K
hi tôi mở mắt ra, cả bầu trời vẫn đen kịt.
Mọi thứ cứ u u như thể lỗ tai bị nhét bông gòn.
Tôi vừa rên rỉ vừa lồm cồm ngồi dậy, nhận ra mình đã lăn xuống hơn mười tám mét từ đỉnh núi. Đầu giật tưng tưng, xem xét nhanh một lượt, tôi thấy hai cổ tay trầy xước và một cái khuỷu tay rướm máu. Rồi tôi chợt nhớ ra: Rosie! Nó đâu rồi?
Tôi đứng thẳng dậy, hốt hoảng tìm kiếm trong bóng tối. “Rosie! Lại đây nào cưng.” Tôi định leo ngược lên đỉnh lại, thế rồi nghe thấy tiếng nó thút thít ở gần chân núi. “Rosie!” Tôi nhanh chóng nhảy lò cò xuống cuối đường mòn, đầu quay cuồng lâng lâng.
Tới nơi, tôi ngồi xổm xuống để lấy hơi. Đó là lúc mẹ xuất hiện. Mẹ quỳ đối diện, ghì hai vai tôi thật chặt. Mắt mẹ nhòe lệ, miệng thao thao một tràng tiếng Tây Ban Nha, chủ yếu là “Gracias a Dios,”3 câu cửa miệng mỗi khi bà phát hoảng.
3. Tạ ơn Chúa (tiếng Tây Ban Nha)
“Mẹ nghe thấy tiếng nổ!” Mẹ nức nở. “Mẹ lên phòng xem con thế nào thì không thấy con trên giường rồi…” mẹ siết chặt vai tôi hơn nữa. “Mẹ đã dặn con không được ra ngoài này rồi mà. Nhất là lúc ban đêm. Con nghĩ gì vậy hả?”
“Con không sao mà.” Tôi nói, ngồi phệt xuống đất. Tôi ngước nhìn Quái Thú, đen ngòm hơn cả bọ cánh cứng sa mạc. Tôi đã bất tỉnh bao lâu rồi? “Mẹ có thấy Rosie đâu không ạ?” Tôi thấp thỏm hỏi.
Nhưng mẹ không trả lời, bà còn đang bận tạ ơn thánh thần và xoa nắn cho tôi.
Tim tôi bắt đầu đập liên hồi trong hoảng loạn. “Mẹ!” Tôi vùng khỏi tay bà. “Nó đâu rồi?”
Một giây sau, Rosie xuất hiện cùng cây gậy ngậm trong mõm. Tôi lấy lại cây gậy, nó liếm láp mặt tôi, đưa chân khều khều như để kiểm tra xem tôi có thật sự còn sống hay không. Tôi kéo con chó lại ôm vào ngực, vùi mặt vào cổ nó để mẹ không thấy dòng nước mắt chực chờ bên khóe. “Tao yêu mày lắm, đồ con chó ngu ngốc.” Tôi thì thầm để mỗi mình Rosie nghe được.
Không lâu sau thì xe cứu thương, cảnh sát, cứu hỏa và đám phóng viên nhà báo xuất hiện. Mấy người này đến đây chỉ vì tôi thôi sao? Thế rồi tôi nhớ đến cái kẻ kì dị rơi máy bay kia. Tay đó chắc chắn cần nhiều sự giúp đỡ hơn tôi. Sau vài phút, nhân viên y tế kiểm tra sơ bộ, băng bó vết thương, rồi nói với mẹ rằng tôi bị đập đầu và cần chụp CT4 để kiểm tra. Nghe có vẻ đắt đỏ đấy.
4. Còn gọi là chụp cắt lớp vi tính. Đây là kỹ thuật dùng nhiều tia X – quang quét lên một khu vực của cơ thể theo lát cắt ngang phối hợp với xử lý bằng máy vi tính để có được hình ảnh 2 chiều hoặc 3 chiều của bộ phận cần chụp.
“Con ổn mà,” tôi nói, đứng thẳng dậy để chứng minh.
Tôi có thể dễ dàng nhìn ra ánh mắt nghi ngờ của nhân viên y tế đảo khắp người tôi.
“Cháu bị một chân yếu thôi mà,” tôi tựa vào cây gậy, nói vậy thì đỡ hơn chân quái thai nhiều.
Mẹ lắc đầu.
“Chân cháu bị gì thế?” Nhân viên y tế hỏi.
“Chỉ là chân phải nó chưa dài kịp bằng chân trái thôi,” mẹ bảo.
Sự thật là không ai biết cả. Không một bác sĩ nào có thể giải thích chính xác vì sao chân tôi không phát triển bình thường được, điều này đồng nghĩa với việc tôi có thể được lên mấy chương trình truyền hình về bí ẩn y học nếu muốn. Tôi thà làm một bí ẩn còn hơn bị định cho một chứng bệnh nào đó.
Mừng là mẹ không nói gì về bàn chân phải. Nó nhỏ hơn bàn chân trái hai số, do đó mẹ luôn phải mua hai đôi giày khác nhau mỗi khi tôi mang chật.
Tiếp theo là tiếp chuyện đám cảnh sát. Sau khi thưa lại mọi chuyện với sĩ quan Smart (tên thật không hề bịa), cô ấy nói, “Vậy là chiếc máy bay cứ thế đâm sầm vào miệng núi lửa.”
Tôi gật đầu, cố gắng giữ Rosie thật chặt, nó cứ nhảy chồm chồm lên, rên rỉ nhìn về miệng núi lửa. “Chúng ta an toàn rồi.” Tôi hạ giọng nói với nó.
Cô Smart lại tiếp tục hỏi, “Chiếc máy bay có dấu hiệu trục trặc gì không? Có tạo tiếng động lạ không? Có bốc khói không?”
Tôi lắc đầu. Không hề có dấu hiệu bất thường gì cả, nhưng rồi tôi nhớ đến tay phi công với cặp mắt đỏ rực và cái hàm đầy răng nhọn. Chắc tôi tưởng tượng thôi…
“Thế nào?” Sĩ quan Smart hỏi lại.
“Cháu không nhớ.” Tôi nói càng ít thì càng tốt vậy. Nếu cho họ biết tôi thấy gì, họ sẽ cho rằng tôi cần đi chụp não mất. “Chuyện gì xảy ra với viên phi công rồi ạ?” Này thì tôi không thể không hỏi.
Cô Smart liếc sang mẹ như xin phép được thông báo sự thật đáng buồn.
“Chúng tôi hiện chưa tìm được ai cả.” Smart trả lời. “Đội tìm kiếm đang trên đường đến đây.”
Tôi không nghĩ lại có kẻ sống nổi sau khi đâm vào… Mà khoan đã. Đội tìm kiếm ư? Cơ thể tôi căng cứng. Nhỡ họ tìm thấy cái hang của tôi thì sao? Nó sẽ tràn lan trên tin tức báo đài, rồi đủ loại nhà thám hiểm sẽ ùa về đây và nghĩ rằng đây là núi lửa của họ mất.
Một chiếc xe đỗ xịch lại, ông O và bà Cab leo ra. Cả hai chậm rãi băng qua sa mạc. Bà thì đeo một cặp kính râm Chanel to bản để che đôi mắt không thấy đường. Ông thì đội cái mũ cao bồi rộng vành quen thuộc để che cái đầu hói. Trông như một cặp vợ chồng già vậy, nhưng khá đáng tiếc cho ông O, sự thật lại không phải thế. Ông ấy cứ hỏi tôi mấy câu như: Bà ấy thích màu gì? Bà ấy có bao giờ nhắc đến ông không? Cháu nghĩ bà ấy có chịu đi chơi với ông không? Thế nên một ngày đẹp trời, tôi đã hỏi thẳng bà Cab rằng bà có bao giờ muốn làm bạn gái ông O không. Bà ấy ném cho tôi ánh mắt như thể tôi vừa kêu bà ấy nhảy vào hố lửa. Tôi không bao giờ kể với ông O chuyện đó, vì biết nó sẽ khiến ông ấy càng mập và hói hơn nữa mà thôi. Ông chưa bao giờ bỏ cuộc, vẫn luôn lên kế hoạch để mời được bà đi ăn tối. Tôi rất nể ông vụ này.
“Zane!” Ông O kêu lên, một tay dìu bà Cab. Đôi mắt nâu ngập tràn lo âu. “Ông thấy vụ nổ. Cháu có sao không? Lửa có béng đến cháu không?”
“Phải nói là bén mới đúng chứ,” bà Cab lầm bầm, đẩy cặp kính lên sống mũi.
May mà mình lăn ra kịp thời, tôi thầm nghĩ.
Mẹ vỗ vai tôi. “Tạ ơn các thánh, thằng bé an toàn rồi ạ.”
“Nửa đêm nửa hôm bỏ khỏi nhà không có gì hay đâu Zane,” bà Cab nói. “Cháu nghĩ gì vậy hả?” Bà quay mặt về hướng ngọn núi lửa, dù có cặp kính râm, tôi vẫn có thể nhìn thấy nét mặt cau có của bà. Tay bà chạm đến mặt dây chuyền Maya ngọc bảo đeo trên cổ. Bà từng nói với tôi rằng một linh hồn bảo vệ đang sống trong miếng ngọc. Theo tôi thấy đó có vẻ là một nơi khá chán (và bí khí) để sống.
Cô Smart yêu cầu được nói chuyện riêng với mẹ, hai người bèn bỏ ra một quãng xa.
Tôi chưa kịp thắc mắc họ muốn nói chuyện gì thì bà Cab đã kéo tôi sang một bên. “Bà đã dặn cháu rồi, nơi này rất là peligroso5. Cháu không nên đến đây.”
5. Nguy hiểm (tiếng Tây Ban Nha).
“Nó đâu có nguy hiểm ạ,” tôi cãi. Ít nhất là nó không nguy hiểm trước tối nay, tôi nghĩ thầm.
“Quỷ dữ lảng vảng ở đây Zane ạ.” Bà Cab chỉnh lại cặp kính. “Bà cảm nhận được chúng. Cháu phải tránh xa nơi này.”
Ha. Phải chi bà ấy biết được tôi tìm thấy một lối vào tận bên trong! May mà khả năng bói toán của bà ấy thuộc dạng nửa-trúng-nửa-trật. Nếu bà ấy thật sự có thể thấy hếtmọi thứ thì sẽ tệ lắm.
“Bà có dự đoán được vụ rơi máy bay không?” Tôi hỏi, “Bà có biết được nó sẽ diễn ra thế này không?”
Rosie chọn ngay lúc đó để xổ xích. Nó phóng như bay về phía ngọn núi lửa. Tuy chỉ có ba chân nhưng nó vẫn là một quả tên lửa tí hon. Tôi đuổi theo, cố gắng bước dài, ước chi có thể chạy. Cơ mà tôi vẫn là một tay nhảy lò cò nhanh siêu hạng. “Rosie!”
“Zane!” Mẹ gọi với theo.
Tôi luồn lách qua lại trong bóng tối để tránh đội tìm kiếm. Tôi đi vòng sang phía bên kia ngọn núi, theo hướng Rosie chạy. Tới nơi, cả khu đất trống trơn, chưa có ai tìm kiếm đến khu vực này. Khói bốc cao từ miệng Quái Thú như thể nó đang tỉnh giấc. Rosie đứng dưới chân núi, sủa như điên. Tôi lần mò tới chỗ con chó, tự hỏi sao tự nhiên nó lại lồng lộn lên thế. Tóm được dây xích cổ rồi, tôi bèn hướng theo ánh mắt nó, cuối cùng cũng thấy được thứ nó đang nhìn.
Tôi không nghĩ mình bị đập đầu mạnh đến thế. Cứng đơ cả người, thứ tôi đang thấy chắc lại là ảo giác nữa rồi.
Tôi vẫn chưa rõ thứ bên trong buồng lái là gì khi cái máy bay lao thẳng về phía mình. Người ngoài hành tinh? Quái vật? Một phi công say rượu đeo mặt nạ Halloween cực xịn? Dù nó là gì đi nữa, đáng lẽ nó phải chết sau vụ nổ kia rồi. Nhưng thứ đó vẫn đang ở đây, phía sau một lùm cây nhỏ cách tôi tầm sáu mét, khom người đào bới như một con thú hoang. Nhìn trực tiếp, nó còn kinh dị hơn cả trước kia, giờ tôi dám chắc đó không phải người ngoài hành tinh hay một kẻ hóa trang chất lừ. Nó… nó trông như mấy con quái vật trong quyển truyện thần thoại của tôi vậy, có điều xấu xí hơn gấp chục lần. Da con quái nhợt nhạt tái xanh dưới ánh trăng. Nó chẳng có lấy mảnh vải che thân, nhưng cũng chẳng cần. Những túm lông đen bao phủ khắp cơ thể cồng kềnh. Cặp tai to hình bông cải xanh rũ xuống bên cái cổ trương phồng. Nó quay lại, nhìn thẳng vào tôi bằng cặp mắt khổng lồ không mí. Vươn thẳng cái tấm thân dài ba mét, nó tập tễnh tiến về phía tôi, kéo lê hai cẳng tay dưới đất. Thế quái nào mà nó nhét vừa vào cái máy bay bé tẹo kia vậy?
Nó rít lên cái gì đó với tôi, nghe như A púc. Púc púc cái gì cơ? Não tôi đang quay như chong chóng nên cũng không dám chắc.
Tôi mở miệng thét, nhưng chẳng phát được tiếng nào.
Bỗng một con cú đen khổng lồ với cặp mắt vàng rực lượn vòng tới, cách đầu tôi vài mét. Nó sà xuống thấp đến mức tôi phải thụp người né bộ vuốt.
Mẹ bắt kịp được tôi. “Zane, con bị làm sao thế? Sao con lại chạy đi như vậy?”
“Mẹ, lùi lại đi.” Sao mẹ không thét lên nhỉ?
Con quái vật há to cái mồm kinh dị, dịch nhầy vàng ệch trào ra.
Rosie tru lên như nữ thần báo tử. Tôi nắm chặt cây gậy, sẵn sàng đâm vào mắt cái thứ kia. Hoặc làm bất cứ thứ gì để ngăn nó lại gần mẹ.
Ngay khoảnh khắc đó, con quái bỗng rên lên rồi biến thành một làn khói mong manh tan theo gió trời.
Quả tim tôi như đang dộng nhịp đôi vào xương sườn. “Mẹ… mẹ nhìn thấy nó không?”
“Thấy gì cơ?” Mẹ đưa tay sờ trán tôi. “Con làm mẹ sợ đấy Zane. Chắc phải dẫn con đi chụp CT quá.”
“Con ổn mà. Thật đấy. Chỉ là… một con sói đồng cỏ thôi.”
Trừ việc thật ra tôi chẳng ổn. Chẳng hề ổn một chút nào.
Tôi vỗ đầu Rosie để trấn an nó, không, để trấn an cả hai đứa bọn tôi. Ít ra con chó cưng của tôi nhìn thấy con quái. Nhưng tại sao mẹ lại không nhỉ?
“Necesitas6 nghỉ ngơi,” mẹ bảo. “Để mẹ đưa con về giường nào.”
6. Con cần phải (tiếng Tây Ban Nha)
Ngay khi mẹ rời khỏi phòng ngủ, tôi lập tức bật dậy kiểm tra cuốn truyện Maya. Tôi tìm thấy tranh minh họa khá giống với sinh vật kia, với hai cánh tay lông lá và đôi mắt ốc nhồi. Tôi phải đọc dòng chú thích tới hai lần để chắc chắn không nhầm. “Một loài quỷ ở Xib’alb’a, Âm giới,” tôi thì thầm bảo Rosie. “Nhưng sao có thể chứ, đây chỉ là truyền thuyết, làm gì có thật ngoài đời…”
Nó đặt chân lên người tôi, rên ư ử.
“Ừ, tao cũng sợ phát khiếp giống như mày vậy.”
Tôi nhét quyển sách xuống gầm giường rồi kéo chăn trùm kín người. Rosie bỗng rên rỉ.
“Mày nói đúng. Dẹp quyển sách này luôn cho rồi.”
Tôi ngồi dậy, đi đến tủ quần áo, nơi mẹ bắt tôi cất lọ nước thánh. Tôi vẩy nước thánh khắp bức hình con quỷ kia, rồi nhét cả quyển sách xuống dưới đống quần áo cũ trong tủ, đóng cửa lại.
Khi tôi quay trở lại giường rồi, Rosie nằm xuống kế bên, tôi có thể cảm nhận được tiếng tim nó đập nhanh, nó vẫn còn sợ lắm.
Tôi không tài nào chợp mắt nổi. Chứng kiến vụ đâm máy bay đã tệ, thêm cả Rosie suýt bị bỏng cũng chẳng có gì hay. Rồi nhìn thấy con quái vật đó thì… chà, hơn cả khủng khiếp.
Chưa kể cái vụ việc kì lạ với mẹ nữa. Tại sao bà lại không thể nhìn thấy con quỷ đó chứ? Nếu lỡ con quái vật đó tấn công thì sao? Tôi tự hỏi. Liệu mình và Rosie có đủ sức bảo vệ mẹ hay không?
Tôi ép bản thân phải nhắm mắt, nhưng vẫn không thể thôi tưởng tượng ra hình ảnh đáng sợ kia.
Nhưng có thứ còn khiến tôi khiếp sợ hơn hết thảy: biết rằng cái chân tật nguyền của mình sẽ vĩnh viễn không thể chạy đủ nhanh để thoát khỏi nanh vuốt của con quái vật.