Callum
Trời cuối cùng cũng đủ ấm để đi lặn bằng ống thở và tôi dành gần như cả ngày bên Lilah ngoài vịnh Cabbage Tree ở bãi biển Shelly. Buổi sáng tôi đã phóng nhanh vào trung tâm mua sắm để mua một cái bọc dưới nước dành cho máy ảnh và rồi chuyến đi lặn bằng ống thở biến thành một sự kiện kéo dài cả ngày khi tôi nhận thấy thật không dễ chụp những tấm ảnh đẹp dưới nước và có bao nhiêu là thứ phải ngắm dưới ấy.
Kết quả là gáy tôi bị cháy nắng đến phát ghê và hai đứa lên giường sớm, nhưng chưa ngủ ngay mà cùng điểm lại những diễn biến trong ngày.
Trong phòng ngủ của tôi có một cửa sổ cao nhìn ra một ngọn đèn đường trắng mát trong con ngõ đằng sau. Cửa sổ treo rèm dày màu xanh sẫm, nhưng ban đêm những dải ánh sáng vẫn len lỏi vào phòng ngủ. Tôi nhìn chằm chằm xuống giường, săm soi tấm chăn màu trắng và xanh hải quân phủ lên hai cặp chân quấn vào nhau. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, bên dưới tấm chăn, chúng tôi trông như một thực thể.
“… con rồng biển gầy còm đó khi nó phóng ra đằng sau tảng đá – Callum, anh có nghe em nói không đấy?” Lilah đưa khuỷu tay huých vào tôi và vặn người để ngước nhìn tôi.
“Có chứ. Em đang nói về con cá ngựa gì đấy.”
“Anh đâu có nghe,” giọng nàng hờn dỗi. “Em đang nói về con cua anh nhặt được trong hồ đá cơ mà.”
“Lilah, anh có nghe em mà. Em đã nói xong chuyện đó cách đây năm phút. Khi em thúc anh là em đang nói về con cá ngựa ốm tong teo gì đó và anh đã suýt nữa chụp được ảnh nó như thế nào nhưng nó đã kịp bơi đi nấp sau tảng đá.” Toàn thân tôi ớn lạnh, một cảm giác đã trở nên quen thuộc. Khoảnh khắc lạ lùng này thật quen thuộc. Lilah sẽ nói hoặc làm gì đó rất kì quặc và tôi sẽ tự nhủ rằng có thể là nàng bị kiệt sức. Ít nhất lần này tôi đã có vài chứng cứ để bảo vệ ý kiến của mình. Nàng cũng bị cháy nắng như tôi và tôi cũng có cảm giác hơi khó chịu. Tôi cố thuyết phục bản thân rằng nàng chỉ hơi bị say nắng để xem như không có gì, “Em mệt lắm không?”
“Ồ. Đúng vậy,” Lilah nói, giọng nhẹ và thấp. Và ngay lúc tôi bắt đầu bớt căng thẳng, nàng nói thêm, “và chúng không phải là cá ngựa. Mà là rồng biển, một loài khác.”
“Ừ, anh sai rồi.” Tôi muốn nghi ngờ cách mình biết sắc thái và chuyển điệu trong giọng nói của nàng. Lilah vừa chỉnh khi tôi nói nhầm cá ngựa thay vì rồng biển, cứ như thể tôi chưa từng nhầm, nhưng kỳ thực là hôm nay nàng đã làm thế ít nhất là chục lần và giờ tôi chỉ muốn đùa với nàng một chút. Tôi chắc chắn trước đó nàng đã hiểu là tôi đùa. Nàng sẽ đảo mắt với tôi nhưng rồi cười khúc khích một chút và đó thực sự là lý do duy nhất tôi đã tiếp tục đùa với nàng.
Một lát trôi qua, tôi nghe Lilah thở sâu. Tôi tưởng nàng đã ngủ, cho đến khi nàng nói khẽ. “Anh nên về Gosford với em vào Giáng sinh.”
“Nhưng… còn đến mấy tuần nữa cơ mà.”
“Thì sao?”
“Vậy là bây giờ mình được lên kế hoạch trước cho các tuần hả?” Tôi lập tức cảm thấy nhẹ người; một niềm vui như thể có một luồng khí hê-li vừa lấp đầy bên trong. “Chắc anh bỏ lỡ điều gì rồi.”
“Em nghĩ là anh sẽ thích. Leon và Nancy thường đón con cái về chơi thời gian đó; rộn rã, bừa bộn, vui cực.”
“Nghe hay đấy. Cảm ơn em.”
“Thực ra em định nghỉ làm vài tuần. Em nghĩ… có thể anh cũng muốn nghỉ ngơi.”
“Thật sao?” Có thể cả hai chúng tôi đã phơi nắng quá nhiều và bây giờ tôi đang tưởng tượng ra mọi thứ.
“Ừ.”
“Nghe có vẻ…” Trong giây lát tôi chìm trong biển hạnh phúc. Một kỳ nghỉ với nàng? Điều mà một cặp yêu nhau nên làm. Thực ra đây là tín hiệu tích cực nhất. “Nghe tuyệt cú mèo đấy. Mình sẽ làm gì ở đó?”
“Chẳng làm gì cả.” Những lời nói được thốt lên chậm chạp; cơn buồn ngủ đã gần như chiếm lĩnh lấy nàng. “Tuyệt đối không làm gì.”
“Anh có thể chụp ảnh.”
“Hmm.”
“Và anh có thể giúp Leon và Nancy làm vườn. Họ sẽ thích lắm đấy, đúng không? Dù vậy họ sẽ phải hướng dẫn cho anh những công việc cần làm.”
Lilah không đáp gì; tôi cười tủm tỉm một mình và ngọ nguậy sửa thế nằm cho thoải mái. HR sẽ vui mừng khi tôi nghỉ phép và thời điểm cũng thực sự tuyệt vời. Ngoại trừ tiệc năm mới truyền thống của Tison với khách hàng, tôi chẳng bỏ lỡ thứ gì.
Kỳ nghỉ dài nhất tôi đã có trong suốt cuộc đời đi làm của mình là hai tuần khi cha mẹ qua đời. Thế nên lúc chúng tôi rời thành phố để bắt đầu một tháng bên nhau ở Gosford, tôi thực sự rất hồi hộp.
Tôi không biết những ngày đó sẽ như thế nào nếu không dính dáng đến công việc. Tôi biết Lilah có một vụ ở tòa chỉ vài tuần sau khi chúng tôi trở về, nên nàng có thể thỉnh thoảng làm việc chút đỉnh. Kế hoạch của tôi đơn giản hơn: tôi sẽ giúp Leon và Nancy làm vườn, thỉnh thoảng đọc một cuốn sách, chụp vài tấm ảnh và nói chung là chẳng làm gì. Và trong vài tuần đầu tiên, đó chính xác là điều tôi đã làm.
Tôi thức dậy sớm và làm chút việc ngoài vườn cây ăn quả với Leon và Nancy trước khi mặt trời lên quá cao. Quả hạch đang vào mùa thu hoạch; Leon và tôi hái trái chín và chất chúng vào những thùng xốp sẵn sàng cho phiên chợ đêm Giáng sinh, còn Nancy thì cắt tỉa cây trong vườn.
“Trước đây chúng ta thường chỉ xén tỉa vào mùa đông,” Nancy bảo tôi vào buổi sáng đầu tiên ngoài vườn. “Nhưng vì cây trở nên già hơn một chút, nên phải xén tỉa cả mùa hè. Chúng ta cần kiểm soát hình dạng của cây, để đảm bảo chúng không quá sum suê. Sum suê thì tốt nhưng cần được kiểm soát; chúng phải dành sức cho việc bói quả.”
Hóa ra xén tỉa cây cũng là một nghệ thuật và Nancy không ngần ngại hướng dẫn tôi làm “nghệ thuật.” Họ nhắm tới một cấu trúc nhất định và bằng việc cắt tỉa cây đúng chỗ, tuổi thọ của cây được đảm bảo.
“Không phải chỗ đó!” Nancy kêu lên vài lần khi tôi định cắt. “Ôi trời, Callum. Để tôi làm cho.”
Và thế là bà quản gia sáu mươi tám tuổi xô tôi ra bằng cái hông nhân tạo và cắt những cành cây dày như thể chúng được làm bằng bơ vậy.
Làm việc trong vườn thực sự rất thích. Tôi cảm thấy trong người sảng khoái nhanh hơn cả ngàn lần so với nghỉ ngơi tại một khu nghỉ dưỡng và cố tìm cảm giác thư thái trong những ly cocktail và hồ bơi nhân tạo. Vào buổi tối, tôi đi lang thang trên bờ biển, tìm hiểu lại cái máy ảnh và cảm thấy hoàn toàn thoát khỏi công việc. Tôi chụp cho Lilah vài tấm ảnh khi nàng nhấm nháp rượu vang ngoài hàng hiên, hoặc khi nhổ cỏ ngoài vườn.
Tôi thường nhắc nhở bản thân rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng trôi qua đều đều đến mức chẳng có gì đáng để nắm bắt và nhận thức đó thật quý giá đối với tôi lúc này. Những đêm đầu tiên ở Gosford, tôi vào giường nằm xuống bên cạnh Lilah, khắp cả người nhức mỏi vì bắt cơ vận động nhiều. Tison Creative lúc này cách tâm trí tôi cả tỉ dặm.
Tôi chưa từng hứng thú với lễ Giáng sinh, ít nhất là kể từ khi tôi rời khỏi nhà và thậm chí còn ít hơn kể từ khi cha mẹ qua đời. Mặt khác, Lilah và Peta như hai đứa trẻ rối rít cả lên về cuộc viếng thăm sắp tới của ông già Noel.
Cố gắng chế ngự cảm giác khó chịu mỗi lúc một tăng lên, tôi nhâm nhi một ly vang trong khi họ tụ tập quanh một cây Giáng sinh cũ bằng nhựa. Peta hát thánh ca khi họ treo lên những món đồ trang trí nhỏ lòe loẹt lỗi thời và kim tuyến được cất giữ hết năm này sang năm khác.
“Con có nhớ khi nhà mình ở New York vào ngày Giáng sinh tuyết rơi nhiều đến mức toàn thành phố bị đình trệ không?” Nỗi luyến tiếc quá khứ cắt ngang bài hát của Peta và thậm chí làm chậm lại tốc độ nói vốn nhanh như bắn súng liên thanh của bà.
“Con đang nghĩ về cái năm sau khi nhà mình ở Darwin. Mẹ dạy tại trường cấp ba ở đấy và cả nhà mình trải qua ngày Giáng sinh tại cái nơi tồi tệ đó với món tôm tích.” Lilah rùng mình, nhưng đó rõ ràng là một kỉ niệm đẹp vì nụ cười không rời khỏi môi nàng.
“Hoặc cái năm cha con qua đời…” Peta bắt đầu nói và tôi trông thấy hai mẹ con đưa mắt nhìn nhau. Lilah chau mày và khẽ lắc đầu. Tôi quan sát tất cả những chi tiết đó rồi cố gài mình vào cuộc nói chuyện.
“Chuyện xảy ra thế nào?”
“Đó là một năm khó khăn.” Lilah nói khẽ và dù tôi biết chắc là đúng như thế, trực giác mách bảo tôi rằng còn có nhiều điều hơn thế chứa đựng trong ánh mắt nàng bắn về phía mẹ mình. Peta, với suối từ không ngớt tuôn trào, chắc chắn sẽ thoải mái chia sẻ chi tiết về quãng thời gian tồi tệ đó và Lilah rõ ràng không muốn nhớ lại. “Cả nhà em đã trải qua Giáng sinh ở đây và bọn em tặng nhau cây cảnh. Em tặng mẹ một cây hồng hiện vẫn còn trong vườn nhà mẹ ở Gosford và bà tặng em một chậu bonsai giờ được đặt ngoài ban công ở Manly ấy.”
“Mẹ còn tặng con chậu hoa bằng sứ nhỏ dễ thương mua ngoài chợ nữa.” Peta mỉm cười một mình khi nhớ lại.
“Cái cây chết trước cả khi mẹ tặng con kìa!”
“Ừ,” Peta nháy mắt với tôi. “Nó có vẻ phù hợp.”
“Peta!” Tôi đưa mắt sang Lilah cầu cứu, nhưng hai mẹ con họ phá lên cười và Lilah phẩy bàn tay quấn đầy kim tuyến có ý bảo tôi đừng sợ.
“Mẹ đùa đấy, Cal. Rõ ràng cái cây trong chậu nhỏ cần được tưới nhiều nước. Mẹ và em không biết. Giờ vẫn không biết.” Vừa cười khúc khích, nàng vừa liếc nhanh sang mẹ, một thoáng buồn được chia sẻ giữa hai mẹ con. Họ có thể đùa về cái chết của người chồng và người cha rõ ràng là rất được yêu thương như thế. Lạ lùng quá đỗi…
Hai mẹ con quay lại với việc trang trí, tôi đứng lên và khẽ khàng ra ngoài hiên nằm duỗi người trên trường kỉ và ngắm biển. Đã tối muộn; bầu trời nhuộm tím và cam, ngày đang khép lại trước mắt tôi.
Đằng sau, tôi có thể nghe Lilah và Peta cười vang, họ thay phiên nhau nhắc lại những kỉ niệm Giáng sinh, hai mẹ con gần gũi và tình cảm với nhau nhiều đến mức tôi lấy làm lạ. Tôi biết rất ít về cha của Lilah, nhưng tôi không nghĩ mình cần tìm hiểu chi tiết để biết mức độ sâu sắc của nỗi mất mát ấy. Điều khiến tôi suy nghĩ nhiều lúc này là hình như họ đã đi qua nỗi đau của mình dễ dàng hơn tôi. Mười năm đã trôi qua rồi mà mỗi khi nghĩ về việc mẹ qua đời, ngực tôi vẫn còn thắt lại và thi thoảng tôi sợ mình sẽ không bao giờ có thể nghĩ về cha mà không cảm thấy tức giận một cách vô lý rằng cha đã không thể sống tiếp khi thiếu vắng mẹ.
Tôi chợt nhận ra sự khác biệt ở đây chính là cách họ chia sẻ nó. Tôi nhận thấy điều đó qua việc họ có thể cười đùa về giai đoạn đau buồn nhất đó và dưới ánh sáng của tình thân ấm áp hiện hữu giữa hai mẹ con.
Ed và Will, lúc nào cũng khăng khít với nhau hơn nhiều so với tôi, dành nhiều ngày bên nhau và bên cha sau cái chết của mẹ. Hai đứa bên cạnh cha khi ông ngã gục trong lúc viết thiệp cảm ơn cho hàng chục người đến dự tang lễ của mẹ. Cha đã lặng lẽ nhìn chằm chằm ra sân trong lúc ngồi trên chiếc ghế dựa bọc hoa mà mẹ vẫn thường ngồi đọc sách. Sau đó tôi nghe Ed kể lại là cha đột nhiên đổ người về phía trước và hai em trai tôi tưởng là cha khóc. Mãi đến khi nhận thấy sự bất động kéo dài một cách khác thường, hai đứa mới vỡ lẽ là cha không ổn.
Sau cái chết của mẹ, tôi ở nhà một thời gian vì chưa sẵn sàng làm việc trở lại, nhưng không hiểu sao cái suy nghĩ ngồi vẩn vơ hồi tưởng lại những chuyện đã xảy ra hết ngày này sang ngày khác khiến tôi không thể nào chịu nổi. Tôi đã bảo hai em trai rằng mình quá bận nên không thể nghỉ làm và đến tối mới về thăm cha được, thậm chí tôi còn làm quá hơn nữa là diện complet hàng ngày để khỏi bị phát hiện. Tôi nghĩ mình đang xem cuộc chạy marathon của một chương trình truyền hình thổ tả nào đó thì điện thoại đổ chuông.
Tôi chưa bao giờ thực sự chắc chắn liệu mình có hối hận vì đã quyết định giữ khoảng cách không. Chính điều đó, cái điều thích hợp hơn - ở bên cha những giây phút cuối cùng – chắc cũng đau đớn chẳng kém gì. Hình ảnh cuối cùng của tôi về cha là khi ông đang ăn tối đêm hôm trước, buồn bã và thất thần, nhưng vẫn còn sống.
Ed khóc nức nở khi gọi tôi ngay sau khi xe cứu thương đến. Nhân viên y tế vẫn đang cố làm cha tỉnh lại. Tôi luôn mường tượng rằng trong khi Ed và Will quan sát người ta cố gắng cứu cha, hai đứa chắc là ôm nhau. Bọn nó là anh em sinh đôi nên sợi dây ràng buộc giữa chúng khăng khít hơn nhiều so với tôi. Sau tang lễ của cha và đón tiếp khách viếng, Ed và Will nài tôi về nhà cha mẹ để uống một chút. Chúng tôi đã tiếp khách viếng tại quán rượu quen thuộc của cha, chỉ cách nhà ông một dãy nhà, nơi ông vẫn đi bộ đến mỗi chiều thứ Sáu để uống bia với mấy người bạn.
Tôi đương nhiên ở lại đợi để tham dự, nhưng rồi lại về nhà. Tôi ngồi một mình trong căn hộ và cảm thấy, hơn bao giờ hết, sức nặng của sự tách biệt mà tôi tự áp đặt cho bản thân. Và ngày hôm sau, tôi đi làm lại. Đó vừa là một hình phạt vừa là nguồn an ủi.
“Cal?” Lilah đứng ở ngay cửa, nét mặt bối rối. Tôi ngồi dậy và nâng cốc về phía nàng.
“Muốn ra ngoài cho thoáng chút. Hai người cứ tiếp tục mà không cần anh.”
“Ồ không, bọn em cần anh giúp đặt cây đèn nhiều nhánh lên ngọn cây.”
“Hai người định đặt một cây đèn nhiều nhánh lên ngọn cây Giáng sinh?”
“Không ai làm vậy sao?” Lilah nhướng mày nhìn tôi, nhưng cười toe. “Hồi ở New York, căn hộ nhà em đối diện với một gia đình Hồi giáo. Họ đương nhiên không tổ chức lễ Giáng sinh nhưng bọn em mừng lễ Hanukkah với họ và mẹ cảm thấy hợp lý khi mời họ đến dùng bữa tối Giáng sinh với nhà em. Đoán xem bà nấu món gì đãi họ nào?”
“Làm ơn đừng nói là thịt lợn quay nhé.”
“Ôi, Lilah, con làm nó nghe có vẻ thô thiển quá đấy,” Peta nói với ra từ phòng khách. “Cô đã cố, Callum, thật đấy. Cô quay gà và ít thịt lợn và cô gắn cây đèn nhiều nhánh lên chóp cây Giáng sinh để bày tỏ sự tôn trọng với văn hóa của họ. Họ đương nhiên không ăn thịt lợn nhưng rất thích thịt gà và ăn rất ngon miệng.”
“Cũng hơi kì,” Lilah trấn an tôi. “Nhưng không hiểu sao sau đó cây đèn nhiều nhánh trở thành một truyền thống. Có thể trông nó chướng mắt thật, nhưng bất kể thế nào cũng phải gắn nó lên và anh là người duy nhất đủ cao để làm việc này.”
Cây đèn bằng nhựa, phun sơn vàng và ai đó đã vụng về dán một miếng bìa cạc-tông hệt như cái phễu vào đáy để nó có thể trượt trên ngọn cây. Tôi thậm chí không cần rướn người để gắn nó. Khi tôi đứng xa ra để ngắm nghía thành quả của mình, Lilah ôm hông tôi và tựa người vào tôi.
“Đẹp quá. Anh không nghĩ vậy sao?”
Trong mấy chục năm qua tôi không hề có cây Giáng sinh. Nhưng cái cây này thì... Đồ trang trí hỗn độn, sự phân bố thiếu cân xứng và màu phối không hợp lý trái ngược với gu màu và phong cách của tôi. Kim tuyến quá cũ đến mức tôi có thể thấy rõ mồn một những đoạn dài chỉ còn lại sợi dây, không chỉ quanh cây, mà giăng khắp phòng, ai đó đã treo nó trên tất cả các lối cửa đi và hầu hết các bức ảnh.
Và cây đèn nhiều nhánh trông lố bịch không chịu nổi.
Tôi khoác vai Lilah và bóp nhẹ.
“Đẹp. Hai mẹ con em điên có bằng cấp đấy, nhưng cái cây rõ ràng là rất đẹp.”
Lilah và tôi không thực sự là kiểu cặp đôi mua quà tặng nhau. Sau vụ đôi giày thảm họa, tôi không dám ho he quà cáp gì nữa và nàng cũng không bao giờ mua cho tôi thứ gì.
Điều đó khiến lễ Giáng sinh càng thêm thử thách.
Chúng tôi không bàn bạc gì về nó và ban đầu tôi hy vọng rằng vì Lilah vốn không thích những thứ lãng phí nên tôi có thể được miễn tặng quà. Nhưng với không khí Giáng sinh rộn ràng suốt vài ngày đầu tiên ở Gosford, tôi nhận thấy rằng mình không may đến vậy, mà tôi thì không biết mua gì tặng nàng.
Peta đến hái ít quả làm quà cho sinh viên của bà vào một buổi chiều muộn khi Lilah đang làm việc trong phòng đọc. Và khi chúng tôi chất quả hạch vào những chiếc giỏ mây, tôi nhờ bà gợi ý cho vài ý tưởng, nhưng Peta cũng chẳng hơn gì tôi.
“Cô mua cho nó một chiếc khăn quàng cổ. Bằng lông thỏ,” bà tiết lộ.
“Chẳng phải đó là lông động vật sao?”
“Lông một loài thỏ bản địa Trung Quốc,” Peta giải thích. “Đôi khi họ bóc toạc lớp lông ra trong lúc con thỏ kêu van. Nhưng đó là loại lông mềm không chỗ chê và nó dùng làm trang phục tuyệt vời.”
“Nhưng… sao cô mua nó cho Lilah?” Cho dù đó chỉ là một chuyện đùa, tôi cũng không thể hình dung Lilah sẽ thích thú.
“Bởi vì Lilah sẽ mua cho cô một mớ sách dạy nấu món chay hoặc máy ép rau quả hoặc rất nhiều đồ quyên góp từ thiện vì môi trường.”
“Vậy…”
“Hai mẹ con cô năm nào cũng làm như thế. Cả hai mua những món quà đắt tiền mình thích nhận từ người kia. Và rồi trao quà cho nhau, làm ra vẻ hạnh phúc và lẳng lặng đổi lại khi hết ngày.”
“Hai người hẳn là cặp mẹ con lạ lùng nhất mà cháu từng gặp đấy.”
“Cháu sẽ quen thôi. Hãy mua nhẫn đính hôn cho con bé đi. Nó sẽ thích đấy.”
“Vâng ạ,” tôi cười gượng, ý tưởng đó đã thoáng qua tâm trí tôi vài triệu lần. “Cháu chắc là cô ấy sẽ thích.” Tôi hình dung nàng ném hộp nữ trang qua hàng hiên xuống biển vào buổi sáng Giáng sinh. “Thế những loại trang sức khác thì sao? Bông tai hoặc dây chuyền ấy?”
“Đương nhiên rồi,” giọng bà đầy vẻ mỉa mai. “Ý hay đấy, Callum; hãy tặng cho con bé dành nửa đời đấu tranh chống lại ngành công nghiệp mỏ những sản phẩm từ mỏ vào lễ Giáng sinh đầu tiên với nó. Cháu có thể gói quà bằng da loại tê giác sắp tuyệt chủng ấy. Đồ trang sức con bé đeo được làm từ vật liệu có thể tái tạo. Nếu không phải thế, cháu có thể tin chắc là nó thừa hưởng từ bà ngoại.”
“Cô giúp cháu đi, Peta. Cô ấy thích gì?”
“À, cô không thực sự nghĩ mình có thể giúp cháu. Ý cô là, nói một cách nghiêm túc, cô đã từ bỏ việc cố làm con bé hài lòng. Mỗi năm cô thường bỏ nhiều công sức vào việc tìm quà cho Lilah và cuối cùng là con bé ghét những gì cô mua cho nó. Cách mới này hiệu quả hơn.” Trước ánh nhìn van nài của tôi, bà thở ra. “Con bé sẽ không thích hầu hết những món đồ điển hình hoặc quà mới lạ của cháu. Không, cô nghĩ cháu cần thứ gì đó sâu sắc vào.”
“Chẳng hạn?”
“Bây giờ cháu là người đang cố sâu sắc, cháu phải tự nghĩ lấy chứ.”
“Cảm ơn, Peta. Cô đã giúp cháu rất nhiều.” Lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên.
Và chỉ còn vài ngày nữa là đến Giáng sinh, tôi cạn thời gian và ý tưởng. Tôi sẽ phải hoặc là trở về Sydney một ngày, hoặc cố tìm gì đó ở Gosford.
“Anh ra ngoài một lát nhé!” Chiều hôm sau tôi bước ra cửa, tay cầm chìa khóa.
“Đi đâu đấy?” Lilah nói vọng ra từ phòng làm việc.
Tôi lầm bầm gì đó về đồ tạp hóa và đi vội ra xe và cứ thế lái đi. Tôi chưa có kế hoạch gì cả; tôi hy vọng nhờ có áp lực, não tôi sẽ đột ngột được kích hoạt và sẽ nghĩ ra một ý tưởng hay.
Tôi đậu xe ở Gosford và suốt hai giờ đồng hồ kế tiếp tôi đi lang thang trong trung tâm mua sắm tìm kiếm món đồ phù hợp. Đánh giá những món quà tiềm năng thông qua đôi mắt của Lilah thật đáng ngại. Tôi gần như có thể nghe giọng bình phẩm của nàng ong lên trong đầu. Lãng phí! Chỉ tổ vỗ béo cho mấy cái công ty! Kinh tởm! Tuy nhiên, vì đã nhận thấy mắt Lilah sáng lên lấp lánh mỗi khi nàng đi ngang qua cây Giáng sinh lố bịch đó, tôi biết kỳ lễ vẫn có tầm quan trọng thật sự đối với nàng.
Tôi phải tìm món đồ gì đó.
Tôi biết Lilah sẽ sớm nhận ra sự vắng mặt của tôi, thế nên tôi lấy bừa một ít sữa đậu nành để phù hợp với cái cớ đi mua đồ tạp phẩm và nhủ thầm mình có thể quay lại đây vào ngày hôm sau. Thất bại, tôi trở lại xe, lơ đãng nhìn những cửa hiệu trưng bày. Những viên đá sáng lấp lánh trong một cửa hiệu nữ trang lôi kéo sự chú ý của tôi và tôi đứng trân ra đấy suốt nhiều phút, cố nghĩ cách giải thích tại sao mình mua thứ đó.
Nhưng… làm sao anh có thể mua cái này cho em? Anh chẳng hiểu em gì hết sao? Hình ảnh Lilah há hốc miệng hiện ra trong tâm trí tôi.
Anh muốn tặng em một món quà dễ thương. Và nó đã chiếm hết sự chú ý của anh, tôi cố biện bạch. Anh muốn chiều chuộng em một chút. Em cứ dùng nó để khiến những tổn hại từ việc đào mỏ có ý nghĩa hơn, không được sao?
Không bao giờ Lilah sẽ chịu nghe tôi giải thích theo cách đó, nhưng mặc kệ, tôi phải mua quà cho nàng. Tôi dứt khoát bước vào trong.
“Giáng sinh vui vẻ, Callum.”
Lilah trông có vẻ phấn khích. Tôi có thể cảm nhận được điều đó qua giọng nói của nàng ngay cả trước khi mở mắt. Khi mở mắt, tôi thấy nàng nằm ngay cạnh tôi, chống một bên khủy tay và cười lém lỉnh. Tôi nhỏm dậy hôn nàng rồi nằm xuống trở lại.
“Em không để anh ngủ nướng trong lễ Giáng sinh sao?” “Không có thời gian để ngủ hôm nay đâu. Bọn mình phải giúp Leon dựng lều và em muốn tặng quà cho anh trước khi mình đi.”
“À, được.”
Lilah phóng xuống giường và chạy về phía nhà bếp. Tôi ngồi dậy vươn vai và trên người độc chiếc quần cộc đi theo nàng. Nàng đang ngồi bên dưới cây Giáng sinh, xung quanh là những gói quà hình chữ nhật. Đêm trước khi đi ngủ tôi thấy chỉ có ba gói quà nhỏ ở đấy: một của Lilah cho Peta và hai hộp sô-cô-la đặc biệt tôi mua cho Leon và Nancy.
“Ông già Noel đến rồi à?” Tôi bối rối hỏi nàng.
“Gọi em là bà già Noel đi.” Nàng đưa một hộp hình chữ nhật về phía tôi và tôi từ từ ngồi xuống bên nàng.
“Anh chỉ mua em một món thôi, Ly.”
“Đây chỉ là một món,” nàng quả quyết, nhưng tôi có thể nhìn thấy ít nhất chín cái gói. “Là một bộ.”
“Anh hy vọng loại giấy gói này có thể tái chế.”
“Đương nhiên rồi,” Lilah thở ra sốt ruột. “Nếu anh cần biết, thì nó vừa có thể tái sử dụng vừa có thể tái chế. Giờ thì mở quà nào.”
Từ sức nặng và hình dạng tôi đoán đó là một cuốn sách. Khi xé lớp giấy gói màu rực rỡ ra tôi trông thấy một logo quen thuộc.
The Lonely Planet Guide to France.
Mỗi cuốn sách viết về một đất nước ở mỗi lục địa, cùng với một cuốn sách rèn luyện chạy marathon, một cuốn bách khoa toàn thư về sửa chữa nâng cấp nhà cửa và một cuốn cẩm nang nhiếp ảnh. Khi tôi mở cuốn cuối cùng, nàng vỗ tay và tuyên bố với sự thích thú không giấu diếm, “Anh có thể vẫn còn cả triệu lời biện hộ nhưng em đã lấy đi ít nhất một lời. Giờ thì anh có cẩm nang hướng dẫn cho mọi thứ anh từng muốn rồi đấy.”
Tôi khựng lại, nhìn những cuốn sách bày ra xung quanh, rồi đến đôi mắt xanh lấp lánh của Lilah và cảm thấy ngực mình cuộn lên những xúc cảm bồi hồi.
“Cal?” Lilah đột nhiên lo lắng và luống cuống nhổm người lên để ngồi vào trong lòng tôi. “Em xin lỗi nếu anh không thích...“
“Anh thích mà. Anh thích.” Tôi không biết làm thế nào để bày tỏ suy nghĩ của mình. Những món quà của nàng chứa đựng một hứa hẹn, một ngụ ý không thành lời về tương lai của hai đứa. Tôi có thể nhìn thấy chúng tôi đi Paris thăm Ed và nhớ về chuyến tham quan thảm họa lần trước của nàng, hoặc chạy marathon với nhau. Tôi sẽ hoàn thành vòng chạy trước nàng cả giờ đồng hồ, nhưng vậy cũng tốt vì thế có nghĩa là tôi có thể đợi nàng ở vạch đích. Nàng đã làm cuộc đời tôi sống động trở lại và trong suốt thời gian quen biết nhau, nàng luôn nhắc tôi nhớ về những ước mơ tôi đã gác lại khi bắt đầu đi làm. Tôi ôm Lilah, vùi mặt vào tóc nàng và nhắm mắt. “Anh không nghĩ có bất kỳ ai từng hiểu anh như em, thế thôi.”
“Phù!” Lilah thở phào. “Vậy mà làm em lo muốn chết nãy giờ. Cà phê không?”
“Có. Nhưng em mở quà của anh đã.” Việc nhận quà của tôi đối với Lilah chỉ là để tạo sự cân bằng. Nàng nhìn xuống dưới cái cây rồi nhìn lên trở lại.
“Đâu?”
“Anh cất trong kia.” Tôi hôn trán Lilah rồi đứng lên quay lại phòng ngủ. Hộp quà nhỏ xíu được giấu bên dưới túi đựng các vật dụng vệ sinh cá nhân. “Anh không muốn em phát hiện.”
Khi quay lại với cái hộp nhỏ trong tay, tôi nhận thấy sự hoảng sợ nơi Lilah. Tôi để ý cách ánh mắt nàng nheo lại và hai vai nàng co rúm lại. Tôi quan sát khi sự nghi ngờ chạy dọc theo cơ thể nàng và khiến nàng căng thẳng đến mức những ngón chân quắp lại bên dưới bàn chân.
Tôi cười toe toét và đưa nàng cái hộp.
“Bình tĩnh nào, Lilah. Nó không cắn em đâu.”
Nàng liếc sang tôi cái nhìn cảnh báo và xé lớp giấy gói.
“Phải là giấy có thể tái chế nhé,” nàng nhắc.
“Đương nhiên rồi. Không chắc là vừa tái sử dụng vừa tái chế, nhưng tất nhiên là một trong hai.”
Hộp nữ trang màu xám nàng thấy bên trong lớp giấy không thể làm nỗi sợ hãi trong nàng lắng xuống. Lilah khựng lại.
“Callum.”
“Em có thể cất nhiều thứ trong một cái hộp cỡ đó,” tôi nhấn mạnh.
“Callum…”
“Cứ mở nó ra đi, Lilah.”
Nàng thở dài và mở cái hộp.
“Ồ.”
“Nào, anh biết có thể em đã biết, nhưng khai thác vàng là thảm họa đối với môi trường,” tôi nhẹ nhàng chế giễu Lilah khi nàng lấy sợi dây chuyền ra khỏi cái hộp. “Rõ ràng việc sản xuất mặt dây chuyền và sợi dây hẳn đã tạo ra mười lăm tấn chất thải từ mỏ, đó là chưa kể đến một lô lốc những hóa chất độc hại bị thải ra môi trường trong quá trình đó. Đó là lý do tại sao sợi dây chuyền này được làm thủ công từ 100% vàng tái chế. Những viên đá sa-phia được khai thác hợp quy cách tại New South Wales và kim cương ở giữa cũng được tái chế. Đây thực sự là vật gia truyền. Chắc chắn luôn.” Tôi khom người và cẩn thận lấy sợi dây chuyền ra khỏi hộp và ướm lên cổ nàng. “Vào cuối những năm ba mươi có hai người yêu nhau sâu đậm. Họ cưới nhau và ở với nhau hai đêm rồi người chồng ra trận. Không lễ tiết, không nghi thức trao nhẫn, không tiệc tùng, hay bất kỳ sự đình đám rình rang nào, nhưng người chồng hứa sẽ đền bù cho vợ khi trở về. Họ không hề biết anh sẽ không trở về, nhưng anh đã để lại cho vợ một cậu con trai. Và khi đứa bé lớn lên, nó mua viên kim cương này gắn vào một chiếc nhẫn cho mẹ mình, để hoàn thành lời hứa của cha. Và rồi đương nhiên, thời gian cứ thế trôi và người mẹ qua đời. Anh con trai không lấy vợ và cũng qua đời, chiếc nhẫn không biết số phận đưa đẩy thế nào lại có mặt ở cửa hàng đồ trang sức.”
“Đẹp quá,” Lilah thì thầm, đôi tay nàng run rẩy đưa lên cổ chạm nhẹ vào mặt dây chuyền.
“Nhà thiết kế làm việc với trang sức đúng quy cách và thân thiện với môi trường và bà thiết kế món này khi trong đầu chứa đựng ý nghĩ về lịch sử của viên kim cương, bất kể điều đó có nghĩa gì.” Tôi siết chặt móc khóa và hôn nhẹ lên cổ Lilah trước khi buông tóc nàng xuống. “Anh chỉ muốn tặng em món đồ gì đó thật đẹp. Và món đồ gì đó mà em sẽ không giận dữ ném vào vách đá.”
“Em đâu khó chiều đến thế, đúng không?” Lilah quay sang tôi và vòng tay ôm lấy cổ tôi. Tôi hôn nàng và mỉm cười vào môi nàng.
“Em là cơn đau lưng khủng khiếp gần như mọi lúc.”
Chúng tôi cụng trán vào nhau.
“Giáng sinh vui vẻ, Callum.”
“Giáng sinh vui vẻ, Lilah.”
Leon và Nancy có truyền thống đón tiếp gia đình dùng bữa trưa vào ngày Giáng sinh, Peta và Lilah thường tham dự. Năm nay, lần đầu tiên, tất cả các cháu nội ngoại đều đến và bầu không khí lấp đầy niềm hân hoan và háo hức. Cho dù ít nhất là chục năm qua không thực sự mừng lễ Giáng sinh, tôi vẫn cảm thấy sự phấn khích với niềm vui nó mang lại.
Nancy mặt mày đỏ bừng, phần nào là do công việc và sức nóng trong nhà bếp. Khi chúng tôi đến, Leon dẫn hai đứa thẳng ra chỗ bà để chứng kiến cảnh tượng đó.
“Mới bốn giờ sáng bà ấy đã thức dậy nấu nấu nướng nướng rồi,” ông bảo. “Đồ hâm.”
“Ông sẽ thôi phàn nàn khi lát nữa nếm chỗ khoai tây này đấy.”
“Tôi không dám. Đừng có tiết kiệm bơ cho phần của tôi nhé. Cho tôi phần của Lilah đi.”
“Tôi sẽ quyết định về tỉ lệ bơ sau khi thấy thành quả dựng rạp của hai người.”
Leon chỉ ra cửa.
“Tôi nghĩ đó là lệnh dành cho tôi và cậu đấy, Callum.” “Cháu nữa,” Lilah đề nghị. Sợi dây chuyền ngự trên cổ nàng và nàng liên tục chạm vào nó tủm tỉm cười. Vì khó khăn lắm mới mua được nó, tôi khá chắc chắn mình rốt cuộc đã chọn đúng.
“Lilah, nếu cần một chân chạy vặt chuyên ăn chay bé tí, thì ông ấy hẳn đã tuyển một trong những chú gà con rồi.”
Lilah vỗ vào lưng tôi đùa đùa và tôi nháy mắt với nàng khi đi theo Leon ra khỏi nhà bếp nóng và ngột ngạt. Rạp đã được dựng bởi một đội được thuê đến vào chiều hôm trước, hai không gian nối liền với nhau thành hình chữ L, có đủ chỗ cho tất cả chúng tôi ngồi thoải mái và một không gian mở cho trẻ em vui chơi. Một máy điều hòa được lắp ở một đầu và đã phả hơi lạnh. Hôm nay là ngày quang mây nên chắc sẽ nóng như thiêu – một lễ Giáng sinh kiểu Úc điển hình.
Leon và tôi đặt hai chiếc bàn dài song song tại một phía của căn lều rồi xếp ghế xung quanh. Chúng tôi treo kim tuyến quanh những cửa sổ nhựa và đặt lên bàn ly vang cho người lớn và cốc nhựa màu cho trẻ em. Có một gói bóng xanh và đỏ. Tôi đã thổi căng một nửa và thả xuống nền đất trong không gian mở. Nửa kia tôi thổi thành nhiều cỡ khác nhau và đính chúng vào một trong những bức tường trắng trơn của căn lều, để trông giống như những bong bóng đang bay lên. Peta đến khi tôi đang hoàn thành.
“Ài chà, cháu đúng là người đàn ông đáng ngưỡng mộ, không phải sao?” Bà bình luận. “Cô không nhớ nổi lần gần đây nhất trông thấy con gái mình vui vẻ và hạnh phúc như thế là khi nào. May là cháu phớt lờ cô và bất kể thế nào cũng mua một món nữ trang cho con bé.”
“Không phải là nữ trang bình thường đâu ạ. Đó là nữ trang sinh thái, thân thiện với môi trường.”
“Lilah kể với cô rồi. Có vẻ như đó là là một chiêu tiếp thị để lừa cháu trả giá cao cho một món đồ cũ. Cô tưởng hơn ai hết cháu thấu suốt việc đó chứ,” Peta cười lớn. “Dù vậy cô vẫn khen cháu một chuyện: cái lều trông rất tuyệt.”
“Cảm ơn cô, Peta.”
“Cơ mà chúng ta thiếu nhạc rồi. Hãy mở vài bài thánh ca lên đi!”
Peta không mất nhiều thời gian để tìm một chỗ đặt iPod và mở to một loạt bài thánh ca. Những chiếc xe hơi bắt đầu đến và kế đó là cảm giác như thể có một làn sóng của sự vui vẻ ùa đến bao trùm lên chúng tôi.
Trong suốt thời gian chuẩn bị cho lễ Giáng sinh, tôi nghĩ rất nhiều về quá khứ và về gia đình mình. Dù vậy, bữa trưa Giáng sinh với gia đình Leon và Nancy thật huyên náo và ồn ã đến mức tôi nhận thấy mình thực sự hòa mình vào bầu không khí đó. Tôi nhớ không xuể những khuôn mặt và những cái tên. Có quá nhiều người và mỗi người giới thiệu nhanh như súng liên thanh khi đến nơi. Vì tôi là người ngoài, nên ai cũng biết tên tôi và ai cũng muốn bắt chuyện. Tôi gặp người làm công tác xã hội từ Melbourne và người chồng công chức của cô từ sớm và rất lâu sau đó mới tiếp cận được cậu con trai thiếu niên của họ. Cậu bé cho tôi xem những bức họa cậu lặng lẽ làm trong góc, trong đó có một bức rất đẹp về tôi với Lilah và tôi xin được giữ. Tôi trò chuyện suốt một giờ với chàng sinh viên y khoa mà Leon và Nancy hỗ trợ tài chính, ấn tượng bởi sự tập trung và quyết tâm làm việc trong lĩnh vực hỗ trợ y tế cho các quốc gia thuộc thế giới thứ ba. Tôi đã gặp người con gái út của Leon và Nancy làm nghề chữa cháy, người chồng điềm đạm của cô và cô con gái nuôi, Yi-Liang. Và lạ một nỗi đó là cái tên duy nhất tôi có thể nhớ được trong cả ngày hôm đó.
Có một dãy vô tận thức ăn làm chủ yếu từ thịt (Lilah đương nhiên ăn mấy món rau dọn kèm bên cạnh tôi) và các bài thánh ca liên tục được phát đi phát lại. Lilah lượn quanh giữa tôi và Peta, trò chuyện với đám con cháu của Leon và Nancy như thể là chị em.
Phải nói là tôi chưa từng có một ngày như thế trong đời. Khi mọi người có vẻ như đã no nê, Nancy hướng dẫn Lilah, Peta và tôi coi ngó bọn trẻ trong khi những người lớn khác bắt tay vào dọn dẹp.
Chúng tôi yên vị vào ghế gần bọn trẻ khi chúng tung tăng tỏa khắp khu vườn của Leon và Nancy bắn súng nước vào nhau và cười nắc nẻ. Khi Peta ngồi xuống, bà kiềm nén cảm xúc, như thể bà rất yếu đuối.
“Cô bị đầy bụng sao?”
“Lúc nào chả thế,” Peta nói khẽ và điều đó khiến tôi sửng sốt. Tôi không nhận ra Peta biết cách cư xử kín đáo. Tôi đưa mắt nhìn Lilah, lúc này đang trông bọn trẻ chơi, trên mặt nàng cũng thấp thoáng vẻ trầm tư.
“Hai người ổn chứ?”
“Ổn mà,” Lilah hơi giật mình và mỉm cười, rồi hít sâu. “Hôm nay vui thật, phải không?”
“Tuyệt,” tôi đáp.
“Nhà anh có giống thế này khi anh còn bé không?” Lilah hỏi.
“Giống chứ,” tôi đáp chậm rãi. “Y như thế. Ồn kinh khủng, vui nổ trời và hầu hết mọi người đều tận dụng thời gian bên nhau.”
Tôi nhớ nét mặt mẹ khi chúng tôi mở quà, sự mong đợi háo hức bà muốn làm chúng tôi vui bằng đúng những thứ chúng tôi muốn trên danh sách gửi ông già Noel. Bà luôn đáp ứng yêu cầu của chúng tôi bất kể chúng mơ hồ đến thế nào. Tôi nhớ đến cha, ông vờ gắt um lên khi bị đánh thức quá sớm, rồi vật nhau với hai em trai tôi để giành quyền trao quà, dù có thế nào rốt cuộc đó vẫn là việc của ông. Tôi nghĩ về chiếc máy ảnh cha mẹ mua cho tôi khi tôi mười ba tuổi, cho dù nó tốn cả một gia tài khi ấy và chiếc xe hơi xuất hiện một cách thần kỳ trên lối đi vào nhà buổi sáng Giáng sinh năm tôi mười bảy. Mẹ luôn làm món gà tây quay với đủ các thứ phụ gia, mà phần lớn kết thúc trong thùng rác. Hầu như chẳng có ai ở Úc ăn gà tây khi ấy, chứ đừng nói gì đến cả một con gà tây, nhưng mẹ không bao giờ thôi nhớ những kỳ lễ Giáng sinh lạnh lẽo theo bà từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành hoặc gia đình lớn mà bà đã bỏ lại ở New York. Và ngay cả khi chúng tôi lớn hơn, cho đến khi mẹ và cha qua đời, không ai trong ba đứa chúng tôi dám bỏ một lễ Giáng sinh. Ngay cả tôi cũng không dám, cho dù tôi trở nên yên tâm với ý nghĩ rằng mình chỉ là một ‘phần phụ’ đối với gia đình.
Nhưng bỗng nhiên tôi nhìn nhận cuộc sống gia đình mình từ góc độ rộng hơn và những ký ức đẹp – những kỷ niệm tuyệt vời – dường như lớn hơn nhiều so với những lúc cảm thấy bị gạt ra rìa. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi mong mỏi được gặp hai em trai mình ghê gớm. Chúng tôi đã có những quãng thời gian tuyệt vời xen lẫn sự căng thẳng. Nhưng rồi khi ngẫm lại cuộc sống gia đình mình thông qua lăng kính của người lớn và dụng cụ lọc của nhiều thập kỉ, tôi đã có cái nhìn thấu suốt hơn.
“Đến lúc trao đổi quà rồi nhỉ,” Peta giục, giọng nói hơi thất thường của bà cắt ngang dòng suy tưởng của tôi. Bà chậm rãi rút một món quà Giáng sinh ra khỏi túi và Lilah cũng vậy, nụ cười xuất hiện trên mặt nàng.
“Chúc mừng Giáng sinh, mẹ.” Lilah chìa cái gói nhỏ xíu và Peta làm tương tự với gói mềm, lớn hơn.
“Giáng sinh vui vẻ, con yêu.” Peta thì thầm. Mắt bà rưng rưng và bà áp món quà nhỏ của Lilah vào ngực mình.
“Ồ, thôi nào, mẹ.” Lilah cố cười. “Đâu có tệ thế. Nào, mẹ mở quà đi.”
Peta nuốt khan và gật đầu. Tôi tự hỏi liệu có thể nào Lilah và mẹ nàng sẽ nổ ra một trận cãi vã trong không khí vui vẻ này không. Tôi xoa vai Lilah, nàng mỉm cười với tôi và bắt đầu mở quà.
“Ồ, dễ thương quá.” Lilah nhón chiếc khăn choàng lên bằng các đầu ngón tay, như thể nó bằng cách nào đó có thể làm bẩn nàng vậy. “Lông thật à?”
“Chứ sao nữa, con gái.”
“Đẹp… đấy.” Lilah thả nó xuống lòng và chỉ vào cái gói của Peta. “Mẹ nghĩ của mẹ là gì?”
Peta cầm lên một vòng đeo chìa khóa. Bà nhướng mắt nhìn sang Lilah.
“Đẹp không?”
Tôi cầm nó trên tay và lật nó lại. Cái hộp bằng nhựa chứa một bức ảnh của một khung cảnh đẹp, một thung lũng sâu với rừng cây bạch đàn vô tận đằng xa. Mặt bên kia cũng giống như vậy, nhưng có thêm một hàng chữ nhỏ xíu khó đọc, Chứng nhận bạch kim của Tổ chức chống khí mê-tan.
“Em quyên tặng bao nhiêu?” Tôi hỏi nhỏ Lilah.
“Anh không muốn biết đâu,” Lilah hớn hở. “Nhưng đó là món quà liên tục được tặng, theo nghĩa đen, qua hàng thế hệ.”
Nàng tiến đến để lấy nó từ tôi, nhưng Peta với tay lấy nó lại.
“Này!” Lilah phản đối. “Đâu phải như thế. Con không muốn những chú thỏ bị tra tấn của mẹ và mẹ không thể giữ cả hai.”
“Sao không?” Peta nói. Bà cau mày nhìn xoáy vào Lilah và tôi tự hỏi thế quái nào mình đã bỏ lỡ lý do khiến họ làm căng với nhau. “Mẹ lấy cả hai đấy.”
“Cô có thể tặng cho Lilah cái vòng đeo chìa khóa xấu xí của cô ấy để đổi lại cái này. Chúc Giáng sinh vui vẻ, người không-phải-mẹ-vợ xấu xa.”
Như tôi mong đợi, Peta bị đánh lạc hướng, ít nhất đủ để lấy cái gói từ tay tôi và nhìn săm soi vào nó một lúc.
“Callum! Cô thậm chí không nghĩ đến việc tặng quà cháu. Cô cảm thấy tệ quá chừng.”
“Không sao đâu cô,” tôi nói. Ngày hôm nay đối với tôi thế là đủ. Tôi không cần thêm gì nữa.
“Từ nhà thiết kế đã làm sợi dây chuyền cho em ấy,” tôi nói với Lilah khi mẹ nàng lấy ra đôi bông tai lớn, lấp lánh từ cái gói và đeo vào luôn. Chúng cầu kỳ và lòe loẹt, rất hợp với chủ nhân mới. Giống như mặt dây chuyền của Lilah, chúng được làm từ nguyên vật liệu tái sử dụng, điểm khác chỉ là nó làm bằng thủy tinh, trông giống như đá quý nhưng có kích cỡ lớn hơn bình thường.
“Tuyệt quá, Callum.” Mắt Peta ngấn lệ và rồi trước sự ngạc nhiên của tôi, bà cố nén tiếng nức nở chực bật ra. Bà kéo tôi lại gần để ôm và tôi cảm thấy bà run rẩy.
“Cô ổn chứ, Peta?” Tôi ngập ngừng vỗ lưng bà.
“Cho cô một phút để lấy lại bình tĩnh đi,” bà thì thầm. “Cô không muốn lũ trẻ thấy cô khóc và buồn lây.”
“Nữ hoàng sến sẩm,” mắt Lilah trông cũng nhòa lệ một cách đáng ngờ, nhưng nàng đứng lên và chỉ vào trận chiến súng nước. “Hai người cứ việc ngồi đây mà sướt mướt; con chơi trò đánh nhau với bọn trẻ đây.”
Mọi thứ có vẻ hơi bối rối khi Lilah rời đi, nhưng tôi cố gắng an ủi Peta vì tôi chỉ có thể đoán là bà đã uống quá nhiều sâm-panh vào bữa trưa hoặc có lẽ đang nhớ về cha Lilah.
“Xin lỗi,” Peta nói sau một lúc. Bà lấy lại bình tĩnh, quệt những vệt mascara chảy vằn vện xuống hai bên má và dõi theo Lilah rượt đuổi bọn trẻ khắp vườn. “Hôm nay quả là mệt thật đấy. Nhưng món quà của cháu rất ý nghĩa. Cảm ơn, Callum. Và cảm ơn vì đã làm cho con gái cô hạnh phúc. Cô chưa từng nghĩ mình sẽ trông thấy nó hạnh phúc như vậy. Thật đấy.”
Bà lại ứa nước mắt. Tôi vỗ vào tay bà, hy vọng không có vẻ trịch thượng.
“Cô ấy là một phụ nữ đặc biệt,” tôi nói nhỏ. “Và thỉnh thoảng là một cơn ác mộng ương bướng và ngoan cố. Hai người đã cãi nhau à?”
Peta nuốt khan và đứng lên.
“Cô nghĩ dạ dày cô có thể chứa thêm một ly sâm-panh nữa. Cô sẽ quay lại ngay.”
Giờ chỉ còn lại một mình, tôi nhìn xung quanh, bọn trẻ và rồi trở về cái đống hỗn loạn mà hai mươi người lớn đang cố dọn dẹp bàn cùng lúc và thở ra hài lòng. Đó là khoảnh khắc không thể quên.
Peta quyết định ngủ lại ngôi nhà bên bờ biển. Bà lẩm bẩm gì đó về việc uống quá nhiều rượu vang trong bữa trưa nên không thể lái xe về nhà và khoác tay đi bộ với Lilah khi chúng tôi trở vào theo lối đi xe vào nhà.
Họ đang đi chậm chậm và tôi bị phân tâm. Tôi nghĩ về việc mình đã thích không khí náo loạn của ngày hôm nay và điều đó nằm ngoài mong đợi của tôi như thế nào. Tôi lại nghĩ về hai em trai và tự hỏi tụi nó như thế nào. Ed chắc chắn sẽ trải qua lễ Giáng sinh với vợ nó và có thể là cùng gia đình vợ nó. Will thì sao nhỉ? Nó có ai chưa, hay trải qua Giáng sinh một mình, chọn cách ngốn thật nhiều đồ ăn nhanh như tôi thường làm trước đây?
Và rồi tôi nghĩ về tương lai và tự hỏi trong một năm nữa Lilah và tôi sẽ như thế nào. Căn hộ của tôi chắc đã sửa xong. Tôi sẽ bán nó và chuyển hẳn sang chỗ nàng? Tôi có thể thuyết phục nàng cân nhắc lại chuyện con cái không? Chúng tôi sẽ quyết định làm đám cưới chứ?
Tương lai nghe thật vàng son, khả năng sau lại thú vị hơn khả năng trước. Tôi đã thay đổi quá nhiều trong những tháng qua và đang từ từ điều chỉnh quan điểm méo mó của mình về gia đình, bắt đầu mơ về một mái ấm riêng lần đầu tiên trong đời.
Những ý nghĩ của tôi cứ thế trôi lan man, nhưng những bước chân của tôi thì không và khi hai mẹ con họ tiếp tục dạo bộ, tôi đi về phía trước. Khi có mặt Peta, tôi rất dễ bị văng ra khỏi cuộc nói chuyện, nhất là sau tình trạng căng thẳng giữa hai mẹ con trong bữa trưa.
Tôi đứng ở cửa trước ngoái nhìn ra sau, trông thấy Lilah và Peta ôm nhau. Họ dừng cách nhà khá xa và tôi mất một phút mới nhận ra là hai mẹ con đang khóc vì toàn thân cả hai đều rung lên. Tôi tủm tỉm cười, thầm nghĩ chắc là họ xúc động sau khi dàn hòa nhau và tôi yên tâm quay trở vào nhà.