T
ôi làm cái việc duy nhất có thể nghĩ tới.
Đóng sầm cửa lại ngay trước mặt cô.
Biết nói sao đây? Cô ấy khiến tôi giật mình. Ý tôi là ai lại đường đột đến nhà người ta mà không báo trước một tiếng như thế? Rồi tôi phải làm gì, cho cô vào cái động rượu chè đô vật của cậu Hondo? Còn lâu. Tim tôi như muốn rớt ra ngoài còn đầu thì muốn bay lìa khỏi thân xác.
Lại một tiếng gõ cửa nữa. Ôi trời, cô ta dai quá thể. Tôi lùi lại.
“Đừng có đứng đó chứ!” Cậu Hondo quát. “Mở cửa đi!”
Tôi chưa kịp phản ứng thì cậu đã đứng lên. Dẫn chương trình trên tivi gào lên cái gì mà Cuồng Bạo bị hạ gục. Đáp lại, bạn bè cậu Hondo rống vài từ mà tôi không tiện lặp lại cho thần linh các vị.
Nếu tôi có thể bốc hơi như ảo thuật gia thì tin tôi đi, tôi đã làm rồi, nhưng cậu Hondo quá nhanh, tôi chưa kịp làm gì thì cánh cửa đã mở toang. Cậu Hondo chớp mắt, nhìn chằm chằm vào Brooks với vẻ mặt kinh ngạc hệt như tôi lúc thấy cô đứng trước cửa nhà.
“Cháu tiếp thị cái gì hả?” Cậu ấy hỏi.
Brooks lắc đầu. “Cháu tới đây để gặp cậu ta.” Cô quăng cho tôi cái liếc nhẹ.
Cậu Hondo kéo tay tôi lại. “Phép lịch sự của mày để đâu hết rồi Zane? Mời bạn vào đi.” Cậu Hondo giữ cửa cho Brooks bước vào nhà. Sau đó cậu trở về xem tiếp trận đấu còn tôi thì quay lại làm một vũng nước dưới sàn.
“Ờ thì… tụi này đang xem tivi,” tôi lầm bầm. “Cậu thích Cheetos không?”
Brooks nhìn quanh. Đấy là lúc tôi phát hiện khi mắt cô chuyển động, những tia hổ phách và ánh vàng trong hai đồng tử cũng lướt theo, hệt như những hạt đá quý trong kính vạn hoa.
Cô hạ giọng chỉ để tôi nghe thấy. “Tớ cần nói chuyện với cậu… một mình thôi.”
Một ông chú cười sảng khoái, ném miếng bánh vào đầu tôi. “Này thì không cho tụi tao biết là có bạn gái này.”
Dung nham ơi, bùng lên và nuốt chửng tôi luôn đi.
Ngay lúc tôi nghĩ không còn gì có thể tệ hơn nữa thì tiếng cửa sau đóng sầm lại. Mẹ về sớm. Điều này chưa bao giờ là điềm lành cả, nhất là khi tôi vừa mới bị phạt còn cậu Hondo thì biến phòng khách thành một sàn đô vật.
Mấy ông chú lật đật tắt tivi, nhặt đám gối đệm lên, trong khi cậu Hondo vội vàng quét vụn bánh và tàn thuốc khỏi bàn. Cứ như làm vậy thì chỗ này sẽ sạch hơn ý.
Tôi toan chuồn qua cửa chính, nhưng quá muộn rồi. Mẹ đã đứng ngay ngưỡng cửa nhà bếp, hai tay chống hông, mặt mày cau tít. Đôi mắt mẹ mệt mỏi quét qua toàn bộ khung cảnh… cho đến khi lướt đến Brooks và bừng sáng. “Zane,” bà vừa nói vừa tiến tới, chân đá lon bia rỗng ngáng đường. “Khách của con là ai đấy?”
“À… dạ… đây là…”
Brooks tự giới thiệu bản thân, đưa tay ra như thể đã được học ở một trường tư sang chảnh nào đó.
“Rất vui được gặp cháu,” mẹ vừa nói vừa vén mấy sợi tóc lòa xòa ra sau tai, nở nụ cười cho ta cảm giác không gì trên thế gian này có thể bị phá hủy. “Thật ngại vì nhà cô bây giờ lộn xộn quá. Em trai cô chẳng khác gì một gã người rừng, không có chút tác phong gì cả.”
Cậu Hondo không nói gì. Cậu đang chờ giây phút mẹ bùng nổ.
Brooks bật cười nhẹ. “Không sao đâu ạ.”
Tôi có thể đoán là cô chẳng biết phải nói gì. Như vậy có ổn không? Sao cô ấy có thể đứng đó như không có gì, như thể đã quen với kiểu hỗn loạn này rồi vậy? Và hơn nữa, sao cô lại đứng đây? Làm sao cô ấy tìm ra tôi?
“Tụi con tính ra ngoài nói chuyện ạ,” cuối cùng thì tôi cũng mở lời được với mẹ.
Mẹ lắc đầu, vẫn cười thật tươi, tôi khá chắc đằng sau cái nụ cười cứng ngắc đó là một bài thuyết giảng về vụ tôi bị phạt ở trường. Vậy là nhà trường đã gọi cho bà. Thôi xong! “Ngày khác nhé,” mẹ bảo tôi, rồi quay sang Brooks, “Zane còn vài việc nhà chưa làm. Chắc cháu cũng hiểu. Hay là cháu quay lại vào hôm khác được không?”
“Mẹ à…” tôi toan cãi lại, nhưng bà liền sa sầm mắt. Cuộc trò chuyện kết thúc rồi.
Tôi tiễn Brooks ra ngoài để chào tạm biệt. Lúc ấy tôi mới nhận ra cô không có chiếc xe đạp nào đỗ ở ngoài. Nhà tôi cách thị trấn vài cây số, cô ấy tới đây bằng cách nào?
“Mai gặp tớ ở đây,” Brooks nói. “Sau giờ học. Sắp hết thời gian rồi.”
“Ý cậu là sao?” Tôi hỏi. “À, trước khi cậu đi, nói tớ nghe…
tại sao cậu lại vẽ hình con quỷ đó trên tập của cậu?”
“Cứ gặp ở đây nhé,” cô nói, đoạn chạy xuống con đường sỏi đất gập ghềnh. Tôi đứng bên hiên dõi theo mái tóc nâu dài bồng bềnh theo nhịp bước, đôi bốt chiến nện thình thịch xuống mặt đất khô cằn. Tôi không thể rời mắt khỏi cô, và khi bóng tối nuốt chửng giọt sáng cuối cùng của ngày, cô biến mất hệt như chưa từng tồn tại.
Giờ thì cậu Hondo lãnh đủ. Mấy ông chú kia đã bỏ về hết. Cậu ấy dỗi, còn tôi thì phải rửa chén dĩa tới cuối đời. Nhưng mẹ chưa bao giờ giận lâu cả, dù tôi có làm gì đi chăng nữa, nên tối hôm đó, mẹ lên phòng tôi để hỏi về thằng nhóc bị tôi bổ cho một gậy.
“Sao con lại làm vậy?”
Tôi gãi tai Rosie, ước rằng mình có thể quên hết mọi chuyện. “Nó húc con té.”
“Rồi con ném cây gậy vào nó.”
“Gần như là vậy ạ.”
Mẹ khẽ gật thông cảm, như thể bà hoàn toàn hiểu được hoặc tôi phải đứng lên, hoặc bị phù mỏ như lần trước. “Còn cô bé kia?”
“Con mới gặp hôm nay thôi. Ở trường.”
“Con kết bạn được là mẹ vui lắm,” bà bảo. “Con bé được đó, lại còn xinh xắn nữa.”
Mặt tôi nóng bừng.
Mẹ vỗ đầu Rosie. “Không phạm luật nữa nhé, Zane. Con có thể bị cắt học bổng đấy.”
Như vậy có lẽ sẽ tốt hơn, tôi nghĩ. Trừ việc mẹ đã phải làm lụng vất vả để có thể cho tôi theo học ngôi trường đó, tôi không muốn làm bà thất vọng.
Bà đưa tay ra. “Đồng ý không?”
Tôi bắt lại. “Dạ được.”
Ngày tiếp theo, vụ rớt máy bay đã lên trang nhất tờ báo địa phương. Thậm chí họ còn in hẳn tên tôi vào mục nhân chứng. Đám nhóc trên chuyến xe buýt hỏi tôi đấy có phải là một vụ người ngoài hành tinh xâm nhập như ở Roswell không, hay ở đó có máu me, ruột gan phèo phổi gì không. Tôi chỉ lắc đầu, cố không nghĩ về điều đó. Mà biết gì không? Tôi thích việc được làm tâm điểm cho một chuyện khác ngoài cái chân tật.
Tôi tìm Brooks khắp nơi trong trường. Từ hành lang, căn tin, đến phòng tập thể dục. Thậm chí tôi còn liều mạng thò đầu vào nhà vệ sinh nữ để gọi cô. Được thưởng hẳn một lốc giấy vệ sinh ẩm ướt vào mặt. Không tìm thấy Brooks ở đâu cả. Thế nên tôi tới phòng giáo vụ, hỏi cô thư ký chuyện gì đã xảy ra với cô gái ở đây hôm qua.
Cô dời mắt khỏi màn hình, chớp chớp mắt, khó chịu vì bị tôi làm phiền. “Cô gái nào?”
“Bạn ấy tên là Brooks. Bạn ấy ở đây để gặp thầy Baumgarten.”
“Cha Baumgarten.” Cô thư ký mím đôi môi mỏng dính lại, nhìn xuống màn hình vi tính. “Ở trường ta không có ai tên Brooks.”
Tôi nghiêng người qua quầy, tin chắc cô ta đã nhầm. Nếu như cô ta chịu chú ý tôi hơn chút…
“Cô ơi, cô kiểm tra lại giúp em với?” Tôi hỏi với thái độ lịch sự nhất có thể. Thậm chí tôi còn mỉm cười. Tôi nhớ lời hứa với mẹ. Không được phạm luật nữa. Không vướng vào rắc rối nào nữa. Thế làm phiền nhân viên trường có tính không nhỉ?
“Nghe này, tôi biết hết mặt mấy cô cậu trong trường này,” cô nói. “Ở đây không ai tên Brooks cả.”
Đừng làm vậy mà Zane. Đừng mà. Nhưng miệng tôi nhanh hơn não. “Thế em tên là gì ạ?”
Cô ta lặng người nhìn tôi. Nhưng tôi không chỉ dừng lại ở đó. Ồ không, tôi phải chốt hạ cú cuối mới chịu. “Cô bảo cô biết hết tên học sinh trong trường. Vậy em tên là gì?”
Cô đẩy ghế đứng lên, chậm rãi tiến về phía tôi như muốn dọa tôi toát mồ hôi, hoặc muốn cho tôi cơ hội bỏ chạy. Nhưng tôi vẫn đứng yên đó, tiếp tục mỉm cười.
Vài giây sau thì tôi chẳng cười nổi nữa khi bị bắt viết hai mươi lần câu Kính chào Đức mẹ Maria xuống giấy ghi chú.
Trưa đó, ông O đón tôi sau giờ phạt, do xe đưa rước không chờ đám học sinh phạm quy. Ông lái chiếc Cadillac cũ, loại động cơ V8 ngốn xăng ấy. Chiếc xe đen bóng, nhìn như xe của người làm dịch vụ mai táng, nhưng ông rất quý nó. Khi tôi vào trong xe thì ông ấy đang gân cổ hát theo bài tình ca tiếng Tây Ban Nha nào đó trên đài, cứ lặp đi lặp lại từ amor8. Cửa sổ hạ xuống, một đám nhóc đứng trong ngõ cười ồ lên.
8. Tình yêu (tiếng Tây Ban Nha).
Ông O đang lạc trôi trong xứ sở amor nên cũng chẳng để ý. Còn tôi ư? Tôi nhắm tịt mắt, tưởng tượng cảnh mình đấm rụng răng cái đám ngoài kia.
“Bà Cab đã đồng ý hẹn hò với ông rồi hay sao vậy?” Tôi hỏi khi cả hai ra tới đồng trống.
Ông cười toe toét. “Chưa. Nhưng ông sắp sửa chia sẻ công trình nghiên cứu với cháu được rồi.”
Ông O có một nhà kính nhỏ ở sân sau nhà, trong đó trồng đủ loại ớt khác nhau. Ông đang theo đuổi một công trình tuyệt mật gì đấy không thể cho tôi hay, nhưng có hứa rằng sẽ cho tôi biết đầu tiên. Phải thừa nhận là tôi rất tò mò.
“Sắp là chừng nào ạ?” Tôi hỏi.
Ông O ném nhẹ một cái nhìn bóng gió tinh nghịch, nhướn nhướn cặp mày rậm. “Tối nay.”
Khi chúng tôi về đến nhà, Brooks đang ngồi ở hiên trước, cầm một nhánh cây vẽ vẽ gì đó xuống cát. Cô lại đóng cả cây đen, nhưng lần này là một chiếc quần jeans và áo len cổ rộng. Trái tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. (Lưu ý nhé các ông-thần-bà-thánh-trên-kia: Chớ có để cô ấy đọc được cái này đó.)
“Amiga9 mới hả?” Ông O hỏi.
9. Bạn (tiếng Tây Ban Nha).
“Người quen thôi,” tôi nói như đó là lẽ thường tình, đưa tay vuốt tóc. “Cảm ơn vì đã đón cháu ạ. Hẹn gặp ông tối nay.” Tôi nhảy xuống xe, đi đến chỗ Brooks.
Brooks đứng lên, nhìn tôi với vẻ mặt nghiêm túc chết người. Khi cô ấy làm vậy, những vệt hổ phách trong con ngươi lại lấp lánh. “Cậu đang gặp nguy hiểm đó Zane. Nguy hiểm lớn,” cô vừa nói vừa ném nhánh cây xuống đất.
“Ờ, chào cậu.”
“Vụ rơi máy bay đó, nó là một…” Cô ngập ngừng, đôi mắt nhìn lên bầu trời ngả tối như để tìm từ thích hợp. “Một loại…”
“Quỷ đến từ Xib’alb’a?”
Cô ấy lộ vẻ ngạc nhiên trong một thoáng, nhưng rồi nhanh chóng lấy lại vẻ điềm tĩnh ban đầu. “Đúng. Nhưng không chỉ có vậy.”
Nghe cô xác nhận điều không thể ấy làm bụng tôi chùng xuống. Vậy là tôi không bị ảo giác…
“Làm thế quái nào nó nhét vừa người vào chiếc máy bay đó, huống chi là lái nó? Có trường nào cấp bằng lái máy bay cho quỷ sao?”
Cô nhìn tôi kiểu cậu-trên-trời-rớt-xuống-à? “Chuyện đó không có quan trọng.”
“Có cái gì quan trọng hơn được chứ?” Brooks rên lên ức chế. “Cậu đang gặp nguy hiểm thì thế nào?”
“Ừ cậu nói rồi, tớ đại loại cũng hình dung được điều đó khi con quỷ đâm vào ngọn núi lửa của tớ.” Tôi đá một hòn sỏi trên nền đất.
“Núi lửa của cậu?”
“Ừ. Trong trường hợp cậu chưa nhận ra, nó nằm ngay sân sau nhà tớ và tớ là người…”
Cô nhướn mày. “Người gì?”
Tôi chưa sẵn sàng tiết lộ cho cô ấy cái lối đi bí mật. Phải chờ xem cô biết gì đã.
“Mà sao cậu lại nói dối?” Tôi vặn lại. “Cậu đâu có học ở trường tớ?”
“Tớ nói thế bao giờ.”
À, hợp lí. “Vậy sao lúc ấy cậu ngồi trước văn phòng Cha Baumgarten?”
“Tớ vừa bảo cậu rằng cậu đang gặp nguy hiểm và cậu chỉ nghĩ tới thầy hiệu trưởng thôi hả?”
Cơ bản mà nói, tôi đang nghĩ về cô ấy ở trong văn phòng hiệu trưởng. “Rốt cuộc thì cậu từ đâu tới vậy?”
Dưới ánh sáng tờ mờ, tôi có thể thấy mũi Brooks phồng lên. Cô có sáu đốm tàn nhang dọc sống mũi. Cô đanh hàm, hít một hơi thật sâu ngụ ý cậu-làm-phiền-tớ-quá-đi.Tôi thừa biết kiểu nhìn đó. Tôi đã quá quen với sự xuất hiện của nó trên vô vàn gương mặt lướt qua cuộc đời ngắn ngủi của mình, nhưng chưa bao giờ là vấn đề cho tới lúc này. Bởi vì hiện tại là Brooks. Tôi vẫn chưa thể tin nổi cô gái xinh xắn này lại đến nhà tôi. Hai lần trong hai ngày liên tiếp.
“Lúc nào cậu cũng phiền như cái đài vậy hả?” Cô vừa nói vừa khoanh tay lại. “Tớ đang cố nói cho cậu một vấn đề quan trọng…”
Tôi cố giữ cho mình không tựa vào cây gậy. Tôi thà bị cho là phiền nhiễu còn hơn là dị biệt. “Rồi rồi, trở lại vấn đề con quỷ đó. Bức vẽ của cậu hệt như thứ tớ nhìn thấy. Cậu thấy nó ngoài đời thực bao giờ chưa?”
“Rồi. Thì sao?”
“Mẹ tớ không nhìn thấy nó.” Tôi không rõ mình nên cảm thấy nhẹ nhõm (vì không bị loco10) hay hoảng loạn (rằng con quỷ đó có thật). “Nhưng nếu cậu cũng thấy được tớ không hề bị mất trí.”
10 Điên (tiếng Tây Ban Nha).
“Mất trí… Ờ,” cô nhại. “Việc này khó hơn mình tưởng đây.” Brooks nhìn qua sau vai. Ánh sáng từ tivi hắt qua khung cửa sổ mở. Cậu Hondo lại xem đô vật. Tôi có thể nghe thấy tiếng càu nhàu xen lẫn rên rỉ và cả tiếng cơ thể đập rầm rầm xuống sàn.
Brooks hạ giọng. “Hay chúng ta ra chỗ khác nói chuyện đi?”
Tôi không hiểu vì sao cô lại căng thẳng như vậy. Hai đứa đang đứng giữa đồng không mông quạnh, không một bóng người. Cô ấy nghĩ rằng ai có thể nghe lén được nữa, FBI sao?
“Trước hết thì cậu hãy cho tớ biết về con quỷ phi công, và định nghĩa chính xác từ nguy hiểm đi,” tôi khăng khăng. “Kiểu như cậu-sắp-chết-đến-nơi-rồi, hay kiểu sắp-có-bão-ập- đến?” Tôi thầm mong đó là vế sau.
Đấy là một sự mạo hiểm. Cô có thể sôi máu, vung tay lên rồi bỏ đi. Nhưng nhẹ nhõm thay, cô vẫn bình tĩnh đứng đó, cân nhắc xem phải nói cái gì. Hoặc nói bao nhiêu, vì trông Brooks như kiểu người có hàng triệu bí mật ấy.
“Chắc là nên cho cậu xem tận mắt,” cô bảo, “bởi vì những gì tớ cần kể với cậu… à thì, cậu quá nửa sẽ không tin đâu. Nhưng cậu phải hứa không được phát hoảng nhé.”
Một khi có ai bắt ta hứa không được phát hoảng thì đó chính là lúc nên phát hoảng. Cả hai băng qua cánh cổng dẫn vào sân sau. Mừng là mẹ không có phơi đám đồ lót của tôi ngoài này. Như vậy thì nhục chết được.
Nghe bọn tôi rẽ qua góc, Rosie khẽ ngước gương mặt ngái ngủ lên khỏi nền cỏ rậm rạp, đột nhiên tỉnh hẳn. Đôi mắt nó khóa chặt vào Brooks với một tia tập trung đáng sợ, tích tắc sau, Rosie phóng về phía chúng tôi, sủa như điên.
“Nào, Rosie,” tôi vội nói, bước ra chắn trước Brooks. “Bình tĩnh nào!”
Nhưng Rosie như bị nhập vậy. Con chó cơ hồ biến đổi hoàn toàn-một con quái vật đói khát, gầm gừ, miệng sùi bọt mép.
Brooks phía sau siết chặt vai tôi như gọng kìm. “Cậu không hề nói là nhà cậu có chó!”
“Cậu có hỏi đâu!”
Rosie đứng cách bọn tôi chưa đầy một thước, gầm gừ theo cái kiểu tôi chưa nghe thấy bao giờ. Lớp lông dọc sống lưng dựng đứng, chĩa ra nhọn hoắt. Ai mà ngờ nó có răng nanh dài như thế chứ?
Tôi lùi lại bảo vệ Brooks, thế rồi một điều không tưởng bỗng xảy đến. Một làn khí bất ngờ lướt qua tôi. Ngoái đầu lại, Brooks đã biến mất.