• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Từ ngày em đến
  3. Trang 16

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 28
  • Sau

Chương 13

Callum

Những cánh cửa kính phía Đông trong phòng ngủ ở ngôi nhà bãi biển dẫn thẳng ra hàng hiên nhìn ra biển. Thế có nghĩa là cả ngày lẫn đêm lúc nào cũng có gió mát, nhưng đồng thời từ sáng sớm đã có những đọt nắng dễ dàng rót vào phòng. Rõ ràng hướng của ngôi nhà là kẻ thù của người có thói quen ngủ nướng.

Tôi thức giấc ngay khi ánh mặt trời tràn vào phòng, nhưng Lilah vẫn tiếp tục ngủ và tôi thích thú với việc chúng tôi đổi vai nhau. Nàng nằm ngửa, tay lót dưới gối và hai khủy tay xòe ra hai bên. Tôi ngắm Lilah ngủ một lúc và lắng nghe tiếng thở đều đều của nàng và tự hỏi liệu đây có phải chiếc chìa khóa bí mật mà lâu nay tôi cất công tìm kiếm để giúp Lilah được nghỉ ngơi. Tôi chỉ cần đưa nàng về nhà là được.

Lilah ngủ cho đến tám giờ và vì ở Manly nàng thường ra khỏi giường và làm gì đó lúc khoảng sáu giờ, nên như thế này là ngủ nướng quá mức. Và ngay cả khi đã ra khỏi giường, thay vì thực hiện tốc độ một-triệu-dặm-một-giờ để đảm bảo hiệu suất, Lilah lại thong thả pha cà phê rồi ngồi vào bàn, trên người mặc độc một chiếc sơ mi của tôi. Rồi, trước sự sửng sốt của tôi, nàng ngồi đọc linh tinh gì đó giải trí lần đầu tiên kể từ khi tôi gặp nàng, cho dù đó chỉ là tin tức trên chiếc iPad nàng mang theo.

“Sáng nay không làm việc à?” Tôi hỏi. Nàng nhướng mày nhìn tôi.

“Cuối tuần mà.”

“Em lúc nào chả làm việc cuối tuần.”

“Ở đây thì không.”

Sau một lúc, Lilah mặc vào chiếc T-shirt rộng thùng thình và quần soóc và tết tóc thành một đuôi sam. Có một thứ ánh sáng đặc biệt ở Lilah tại nơi này và trông nàng rạng rỡ và phấn khích.

“Leon và Nancy muốn gặp anh đấy; họ mời bọn mình ăn sáng.”

“Em kể với người làm của mình về anh, còn mẹ thì không sao?”

“Thì cứ đi thay đồ đi,” Lilah cười toe. “Anh sẽ mến họ cho mà xem.”

Chúng tôi ra khỏi lối đi vào nhà và băng qua đường đến ngôi nhà gạch nhỏ nơi Leon và Nancy cư ngụ. Họ chào Lilah từ hàng hiên trước hệt như nàng là một thành viên gia đình bị thất lạc đã lâu.

“Lilah, gặp lại cháu vui quá.” Leon đi xuống những bậc tam cấp bằng xi măng để ôm chầm lấy nàng. “Chắc đây là Callum rồi.”

“Chào bác.” Tôi bắt tay và đôi mắt xám của ông sáng lên lấp lánh.

“Rất vui được gặp cậu. Bạn của Lilah là bạn của chúng tôi. Nhưng, trời đất, làm ơn cho tôi biết là cậu ăn thịt lợn muối xông khói và trứng đi.”

Tôi bật cười và nháy mắt với Lilah. “Phải như vậy chứ.”

Nancy mặc quần kaki rằn ri ngụy trang với sơ mi sát nách và tôi không biết là bà cố ăn mặc giống thiếu niên hay đây là loại trang phục dành cho những người làm. Những nếp nhăn vì sương gió trên khuôn mặt rám nắng của Nancy cho thấy bà suốt ngày ở ngoài trời.

“Đừng lo, Lilah. Bác sẽ làm bánh ngô cho cháu.”

“Cảm ơn, Nancy.”

“Chúng tôi trồng nấm dưới nhà.” Nancy giải thích, dẫn chúng tôi đi dọc theo hành lang đến cửa trước. “Họ nói rất đúng: mình phải đối xử với chúng như đức ông chồng ấy.”

“Như đức ông chồng?” Lilah hỏi, dù tôi nghi nàng biết ý Nancy là gì.

“Ý bà ấy là trồng chúng trong tối và cho chúng ăn phân.” Leon thở dài, nhưng tiếng thở dài của ông gần như là hài lòng, như thể đây là một chuyện cười được yêu thích suốt hàng thập kỷ.

“Nếu trồng chúng bằng phân chuồng, ta có biến chúng thành đồ không chay không?” Tôi hỏi. Leon và Nancy bật cười. Lilah nhướng mày nhìn tôi.

“Ồ, anh giờ là người ăn chay trường rồi sao?”

“Này, nếu gặp may anh có thể ăn cả nửa con lợn đấy. Đừng gọi anh là người ăn chay. Anh chỉ cẩn thận giúp em thôi mà, Ly.”

“Tôi thích cậu rồi đấy, cậu Callum,” Leon nói khi mời tôi ngồi vào bàn ăn tối bằng gỗ tếch cán mỏng. Những chiếc ghế bằng nhựa vinyl và thảm nâu lốm đốm. Tôi có cảm tưởng như được quay trở về ngôi nhà thời thơ ấu của mình, mà có lẽ đó là lý do tại sao việc Leon dùng từ ‘cậu’ không khiến tôi thấy lạ lẫm. “Tôi đoán là cậu không phải là một nhà môi trường như Lilah nhà chúng tôi.”

“Cháu làm việc ở phía đối lập với chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Cháu giúp các nhà môi trường có công ăn việc làm bằng cách nuôi các công ty lớn nhưng không biết làm thế nào để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.” Tôi nói. Trông ông ngớ ra, tôi bèn giải thích, “Cháu làm trong lĩnh vực quảng cáo.”

“Thú vị nhỉ.” Nancy đã vào nhà bếp và tôi nghe tiếng lách cách và kêu vù vù của bếp ga đang cháy. “Leon từng làm việc ở công ty trước khi chúng ta nghỉ hưu.”

“Thật sao?”

“Ừ, tôi làm giám đốc quản lý cho một hãng sản xuất. Ôi trời, thời đó hàng tiêu dùng lâu bền dùng cả đời không hư,” ông chép miệng và đứng lên. “Trà hả? Hay cà phê?”

“Cà phê ạ. Thế bác làm gì, Nancy?”

“Tôi ấy hử? Ồ, chỉ ở nhà chăm sóc bọn trẻ thôi.”

“Chỉ.” Leon lặp lại. “Ừ, Nancy chỉ ở nhà với năm đứa trẻ trong khi tôi đi làm. Để tôi nói cho cậu biết, tôi chỉ phải làm việc bốn mươi tiếng mỗi tuần so với bà ấy.”

“Năm đứa?”

“Và tính đến giờ chúng tôi đã có mười một đứa cháu và năm đứa chắt; tôi tin là số lượng sẽ còn tăng lên nữa.” Nancy đang bận với chiếc chảo rán, nhưng bà hất một bên vai về phía một điểm mơ hồ đằng sau mình. “Có một tấm ảnh treo ở kia kìa.”

Tôi liếc mắt qua Lilah đến một bức ảnh đóng khung ở chính giữa bức tường phòng ăn. Đứng chính giữa biển người, Leon và Nancy tươi cười rạng rỡ. Tôi nhìn từ những người con tuổi trung niên của họ và bạn đời của mình đến những nụ cười rộng miệng của thế hệ trẻ hơn.

“Chà.”

Tôi tự hỏi không biết mình sẽ cảm thấy thế nào khi nhìn vào một khung ảnh treo tường và thấy toàn bộ di sản cuộc đời mình trong đó. Tôi nhìn Lilah và nhận thấy nàng đang đăm đăm nhìn lại tôi. Khi tôi mỉm cười, nàng nhìn lảng đi và tôi thắc mắc không biết nàng đang nghĩ gì.

“Thời chúng tôi có gia đình dễ dàng hơn. Thanh niên các cậu ngày nay tính đến chuyện có con thì cố gắng để có; còn chúng ta thì dùng gần như toàn bộ cuộc đời mình cố để không có và thỉnh thoảng thất bại.”

“Thôi nào, Nancy,” Lilah rốt cuộc cũng lên tiếng. “Cháu có cảm giác cả đời bác chưa từng làm bất kỳ chuyện gì mà không suy tính trước.” Nàng liếc nhìn tôi. “Đừng để bà già đáng yêu này đánh lừa nhé, Cal. Nancy là một trong những người thông minh nhất em biết đấy.”

“Bác nghe hết rồi đấy nhé,” Leon vờ tự ái.

“Và Leon là một trong những người thông minh thứ nhì mà em biết,” Lilah nháy mắt với ông.

“Thế tốt hơn đấy.”

“Một hay hai quả trứng đấy, Callum?” Thịt lợn muối xông khói đã bắt đầu kêu xèo xèo và mùi muối đượm nồng đến mức tôi cảm thấy gần như tôi có thể no nhờ việc ngửi nó thôi.

“Một ạ.”

“Trứng gà nhà đấy,” Leon nói. “Nuôi thả tự do. Cậu chưa từng ăn trứng nào ngon đến thế đâu. Nancy tự tay cho bọn chúng ăn đấy.”

“Làm sao bác có thời gian để tự tay cho gà ăn trong khi bận chăm sóc khu vườn rộng bên kia đường?” Tôi hỏi.

“À, thời nay vườn tự chăm sóc lấy nó mà,” Leon bảo. “Ý tôi là, chúng tôi chỉ dành vài giờ chỗ này chỗ kia xén tỉa hoặc nhổ cỏ hoặc đại loại như vậy, nhưng chúng tôi không nề hà gì mấy việc đó và chúng tôi kiếm được nhiều tiền từ việc bán rau quả ngoài chợ nông sản. Chúng tôi thu được nhiều hơn cả Lilah nữa kia.”

“Vâng, cháu thua thiệt,” Lilah phì cười. “Hai bác dành hàng giờ mỗi ngày chăm sóc khu vườn, còn cháu vài tháng tạt qua một bận vào cuối tuần và chất đầy rau củ tươi lên ô tô. Thật tội nghiệp cho cháu.”

“Khu vườn giúp chúng tôi trẻ ra đấy,” Nancy nói. “Nếu không có nó chắc chúng tôi cũng già nua héo hon cả rồi. Hai bác từng tự hỏi sao ông bà cháu lại có thể sống lâu đến như thế, Lilah ạ. Có lẽ đất nơi đây có phép màu.”

“Có thể là do chế độ ăn uống hợp lý và hàng giờ tập luyện tích cực đấy chứ.”

“Bất kể thế nào, hai bác biết ơn về điều đó. Hai bác sẽ dành dụm đủ tiền để trả tiền trọ và học phí đại học cho Zach.”

“Zach là cháu trai của hai bác ạ?” Tôi hỏi.

“Nó sẽ trở thành bác sĩ. Nó bảo sẽ đi làm ở châu Phi khi có bằng,” Leon đẩy hai cốc cà phê ra trước cho tôi và Lilah.

“Nó nhất định sẽ làm vậy,” Nancy bổ sung. “Thằng bé nghĩ về chuyện đó suốt.”

“Ngoài vườn có gì đấy, Leon?” Lilah hỏi.

“Dâu tây năm nay ra quả rồi đấy; rất nhiều luôn. Rau xà lách cũng ăn được rồi; chờ nếm dưa chuột mùa này nhé, ngọt đến mức có thể dùng làm đồ tráng miệng được đấy.”

“Nghe thèm nhỉ.”

“Tuần trước chúng ta mang hoa bí ra chợ bán và thu được kha khá tiền,” Nancy nói thêm. “Bọn trẻ với những kiểu đầu ngớ ngẩn và quần áo lỗi thời xì xầm ai lại ăn hoa chứ? Tôi nghĩ đó không phải là điều đáng bận tâm.”

“Cháu ăn hoa suốt đấy thôi,” Lilah nhấn mạnh.

“Đó là chuyện khác: cháu chỉ ăn một ít thứ, cháu được quyền tận dụng chúng hết mức có thể. Ít nhất cháu sẽ không nhồi chúng với cây diêm mạch và gan lợn hoặc vài thứ linh tinh đại loại thế.”

Lilah nhăn mặt.

“Hừm, cháu cảm thấy tiếc cho hai bác và món thịt lợn muối xông khói đầy mỡ và muối dở òm của bác,” Lilah khịt mũi.

“Anh sẽ thông cảm cho em miễn là anh sớm được ăn một ít thịt lợn xông khói đó,” tôi nói.

“Không lâu đâu, Callum,” Nancy trấn an tôi. “Chúng ta sẽ ăn thật đẫy và dẫn hai đứa ra thăm vườn. Và hy vọng là cậu thích ở đây.”

Lilah đã đi giày làm vườn bằng nhựa đến nhà Leon và Nancy, nhưng ngay khi chúng tôi băng qua đường và trở về khu vườn của nàng, thì Lilah cởi phăng giày ngay. Tôi mở miệng định nhắc về nguy cơ mu bàn chân bị cháy nắng hoặc bị thương bởi đá sỏi hoặc thứ quái quỷ gì nữa trong vườn mà có Chúa mới biết, thì nàng nhướng mắt nhìn tôi.

“Anh thua.”

“Chứ còn gì nữa,” nàng cười toe. “Nếu không thể đánh bại thì hãy gia nhập đúng không?” Leon gợi ý.

“Bàn chân của Callum mềm và mỏng đến mức chỉ cần đi trên sàn gạch thôi là anh ấy khóc thét lên rồi.” Lilah cầm tay tôi khi trêu.

“Sự khác biệt làm cho những mối quan hệ thú vị.” Nancy đi trước chúng tôi một quãng ngắn, cứ như thể bà đang thực hiện một sứ mệnh trọng đại gì vậy. Leon ở đằng sau chúng tôi, đi thong thả và thỉnh thoảng săm soi những chiếc lá hoặc nhặt lên những mảnh vỏ cây nằm rải rác. Tôi tự hỏi làm thế nào hai người có mặt cùng một nơi tại một thời điểm để gặp được nhau. Khi chúng tôi đi lang thang quanh khu vườn và xuyên qua vườn cây ăn trái, tôi dừng lại thắc mắc và bắt đầu lấy làm lạ. Leon và Nancy không ngớt hoàn thành câu nói của nhau và chuyển từ bất đồng gay gắt sang tiếng cười sảng khoái trong tích tắc. Mới căng thẳng vì khác biệt đó, thoắt cái chuyển sang thoải mái vì giống nhau và cứ thế như quả lắc đu đưa qua lại. Leon và Nancy cùng nhau hình thành một tấm ghép mosaic, mỗi mảnh cuộc sống của họ phản ánh sự thỏa hiệp, sự thương thảo, sự ấm áp, tình cảm nồng nàn và nói chung làm nên bức tranh về một mối quan hệ lạ thường nhưng ấn tượng.

Tôi mang theo máy ảnh suốt cả buổi sáng và rốt cuộc bắt đầu bấm vài bức. Tôi cố tập trung vào khu vườn, nhưng ba người đi cùng cứ khiến ống kính máy ảnh hướng về phía họ. Tôi chụp lén Leon phủi một chiếc lá rơi xuống vai Nancy và Nancy ôm Lilah một cách tự nhiên khi họ nhớ về quãng thời gian nàng bị mắc kẹt trên đọt cây hồ đào khi còn là một cô thiếu niên.

“Leon và ông của Lilah đang tính có nên gọi thợ chữa cháy đến không thì Lilah quyết định đã ngán ở trên cây và tụt xuống như thể nó chẳng là gì. Chuyện ấy xảy ra không lâu sau khi cháu đến sống tại đây, Lilah và cháu đang nhận thấy rất khó để hòa nhập với trường học. Nếu trước đó tóc ông bà cháu chưa bạc thì vì lo lắng cho cháu mà cũng bạc trắng rồi.” Nancy lắc đầu. “Nhưng suy cho cùng, chúng ta biết cháu sẽ gặp rắc rối ngay ngày cháu sinh ra. Chẳng đứa trẻ sơ sinh nào nên có tóc đỏ đến vậy cả.”

“Vâng, vâng. Đả đảo tóc đỏ,” Lilah thở dài. “Tóc của cháu đỏ thua xa bác đấy, bác ngỗng già.”

Họ ôm nhau dễ dàng bất chấp những lời nói châm chọc. Tôi vội bấm một bức hình.

“Đừng có nghĩ tôi không biết cậu chụp ảnh tôi đấy nhé, Callum. Tôi ăn mặc không tươm tất thế này thì chụp choẹt gì,” Nancy nhướng mắt nhìn tôi. “Thế này nhé, mỗi bức ảnh có giá là một giờ làm việc trong vườn và tôi sắp sửa đòi nợ cậu đấy.”

“Làm ơn đi. Cháu rất muốn hai tay lấm đất rồi này.”

“Nhưng chân thì không,” Lilah bật cười và sức lan tỏa của tiếng cười ấy thật mãnh liệt.

“Được rồi hai đứa, đi nhổ cỏ vạt rau kia đi. Chúng ta cần hái quả để mai mang ra chợ bán nên sẽ gặp hai đứa sau nhé.”

“Đương nhiên rồi. Cảm ơn vì bữa sáng,” Lilah hôn lên má Leon và Nancy rồi nắm tay tôi. “Để coi anh làm được gì, người thành phố.”

Chúng tôi lặng lẽ làm việc bên cạnh một lúc lâu. “Vạt” rau rộng mênh mông, nhưng rõ ràng đã được chăm sóc rất cẩn thận và chu đáo. Cỏ dại mới mọc thưa thớt, tôi đoán cùng lắm là vài ngày. Khi nhổ chúng lên từ nền đất ẩm, tôi nghĩ về Leon và Nancy, họ khiến tôi liên tưởng đến cha mẹ mình.

“Nghe nói những điều cuốn hút anh lần đầu tiên ở một người sau đó sẽ trở nên gây khó chịu,” Lilah đột ngột lên tiếng. Nàng đang đứng dạng chân ngang qua một hàng cây con. Khi tôi ngước nhìn Lilah từ chỗ cỏ đang nhổ, nàng ngọ nguậy những ngón chân trong đất và giơ một bên chân bẩn về phía tôi và cười khanh khách.

“Điều đó đã khiến anh khó chịu từ lần đầu tiên gặp em đấy,” tôi quả quyết với nàng.

“Anh cũng có vài điểm gây khó chịu chứ không à.”

“Ồ, thế sao?” Tôi ném một ít cỏ dại vào Lilah và nàng vụng về túm lấy nó và thở dài khi nó đáp xuống lòng nàng. “Ít nhất anh không vụng về.”

“Vâng, vâng. Nhưng tóc anh không mọc.”

“Đương nhiên là nó mọc chứ.”

“Lúc nào cũng có độ dài giống nhau mà.”

“Anh thường xuyên đi cắt chứ sao. Các lọn tóc sẽ xoăn lên nếu anh để chúng mọc đủ dài.”

“Thường xuyên là bao lâu một lần?”

Tôi hắng giọng.

“Quan trọng lắm sao?”

“Hai tuần một lần?”

“Hàng tuần.” Đối diện văn phòng của tôi có một tiệm cắt tóc nhỏ và tôi đến đó vào giờ nghỉ trưa mỗi thứ Sáu và giữ thói quen đó suốt nhiều năm nay.

“Callum!” Lilah phì cười thành tiếng lớn. “Số lần anh cắt tóc năm nay còn nhiều hơn cả cuộc đời em nữa.”

“Anh chẳng gặp khó khăn gì trong việc chăm chút cho vẻ ngoài của mình cả.”

“Anh tẩy lông ngực, đúng không?”

“Quan trọng lắm sao?”

“Đương nhiên là không. Phải không?”

“Có thể.” Tôi vốn ghét lông ngực. Và lông lưng, nhưng nếu Lilah không để ý điều đó, tôi không định cho nàng biết.

“Em biết ngay mà!” Lilah ré lên, gần như thích thú. “Anh có bao giờ có cảm giác rằng em đóng vai đàn ông trong mối quan hệ này không?”

“Ý nghĩ này thoáng qua đầu anh hơn một lần. Tuy nhiên, anh không nghĩ em rập khuôn như vậy.”

“Anh cũng làm móng và dưỡng da đúng không?” “Không thường xuyên, nhưng có vài lần. Em chưa nghe nói đến metrosexual12 à? Anh chỉ chạy theo trào lưu thôi mà.”

12 Những người đàn ông dị tính luyến ái nhưng rất quan trọng hóa và chăm chút ngoại hình của mình.

“Sao cũng được miễn là anh thích, Cal.” Lilah vẫn còn cười tủm tỉm. “Anh có biết rằng anh gấp quần đùi và phân nhóm chúng theo màu và cũng làm y như vậy với vớ của mình không?”

“Như người bình thường thôi.” Tôi biết Lilah đang chế giễu tôi, nhưng tôi thích điều đó, chủ yếu là bởi Lilah tình cờ nhắc tôi nhớ nàng biết cuộc sống của tôi rõ đến thế nào.

“Đâu có bình thường, Callum. Quá kỹ tính luôn. Theo như em thấy, anh cũng sắp xếp giày của mình, theo thứ tự mức độ trịnh trọng.”

“Đúng ra là theo thứ tự yêu thích.” Tôi bất ngờ vì nàng để ý chi tiết đến mức ấy. “Em đã rình mò khi ngủ lại chỗ anh đấy à?”

“Em đâu có cần rình mò. Nó cứ rõ ràng ra ngay trước mắt thế mà, anh đâu có tủ tiếc gì đâu.” Lilah nói đúng. Tôi thực sự cần phải làm cho xong cái tủ quần áo, nhưng việc hoàn thành mấy cánh cửa tủ khiến tôi nản chí. “Và, đương nhiên, anh dành nhiều thời gian để chuẩn bị sẵn sàng hơn em. Cho dù tóc em dài hơn tóc anh ít nhất là năm mươi lần và số lần tăng lên mỗi ngày, vì em không bao giờ cắt tóc còn anh thì cắt quá thường xuyên.”

“Đây có phải là lời than phiền chính thức hay em chỉ muốn anh xuề xòa?”

Lilah phì cười và nhún vai.

“Em đâu có than phiền. Chỉ có điều anh không nghĩ thật thú vị khi chúng ta có vẻ như hợp nhau ở vài khía cạnh và khác biệt nhau ở vài khía cạnh khác hay sao?”

“Chúng ta cũng giống nhau nhiều mà.” Tôi đứng lên và cong lưng, mà lưng cũng đã bắt đầu đau rồi, chỉ là tôi không thừa nhận thôi. “Cả hai chúng ta đều thành công và tập trung vào sự nghiệp của mình, cả hai đều làm việc chăm chỉ, cả hai đều không giao du nhiều. Cả hai đều chọn sống cùng thành phố, thậm chí cùng ngoại ô. Chính những điều khác biệt làm nên sự thú vị và những tương đồng giúp chúng ta tìm thấy nhau.”

Lilah lại rơi vào im lặng khi nàng dừng việc nhổ cỏ và cầm lên cây kéo. Nàng đi vẩn vơ chỗ này chỗ kia xuyên qua luống rau, cắt nhiều loại để làm món salad. Khi quay lại chỗ tôi vài phút sau, Lilah ôm đầy rau.

“Anh có nghĩ chúng mình có một sự hòa quyện tuyệt vời những điều giống và khác nhau không?”

Tôi bất ngờ trước câu hỏi nhạy cảm đó. Lilah đã quệt tay lên má và lưu lại một vệt đất trên đó. Tóc nàng đã được cột bổng lên nhưng nó bắt đầu bết lại dưới cái nóng bức. Tôi chần chừ một giây trước khi chùi đôi tay bẩn lên quần jean sạch và cầm máy ảnh lên. Lilah mỉm cười ngượng ngập trong khi tôi bấm vài bức ảnh. Khi cất máy ảnh lại vào trong hộp, tôi cố giữ giọng mình thật nhẹ.

“Anh thực sự không thể hình dung có sự hòa hợp nào tuyệt vời hơn thế.”

Sau khi nhổ cỏ xong và ăn món salad tươi ngon từ những loại rau Lilah hái được, chúng tôi lui về để ngủ trưa một cách lười nhác ngoài hiên. Mới đầu nghe Lilah gợi ý, tôi ngớ người. Nàng gần như không ngủ vào ban đêm, chứ đừng nói gì ban ngày.

Tôi sực nhận ra chuyến đi về Gosford đã giúp mình tìm ra vài cách để khiến nàng sống chậm lại và nghỉ ngơi nhiều hơn. Tôi hài lòng với bản thân, nghĩ về những tác động tích cực của nghỉ ngơi đối với nàng.

Tôi thỉnh thoảng lo lắng về Lilah. Tôi không biết chính xác nhưng tôi có cảm giác nàng đang trở nên kiệt sức. Sự nhân nhượng duy nhất tôi nhận thấy ở nàng đối với sức khỏe thể chất, trừ chế độ ăn uống khắt khe đến khổ hạnh, là cách nàng luôn cố gắng duy trì việc đi bộ hàng ngày. Có vài ngày Lilah làm việc từ bình minh đến hoàng hôn. Nàng thức rất khuya và vào giường sau tôi rất lâu. Và nàng ngủ chập chờn, cứ lăn qua lăn lại như thể ngay cả trong những giấc mơ nàng cũng không thể yên.

Nếu tôi có thể đóng băng một khoảnh khắc duy nhất trong mối quan hệ giữa hai đứa, thì đó sẽ là lúc chúng tôi nằm lơ mơ trên chiếc ghế mây ngoài biển. Cuộc nói chuyện của chúng tôi trở nên chậm hơn, nàng rúc vào tôi khi mí mắt nàng trở nên trĩu nặng, rồi hơi thở của nàng chậm lại đi vào nhịp điệu đều và sâu. Tôi ngủ lơ mơ, không thực sự ngon lành như Lilah, nhưng đó là bởi lúc ấy tôi quá kinh ngạc. Mái tóc đỏ mềm mại của Lilah phủ lên cánh tay tôi, mùi nước hoa của nàng phảng phất trong không khí và âm thanh của hơi thở nàng hòa điệu cùng sóng biển bên dưới. Tôi đắm chìm và say sưa với sự hiện diện của nàng. Tôi đã yêu Lilah.

Sự nhận thức đó không hề khiến tôi sửng sốt, dù đó là lần đầu tiên nó xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi yêu bố mẹ mình, tôi yêu hai em trai mình, có thể tôi cũng yêu công việc của mình. Nhưng điều này, điều này thì khác. Tình yêu đơm hoa giữa tôi và Lilah, thậm chí chỉ vỏn vẹn có vài tháng, khởi nguồn từ sâu thẳm con người tôi. Nó chắc chắn và thật như chính hành tinh này vậy.

Khi tôi ở độ tuổi hai mươi, cha thỉnh thoảng nói với tôi về việc ổn định cuộc sống. Ông lo cho tôi và đôi khi những cuộc tán gẫu có thiện ý của ông biến thành những bài thuyết giáo dài lê thê về việc mẹ thay đổi cuộc sống của cha nhiều đến thế nào. Tôi nghĩ – hy vọng – mình lễ phép, nhưng tôi rất chán ngán cách nhìn mang màu sắc cổ tích của ông về thế giới. Lúc đó, tôi đã quen đủ bạn gái để biết hệ thống đó vận hành như thế nào và những cảm xúc liên quan là gì.

Trước khi gặp Lilah, tôi chưa bao giờ hiểu sự quả quyết của cha rằng người bạn đời đúng nghĩa có thể khởi động của sống của tôi. Sau hàng chục năm gạt bỏ những quan điểm của ông về vấn đề này, tôi bỗng nhận ra rằng sau tất cả tôi rất giống cha mình. Hai cha con đều phải lòng một người rất nhanh và sâu đậm, cho dù tôi phải mất đến nửa đời mới gặp được người phù hợp và tự mình phát hiện ra điều đó.

Tôi tự hỏi liệu – khi nào – tôi có thể nói với nàng. Có lẽ vẫn còn nhiều tháng nữa hoặc nhiều năm nữa và có thể những lời nói sẽ nảy nở trong lòng tôi hàng ngàn lần rồi trở nên úa tàn và chết bởi Lilah cứ nhất định rằng chúng tôi cứ bên nhau thế này được ngày nào hay ngày nấy.

Từ chiều hôm đó trở đi dù Lilah có làm gì hoặc nói gì cũng không quan trọng. Nàng có thể đi chân trần suốt quãng đời còn lại và tôi yêu tha thiết đôi chân bẩn đến gớm chết của nàng.

Tôi đã yêu Lilah mất rồi. Rốt cuộc tôi cũng đã biết điều đó. Tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là không để vuột mất Lilah.

Tôi vẫn thắc mắc về người đàn ông châu Á trong những bức ảnh của Lilah từ đêm đầu tiên ở lại căn hộ của nàng. Thỉnh thoảng, khi nàng không để ý, tôi nhìn chằm chằm vào những tấm hình hai người chụp chung, cố tìm kiếm những chứng cứ về mức độ gần gũi giữa họ. Rõ ràng hai người có tình cảm với nhau, tôi kết luận và họ đã quen nhau đủ lâu để cùng nhau đi qua ba lục địa. Sau khá nhiều tuần nhìn chằm chằm vào anh ta, trông anh ta bắt đầu có vẻ quen thuộc và điều đó khiến tôi điên cuồng thắc mắc anh ta là ai.

Một đêm, Lilah ra ngoài ban công. Trời đã tối nhưng hôm ấy nàng đã mua một chậu cây mới và trông nó hơi héo nên nàng quyết định thay chậu. Tôi quan sát nàng làm việc xuyên qua tấm rèm mỏng khẽ lay vì cơn gió hiu hiu thổi. Tôi cũng đã cố xem lại thư điện tử nhận được ngày hôm đó trên laptop, nhưng công việc đó không làm tôi hứng thú. Tôi đứng lên để lấy một ly nước và trên đường quay lại ghế, khi đi ngang qua vài bức ảnh của nàng, tôi cố gợi chuyện làm như vu vơ.

“Có vẻ như em thường xuyên đi du lịch với người này nhỉ – bạn à?”

Lilah ngoái đầu để xem tôi nhắc tới ai, rồi quay trở lại chậu cây.

“Không. Người yêu.”

Lilah lẽ ra đã dừng ở đó, nếu tôi không ép. Tôi tiếp tục trở lại chỗ ngồi và cố giữ giọng nhẹ nhàng.

“Hai người quen nhau lâu không?”

“Chừng một năm.”

Tôi đợi nhưng Lilah lại im lặng. Cứ như là nhổ răng ấy.

“Và…”

“Và…?”

“Và… anh không biết nữa. Có gì không?”

“Anh ghen à?”

“Không. Chỉ tò mò thôi.” Đương nhiên là tôi ghen đến phát điên lên ấy chứ. Nhất là vì Lilah đã nói với tôi là hai người quen nhau đến những một năm và nàng thường nhảy dựng lên nếu tôi cố khiến nàng thừa nhận điều gì đó một tuần trước.

“Tên anh ấy là Haruto Abel. Bọn em quen nhau một thời gian, rồi anh ấy chết. Hết chuyện.”

Những lời nói của Lilah tác động vào tôi một lực khá mạnh. Nó không chỉ là sự sửng sốt, mà là cách nàng nói thản nhiên cho qua chuyện, như thể nàng hy vọng tôi không nghe thấy. Rồi anh ấy chết. Tôi đã định quay lại chỗ trường kỷ, nhưng thay vì thế, tôi dừng lại và nhìn nàng chăm chăm.

“Lilah, khỉ thật. Anh xin lỗi.”

Nàng so vai và phủi phủi hai tay trên chậu cây, rồi tưới nước cho nó. Tôi không thể không nghĩ rằng mình đang trò chuyện với cái lưng của nàng và không cách nào biết được điều đó khiến nàng đau buồn đến thế nào vì tôi không thể nhìn được mắt nàng.

“Ai rồi cũng chết mà, Callum. Đó là điều không mong muốn, nhưng cuộc sống là thế.” Nàng đặt bình tưới lên bàn ngoài ban công và xoay lại tôi. “Để em rửa tay rồi mình đi, tối nay em muốn ăn kem.”

“Khoan đã, Ly. Em không thể nói lưng chừng thế được. Người đó…” Tôi thậm chí không thể nói ra được từ đó. “Chuyện đó xảy ra khi nào?”

Lilah cau mày nhìn tôi.

“Cách đây khoảng năm năm. Em thực sự không muốn nói về chuyện này. Mình đi đi được không?”

“Nhưng… em thậm chí chưa từng nhắc đến người đó.” Tôi bối rối. “Làm thế nào mà một chuyện như vậy chưa hề được nhắc đến dù chỉ một lần khi ta nói chuyện? Bọn mình nói với nhau mọi chuyện mà.”

“Em vừa nói với anh chuyện xảy ra đấy thôi. Bọn em gặp nhau. Bọn em quen nhau. Anh ấy chết. Cuộc sống tiếp diễn. Tất cả thực sự chỉ có thế.”

“Nhưng…” Tôi nuốt khan và buộc mình tiếp tục, cho dù tôi không biết phải nói thế nào cho khéo. “Người ấy chết thế nào?”

“Em không muốn nói về chuyện này.” Giọng Lilah nghe căng thẳng hơn và nàng bước vào bên trong kéo cửa trượt đóng lại bằng lực hơi mạnh. “Nếu anh không dừng lại, có thể tối nay em sẽ đi bộ một mình đấy.”

Lilah đi thẳng ra cửa và tôi vội đặt ly nước xuống đuổi theo nàng.

“Nghe anh đã, Lilah, anh muốn hiểu thôi. Việc đó chắc rất kinh khủng đối với em, nhưng em thậm chí chưa từng nói đến tên người đó cho anh biết trước đây. Chẳng lẽ em không hiểu tại sao anh tò mò à?”

Lilah đóng sầm cửa lại sau lưng và tôi bị bỏ lại đứng chết trân trong căn hộ của nàng. Khi lấy lại đủ bình tĩnh, tôi đi đến bức tường treo đầy ảnh của nàng và nhìn lại những tấm hình nàng chụp chung với người đó. Họ đang ngồi trên sàn ăn mì, có lẽ ở Trung Quốc; mặc đồ ấm ngoài trời tuyết ở đâu đó; đứng trước một biển hiệu ghi Mexico City. Bức hình nào người đó cũng quàng tay lên vai Lilah và nàng mỉm cười.

Tôi nhìn kĩ hơn, kĩ nhất từ trước đến giờ và sau khi nhìn tới nhìn lui những tấm ảnh này, tôi nhận ra rằng ở Lilah có gì đó khác thường. Có sự uể oải trong đôi mắt Lilah. Có thể nàng đã đi lại suốt một thời gian dài hoặc có thể hai người không phải đi chơi tận hưởng cuộc sống như tôi tưởng, hoặc có thể thời gian làm phai màu bức ảnh và tôi đã nghĩ quá lên. Nhưng quả thực khi nhìn kỹ những tấm ảnh đó, tôi cảm thấy ở nàng ẩn chứa mối lo âu bản năng.

Nhìn Lilah lúc nào cũng thảnh thơi vô tư lự và làm việc hăng say khiến người ta dễ dàng kết luận rằng nàng đang ổn định về sức khỏe thể chất lẫn tinh thần. Nhưng tôi đã nhìn thấy những vết nứt trong vẻ ngoài của nàng, chỉ hiếm khi và nàng thường phản ứng với sự việc theo cách mạnh mẽ hơn là khóc lóc. Nhưng ngay khi phát hiện ra sự thiếu hụt ánh sáng lấp lánh trong những bức hình, trong tôi cồn lên một thôi thúc an ủi thay vì thúc ép nàng và tôi vớ chùm chìa khóa trên ghế băng lên chạy theo Lilah.

Gần đến quán kem tôi mới nhận ra rằng nàng không hề ở đó. Lilah gần như không thuộc tuýp người ăn nhiều khi căng thẳng hoặc buồn chán – Thực tế, tôi để ý thấy khi căng thẳng, nàng hầu như chẳng ăn mấy. Băng qua đường, tôi đi về hướng Bắc dọc theo bờ biển và không ngạc nhiên gì khi thấy Lilah ngồi trên cát ngay dưới khu văn phòng của nàng. Nàng ngồi bắt tréo chân và đang vốc từng nắm cát lên ngắm nó trôi qua kẽ tay.

Lilah không ngước nhìn lên khi tôi đến gần và tôi lẳng lặng ngồi xuống bên cạnh nàng. Những cơn sóng cuộn trước mặt chúng tôi và Lilah không nói không rằng xích sát hơn vào tôi. Đó là một lời xin lỗi và một lời cầu xin được an ủi và sự nhận lỗi của nàng. Tôi quàng tay lên vai Lilah và tựa đầu vào tóc nàng, đáp lại cuộc nói chuyện không lời của nàng bằng lời xin lỗi im lặng.

“Anh ấy bị tai nạn.” Lilah nói lí nhí khi nép vào lòng tôi. Nếu tôi không ôm chặt nàng, thì tiếng sóng đã nuốt chửng lời nàng mất rồi. “Ở Mexico. Họ chuyển anh ấy về lại đây, nhưng anh ấy hôn mê suốt nhiều tháng rồi qua đời. Em không thích nói về chuyện đó; em thậm chí không thích nghĩ về chuyện đó nếu em có thể tránh được.”

“Cảm ơn vì đã kể cho anh nghe.”

Đêm đó, tôi ngây thơ nghĩ mình đã nắm bắt được mọi chuyện. Trước đây và ngay cả bây giờ khi chúng tôi thống nhất duy trì một mối quan hệ ổn định, thì Lilah vẫn giữ bí mật phần nào về chính mình.

Cũng dễ hiểu khi Lilah không muốn ai biết nàng đã mất một người yêu như thế nào; riêng tôi cảm thấy hài lòng và tự mãn vì rốt cuộc đã hiểu nàng hơn. Lilah từng có một người yêu và người đó đã đi cùng nàng đến nhiều nơi, rồi nàng đã bị mất người đó một cách nghiệt ngã. Có thể nàng thậm chí thấy nó xảy ra, hoặc có thể nàng là người đầu tiên chứng kiến cảnh đó và đã cố cứu người đó. Có những khoảng trống lớn trong câu chuyện Lilah kể với tôi; tôi chỉ biết những chi tiết trần trụi nhất, nhưng sự tưởng tượng phong phú của tôi hoan hỉ lấp đầy chúng bằng vài khả năng – tôi nghĩ cảm nhận của mình đã kiểm soát tình huống.

Và trong khi nghiền ngẫm những điều mới phát hiện, tôi sực nghĩ rằng ở mức độ nào đó Lilah vẫn còn lưu luyến Haruto. Tôi nghe giọng nàng đôi khi đong đầy cảm xúc khi nói về người đó và tôi nhớ ruột mình đã cồn lên ghen tuông và thất vọng đến thế nào.

“Cuối cùng em cũng đã làm được,” Lilah lên tiếng sau một lúc.

“Làm gì?”

Lilah duỗi chân ra trước và cọ bàn chân trần lấm lem cát vào chân tôi.

“Em đã khiến anh đi chân trần ra biển.”