội hít lấy hơi. “Cô… cô là Chớp Trắng có phải không?” Tôi chống tay xuống đầu gối, thở phì phò. May là tôi vừa kịp nhớ lại lời Jazz nói trên đường tới Puksí’ikal: Không ai có thể nhìn thẳng vào mặt bà ta mà không cháy khét hai mắt.
Một tiếng hừ nhẹ, rồi cô quay lại hỏi, “Nhìn tôi giống Chớp Trắng lắm sao?”
“Ai biết,” tôi thành thật đáp. “Tôi đâu biết Chớp Trắng trông như thế nào.”
“Còn cậu thì chẳng giống người hùng hay thần linh gì cả, Obispo.”
Tôi so vai, “Sao cô biết? Cô quen nhiều anh hùng với thần linh lắm à?”
“Nếu muốn trở thành chiến binh thì cậu phải học cách lắng nghe đi. Rõ chưa?”
Nói rồi cô ta im luôn. Vậy là tôi phải lắng nghe cái gì à? Sau chừng một phút, tôi đâm chán cái trò dây dưa này, bèn hỏi luôn, “Sao?”
“Sao gì?”
“Cô có phải là Chớp Trắng không?” Tôi sốt ruột.
“Tôi ư? Không ai cả.”
“Được rồi, Không Ai Cả,” tôi nhấn mạnh tiếng thứ hai. “Cô có biết tôi phải tìm…?”
“Cậu là người hùng mà Obispo,” cô ta cắt ngang, đặt tay lên mặt nạ. “Nói cho tôi biết Chớp Trắng ở đâu đi.”
Con nhỏ này phiền thật đấy. Cô ta từ từ cởi mặt nạ xuống, nhưng tôi chưa kịp nhìn thấy mặt thì cô ta đã biến hình. Biến hình y như Brooks vậy. Nhưng cô gái này không biến thành diều hâu. Cô ta biến thành một con đại bàng khổng lồ, phần ngực rộng có lông trắng lốm đốm sôcôla, đôi mắt nâu điểm vàng, móng sắc nhọn, sải cánh rộng chừng sáu mét. Cô ta kêu lớn một tiếng rồi bay vọt lên trời.
“Khoan!” Tôi gọi với theo. Dẫn tôi tới tận đây làm gì để rồi bay đi như thế? Tôi chạy tới chỗ cái mặt nạ bị bỏ lại, nhặt nó lên, gào vào màn đêm, “Không Ai Cả bỏ quên cái mặt nạ này!”
Cái mặt nạ khá mỏng, dệt bằng tơ mảnh, tầm thường tới mức ai nhặt được cũng sẽ quẳng vào sọt rác. Phần mắt có lót hai mảnh kính trong. Cảm giác như đang làm chuyện sai quấy, tôi e dè nhìn quanh trảng cỏ rồi ướm cái mặt nạ lên, hy vọng nó sẽ không nung chảy mặt mình.
Không gì xảy ra. Không chảy mặt. Không phép thuật. Không siêu năng lực. Không gì hay hết.
Tôi cởi nó ra, nhét vào túi sau. Tới khi đó tôi mới để ý thấy những hạt bụi lấp lánh rơi lả tả xung quanh. Tôi ngẩng đầu lên, thấy một cái cây khổng lồ. Tầm mắt hạ từ thân cây xuống gốc, xuống tới bộ rễ dày lan tỏa vào bóng tối. Mớ rễ dẫn tới một cái hốc lớn trên mặt đất, hình như phát ra ánh sáng bên trong.
Tôi bước tới mép hố, quỳ xuống để nhìn cho rõ. Chừng mười lăm mét dưới kia là một hồ nước với tường đá vây quanh. Ánh sáng lập lòe trong hồ, những tia điện xẹt qua xẹt lại làm mặt nước rung động, xì xèo bốc khói.
“Cái quỷ gì đây?” Tôi ngỡ ngàng lẩm bẩm.
Gần bên hồ nước là một miệng hang, từ đó bay ra từng cụm tàn lửa. Mỗi lần một cụm bay ra là tôi nghe thấy tiếng choang của kim loại va chạm. Tính hiếu kì trỗi lên, cái sợi dây to bản nằm gần chân tôi chẳng khác gì một lời mời gọi. Một đầu dây cột sẵn vào gốc cây. Quanh hồ có một dải đất hẹp, nếu trèo xuống được thì có thể lần theo đó để đi tới miệng hang. Một chữ nếu to tướng.
Tôi cầm sợi dây lên, giật giật vài cái xem có chắc chắn không. Cổ tay vẫn còn đau buốt. Tôi có thể leo xuống chỉ bằng sức của một tay không? Nhỡ ngã thì sao? Mười lăm mét đâu có ít, vả lại ai biết trong cái hồ nước sáng rực kia có thứ gì.
Tay tôi bắt đầu đổ mồ hôi. “Đeo mặt nạ vào đồ ngốc!”
Tôi nhìn lên, thấy đại bàng Không Ai Cả đảo vòng vòng trên hố.
“Đang tính mà!” Tôi chống chế, lôi cái mặt nạ trong túi ra rồi đeo lên mặt. Mà cái mặt nạ này có gì hay cơ chứ? Có thấy nó làm được gì đâu. Chỉ có làm mặt tôi nóng hầm hập.
Tôi lẩm nhẩm vài câu kinh cầu rồi siết chặt sợi dây bằng bàn tay lành lặn, quấn một vòng quanh cổ tay cho chắc ăn. Tôi dò dẫm đi lùi qua mép cho tới khi chạm chân vào vách đá bên dưới.
Được rồi, tới giờ vẫn ổn. Mỗi lần một chút, tôi leo dọc xuống vách tường, siết chặt dây tới mức rát cả bàn tay. Cơ tay gào thét đau đớn. Con đại bàng vẫn lượn lờ bên trên. Tôi cảm nhận được từng đợt gió tạt qua mỗi khi cô ta vỗ cánh. Thấy ghét!
“Nếu có ngã thì tôi sẽ chụp cậu lại,” cô ta nói. “Nếu tôi xuống kịp. Mà thôi, cậu tốt nhất là đừng có ngã.”
Tôi cố lờ đi cái giọng khó ưa kia, chậm chạp leo xuống. Vài phút sau, tôi chạm được chân xuống bờ hồ. Rồi lần mò về phía miệng hang. Ánh sáng nổ tanh tách, kêu xì xèo dưới nước. Dám chừng dưới đó có cả một bầy lươn điện.
Tôi bước thẳng vào hang.