• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Từ ngày em đến
  3. Trang 24

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 28
  • Sau

Chương 21

Callum

Tôi đứng bên ngoài phòng của Lilah và nhìn nàng qua lối cửa. Chiếc giường để nghiêng và nàng được đỡ khắp các phía bằng những chiếc gối. Mái tóc đỏ xõa ra và rối tung quanh vai nàng, phủ lên ngực nàng.

Nàng tái xanh, rất tái và bên trên tấm trải giường tôi có thể trông thấy nàng đang mặc váy bệnh viện – làn da trắng bệch trên nền khăn trải giường trắng và rồi hai sợi dây của chiếc đầm ngủ màu xanh xấu xí. Lilah ghét mặc đồ khi ngủ và rõ ràng nàng ăn mặc thế là có nguyên nhân và tôi cố chống lại một thôi thúc phi lý là chạy bay vào phòng cởi phăng chiếc áo chết tiệt đó ra khỏi nàng, ít nhất là để mặc lại cho nàng đồ gì đó đẹp đẽ hơn.

Đôi tay nàng đặt lên tấm trải giường và ngay cả khi nàng ngủ, tôi có thể nhìn thấy lâu lâu chúng lại chuyển động. Đó không phải là một chuyển động không dứt, chỉ là sự co giật thỉnh thoảng; nếu chưa biết bệnh tình của nàng, tôi đã nghĩ chỉ là nàng đang mơ ngủ. Đó cũng là một cử động khá quen thuộc và tôi tự hỏi có phải ở Gosford tôi đã nhìn thấy nó nhưng chỉ nghĩ rằng đó là một thói quen không đáng để ý.

“Đừng đánh thức cô ấy,” tôi nói khi Peta đến cửa. Peta ngoái đầu lại và, trước sự kinh hoàng của tôi, tôi bắt đầu khóc. “Xin cô đấy, Peta, hãy để cháu đi dạo một lát trước khi vào trong.”

Tôi không để bà kịp đáp lại. Thay vì thế, tôi quay người và đi nhẹ nhàng hết sức có thể xuống hành lang, trở ra thang máy lúc nãy vừa mới đi ra. Tôi bấm xuống tầng trệt và ấn hai nắm tay vào mắt khi thang máy đi xuống.

Lilah chưa biết Peta đã liên lạc với tôi. Dù ngoài quán cà phê tôi làm ra vẻ can đảm, nhưng giờ đến gần nàng, tôi nhận thấy mình buộc phải lựa chọn – một lựa chọn thực sự. Vì giờ đây tôi đã biết nàng ốm, tôi lại sẽ phải khiến nàng đau khổ cách này hay cách kia, nhưng tôi có thể chọn không chứng kiến Lilah vuột mất khỏi tôi, từng chút từng một mất đi con người nàng đã từng.

Tôi không nên uống thêm cà phê nhưng tôi vẫn gọi một cốc, rồi điện về văn phòng thông báo có việc đột xuất và không biết khi nào quay về. Tôi ngồi lặng lẽ trong quán cà phê, nhìn từng phút trôi qua.

Những giây phút này mày có thể dành ở bên cạnh nàng, một giọng hằn học trong đầu cất lên nhắc nhở tôi. Nếu Lilah không ngừng mất đi bản thân, tôi nên dành nhiều thời gian hết sức có thể để được ở bên cạnh nàng, yêu thương nàng, trước khi căn bệnh xâm chiếm nàng hoàn toàn.

Hoặc, tôi có thể về nhà. Tôi có thể trở về với căn hộ sửa chữa dở dang, ăn bò bít tết, uống chút sữa và xem những chương trình TV vớ vẩn, hoặc cắm đầu vào công việc. Tôi có thể tìm cách để lấp đầy sự trống rỗng. Ở cùng với Lilah sẽ có nghĩa là cảm thấy sự trống rỗng dần dần quay lại và mỗi lúc một lớn hơn khi nàng ra đi.

Thời gian trôi đi. Những giọt nước mắt tuôn ra như mưa trên khóe mắt. Những người lạ nhìn chằm chằm tò mò, nhưng tôi không nhúc nhích. Một người đàn ông luống tuổi mặc đồ tu sĩ đến ngồi đối diện với tôi.

“Ta có thể làm gì cho con, con trai?”

Tôi ngước lên, nhìn chăm chăm vào đôi mắt màu xanh nhạt, nhiều nếp nhăn của ông và hỏi, “Làm thế nào cha tin vào Chúa khi thế giới quá khắc nghiệt như thế?”

Vị mục sư mỉm cười buồn buồn. “Con nói ngược lại đi. Là bởi thế giới quá khắc nghiệt nên cha mới tin vào Chúa chứ.”

Tôi nấc lên. Nhắm mắt. “Nếu con từng có niềm tin, thì hôm nay con đã đánh mất.”

“Ta có thể ngồi với con một lát được không?”

“Vâng, cha cứ tự nhiên.”

Ông ngồi với tôi một lúc lâu, không nói một lời, tôi nghĩ có lẽ là ông đang cầu nguyện. Cuối cùng ông đặt một tấm danh thiếp lên bàn, với tay bóp nhẹ tay tôi, rồi lẳng lặng rời đi. Ngay sau đó, Peta quay lại và ngồi đối diện với tôi. Bà nhìn tấm danh thiếp và cười khẽ.

“Cô nhớ khi James được chẩn đoán là mắc bệnh Huntington, cô sốc ghê gớm và cố tìm cách chữa trị cho ông ấy. Chúa ơi, cô điên cuồng tìm cách. Cô đã lôi người đàn ông đáng thương đó đến nào là bác sĩ, chuyên gia và các nhà trị liệu, rồi thì thầy lang, các nhà nghiên cứu về thảo mộc, những người áp dụng liệu pháp thiên nhiên, các nhà nghiên cứu về chuyển động của cơ thể, những người chữa bệnh bằng tinh thần...”

Bà gấp tấm danh thiếp làm đôi và đặt nó lên bàn giống hình cái lều.

“Điều tồi tệ nhất là không ai có thể giúp được. Cô hiểu các bác sĩ không thể chữa được bệnh đó. Nhưng điều cô không thể hiểu là tuyệt đối không một ai có thể giúp. Dù chỉ một chút. Không một cá nhân, không một tập thể nào, cho dù cô đã van xin hay thúc ép. Căn bệnh cứ thế tiến triển mỗi lúc một tệ hơn và không một thế lực nào trong vũ trụ này đủ mạnh để làm chậm nó lại.”

Tôi với tay cầm danh thiếp của vị mục sư lên và vò nó trong bàn tay nắm chặt. Peta với sang nắm lấy tay tôi.

“Nếu cháu muốn từ bỏ, cô hoàn toàn có thể hiểu. Thực sự cô hiểu và hiểu hơn bất kỳ ai khác, Callum.” Bà rất mạnh mẽ. Có một sự kiên quyết trên khuôn mặt của bà và tôi thấy ganh tị. “Cô rất xin lỗi vì đã đẩy cháu vào tình huống này, nhưng cô không thể để con bé cứ thế ra đi mà không cho cháu lựa chọn.”

Tôi nhìn xuống mặt bàn. Nó bị cào xước, mòn hỏng một mảng ngay gần cốc cà phê của tôi. Lớp dát mỏng bị lơi ra xung quanh vết xước và dưới những móng tay của tôi. Tôi đã ngồi đây bao lâu, tay cào vô thức, chìm đắm trong nỗi đau? Sự mất kết nối giữa cơ thể và ý thức của tôi bắt đầu hiện rõ.

Khỉ thật.

Peta lại bóp tay tôi. Một lần nữa nhìn vào đôi mắt xanh quen thuộc đau đớn ấy và tôi biết mình cần đưa ra lựa chọn. Tôi nhớ suốt những tháng qua không ít lần lí trí trỗi dậy khiến tôi tự hỏi liệu Lilah và tôi có thể nào làm thành một đôi tâm đầu ý hợp được không và lần nào tình cảm cũng chực sẵn đâu đó dập tắt ngay cái lập luận đó. Ngay lúc này lý trí mạnh hơn nhiều, nhưng quy trình cũ vẫn lặp lại…

“Cháu vào nhà vệ sinh rửa mặt một chút,” tôi nói. Giọng tôi rành rọt và tôi không hiểu sao mình lại nói được như thế. “Rồi ta quay lên lầu.”

Lần này Lilah thức, nàng ngồi trên giường, ống thở đặt dưới mũi và mặt mày nhăn nhó khi nhìn chăm chăm xuống cốc trà chiều trên khay để trước mặt. Khi Peta mở cửa, tôi nhìn thấy Lilah cời cời vào một gói bánh như thể nó là một con vật mắc bệnh. Tôi cảm thấy giận thay cho nàng và cả bực dọc, tôi biết nàng không hề khảnh ăn. Lẽ ra họ có thể cho nàng một củ cà rốt hay một quả chuối, với nàng thế là đủ rồi. Tại sao lại cho nàng bánh quy có thể để lâu mà không hư chứ? Toàn đồ ngốc.

Lilah ngước nhìn lên và hai luồng mắt giao nhau. Một triệu xúc cảm xuất hiện trên khuôn mặt nàng. Tội lỗi, xấu hổ, buồn bã, đau đớn…

Vui mừng. Nhẹ nhõm. Hạnh phúc.

“Mẹ tới số rồi đấy, Peta,” Lilah thì thầm, trước khi mặt nàng rúm ró lại và nàng đưa hai bàn tay lên miệng. Giọng của nàng thực sự đã thay đổi. Nó khàn đục và lè nhè, như thể bị say rượu và hơi cứng.

Tôi chạy đến bên giường và ôm lấy Lilah như thể nàng là một con chim gãy cánh. Nước mắt tuôn rơi và tiếng khóc nức nở vang lên và tôi không biết mình góp bao nhiêu trong đó.

“Anh không phải chứng kiến một người chết như thế này nếu anh chỉ mới quen họ được vài tháng lúc họ còn khỏe mạnh. Em không thể yêu cầu anh dính vào chuyện này, Cal. Em không thể.”

“Anh không quan tâm. Anh không quan tâm mình nên hay không nên làm gì. Và anh không quan tâm liệu em có ghét anh vì điều đó không. Nếu em còn lại mười phút trên cõi đời này, anh vẫn cần có chúng.”

Lilah úp mặt lên vai tôi, những cử động giật cục của đôi tay nàng đập vào lưng tôi thật đáng sợ, nhưng không bằng những tiếng nức nở nặng nề từ khuôn ngực yếu ớt của nàng. Tôi nghe tiếng đóng cửa khi Peta rời đi, nghe những âm thanh của bệnh viện xung quanh chúng tôi, tiếng bíp bíp đều đều của máy đo điện tim của Lilah và tiếng kêu xì xì khe khẽ của bình ô-xy. Tại một nơi xa lạ, đáng ghét nhất thế giới, trong một hoàn cảnh khốn cùng đến mức những cơn ác mộng của tôi cũng không thể sánh được, tôi lại thấy như được về nhà.

“Xin em đừng bắt anh rời xa em nữa, Lilah. Chúng mình có thể cùng nhau chống chọi với nó.” Tôi thì thầm với nàng, miệng tôi chạm vào tóc nàng. Tôi hít sâu, tìm kiếm mùi hương đặc trưng của nàng, nhưng chất khử trùng của bệnh viện đã làm át nó đi mất. Tôi những muốn cướp nàng ra khỏi bệnh viện, đưa nàng về nhà, nơi nàng có thể là chính mình. “Bất kỳ điều gì chờ em ở phía trước, xin em hãy để anh cùng đương đầu.”

Hôm đó chúng tôi thật yếu đuối. Sự non nớt về kiến thức và vết thương còn quá mới, chúng tôi không thể nói được nhiều. Tôi nắm tay nàng và rồi ngủ quên trên giường trong lúc vẫn còn ôm nàng trong tay. Một y tá cố yêu cầu tôi về nhà vào khuya hôm đó và tôi bảo cô ta nếu muốn tôi đi chắc phải dùng đến vũ lực thì may ra. Sau một hồi thương lượng, cô ta để tôi nằm lại trên cái cáng khiêng người ốm ngay cạnh giường Lilah.

Vào buổi sáng, bác sĩ đến.

“Callum, đây là Lynn Overly. Cô ấy là thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của em.” Lilah giới thiệu một phụ nữ trẻ đến kinh ngạc trong chiếc áo blouse trắng. Lynn có đôi mắt to màu xanh lục và mái tóc xoăn lọn vàng - trắng sáng chưa từng thấy. Cao gần bằng tôi với đôi vai rộng của một vận động viên bơi lội Olympic, cô gần giống nữ chiến binh Amazon, nhưng sự hiện diện khỏe mạnh của cô mang lại niềm an ủi lạ lùng. “Đây là Callum Roberts, bạn trai tôi.”

Bạn trai. Ôi chao, tôi đã ao ước nàng gắn cho tôi một tên gọi cụ thể như thế đến dường nào. Tôi đã không khóc khi cha mẹ mất – nhưng bây giờ có vẻ như mỗi lần ai đó nhắc tới là một tiếng nức nở cứ chực bật ra khỏi lồng ngực tôi.

“Rất vui được gặp anh, Callum. Và trông chị khỏe hơn rồi đấy, Lilah. Biểu đồ của chị tiến triển đáng kể vào hôm qua và như thế có nghĩa là chị đã chấp nhận những loại thuốc kháng sinh mà tôi đã cố cho chị uống.” Lynn xem xét bìa kẹp hồ sơ treo ở chân giường của Lilah.

“Tôi cảm thấy đỡ hơn nhiều rồi. Khi nào thì tôi có thể về nhà được?”

Lynn đặt lại bìa kẹp hồ sơ vào chỗ cũ và kéo một chiếc ghế ngồi bên cạnh Lilah.

“Tôi cần nói chuyện với chị về việc đó, Lilah. Đã đến lúc nói chuyện thẳng thắn về một kế hoạch cho tương lai.”

“Cho tương lai?” Lilah mỉm cười giễu cợt. “Cô đã tìm ra phương pháp chữa trị bệnh Huntington và quên cho tôi biết đúng không?”

Trên mặt cô bác sĩ trẻ hiện lên vẻ tiếc nuối sâu sắc không giống như thường thấy ở đa phần bác sĩ.

“Được như thế thì còn gì bằng.” Lynn nhìn sang tôi. “Callum, anh cảm phiền ra ngoài đi dạo một lát được không?”

“Không,” Lilah ngắt lời Lynn. “Nếu Callum muốn ở đây lúc này, anh ấy cần nghe bất kỳ điều gì cô phải nói.”

“Được thôi, Lilah. Dù vậy tôi hy vọng chị sẽ nói cho tôi biết.”

“Lynn, tôi sẽ nói với cô nếu cô thực sự muốn biết. Chỉ có điều tôi không thấy nó sẽ giúp ích.”

“Nói cho cô ấy biết điều gì vậy?” Tôi hỏi khẽ Lilah. “Em đã thuyên giảm như thế nào.”

“Tôi biết cách đó chắc phải cần sự liều lĩnh.” Giọng Lynn có vẻ thiếu lạc quan. “Tôi chỉ cảm thấy giờ có thể là lúc chúng ta cần trao đổi những biệt dược.”

Những lời nói treo lơ lửng trong không khí. Hiểu ngầm. Những lời nói chưa hình thành, nhưng tôi tự hiểu. Làm thế nào chúng tôi có thể đưa chị trở lại đó để chữa trị theo cách đó lần nữa và sớm nhất là chừng nào chúng ta có thể thu xếp việc này?

“Tôi sẽ không đẩy cô vào một tình huống khó xử, Lynn. Sự tiết lộ này liệu có ích gì không?”

“Tôi chưa từng nghe một ca bệnh Huntington nào thuyên giảm hoàn toàn, chứ đừng nói suốt những năm năm. Tôi vô cùng tò mò, Lilah, nhưng hơn thế nữa là cách chữa trị của họ có thể cung cấp manh mối giúp chúng ta biết điều gì đang chờ đón chúng ta ở phía trước.”

“Không ích gì cả,” Lilah thở ra, ngồi thẳng hơn trên giường. Hôm nay nàng không thở ô-xy và sắc diện khá hơn. Tôi tự hỏi về những nhận xét của vị bác sĩ về thuốc kháng sinh và liệu tôi có trách nhiệm về quyết định đó không. “Đó là liệu pháp tế bào gốc. Một bác sĩ người Mỹ đã thực hiện quy trình đó tại một bệnh viện Mexico và hiện giờ đang ngồi tù.”

“Chị chỉ biết có thế?”

“Đương nhiên là còn nữa chứ.” Lilah bực bội và thấy phật ý với câu hỏi đó. “Thầy thuốc chuyên khoa thần kinh thực hiện quy trình bằng cách chích tế bào gốc đa năng vào hạch nền.”

“Loại phẫu thuật gì?”

“Xạ phẫu.”

“Mấy đợt điều trị?”

“Hai. Tôi bắt đầu khá hơn sau lần đầu tiên; đến lần thứ hai tôi thuyên giảm hoàn toàn.”

Sau một lúc, một sự lo lắng thuần túy xuất hiện trên khuôn mặt của Lynn. Cô nhìn xuống sàn, rồi lắc đầu.

“Quy trình đó phải mất mười năm, Lilah. Có thể hơn.”

“Tôi không có gì để mất,” Lilah so vai. “Tôi thực sự không có gì để mất.”

“Họ chích gì đó vào não chị và họ bảo là tế bào gốc, nhưng rất có thể là nước nhà vệ sinh. Chị không bao giờ biết được.”

“Nếu rốt cuộc phải chết, thì chết thôi. Tôi phải sống vì điều gì chứ? Hàng chục năm suy giảm từ từ ư? Một mũi tiêm như thế cũng đáng vì tôi đã có năm năm thoát hẳn khỏi nó. Vậy là thành công đấy chứ.”

“Và…” Lynn ngập ngừng định nói gì đó rồi nghĩ sao lại thôi. Lilah thở dài khi nàng vươn cổ bên này bên kia.

“Haruto cũng được điều trị như tôi. Tôi không biết sai sót chỗ nào. Đó là hôm thực hiện đợt thứ hai, nhưng anh ấy không phản ứng giống như tôi. Anh ấy không bao giờ tỉnh lại sau ca phẫu thuật nên tôi đoán là bác sĩ đã mắc lỗi hoặc trong quá trình gây mê có gì đó không đúng.”

“Quay lại Mexico đi,” tôi nói. Một tia hy vọng đột nhiên lóe lên trong tôi. “Chúng ta có thể đáp máy bay ngay khi em khỏe lại. Chúng ta sẽ trở lại bệnh viện đó, có thể có một thầy thuốc chuyên khoa thần kinh khác…”

Lynn phẩy tay về phía tôi, hơi gay gắt nhưng lịch sự.

“Ngoài Lilah và Haruto ra, tôi còn biết bảy bệnh nhân khác cũng đến một quốc gia có quy định về y khoa thông thoáng hơn với hy vọng được chữa khỏi bệnh.”

“Vậy cô có những liên lạc chúng ta có thể dùng đến?”

“Anh hiểu sai ý tôi rồi. Trong bảy người, có năm người không cải thiện, một người chết và người còn lại não bị tổn thương nghiêm trọng. Ngay cả Haruto… tôi đoán anh biết anh ấy trở về trong tình trạng sống thực vật. Còn Lilah, chị ấy đã thuyên giảm đến năm năm. Có thể vị bác sĩ đó trong quá trình phẫu thuật đã không làm tổn thương não chị ấy hoặc khiến chị ấy bị nhiễm trùng. Đúng là phép màu. Khỉ thật, cách này chẳng có cơ sở khoa học chút nào. Tôi cược là cho dù anh có tìm ra đúng thầy thuốc chuyên khoa thần kinh đó để làm lại chính quy trình đó thì cũng không thể mang lại kết quả như cũ được.”

“Em không hề có ý định thử lại.” Lilah nhìn thẳng vào tôi và khi tôi mở miệng định phản đối, nàng nói tiếp giọng cương quyết. “Lần trước, em không chấp nhận đầu hàng. Giờ thì khác.”

Nàng bóp tay tôi và tôi biết nàng muốn ám chỉ đến tôi, nhưng điều đó vô nghĩa. Tôi chắc chắn là lý do để nàng chiến đấu.

“Em không thể bỏ cuộc,” tôi nói. “Không thể được. Có thể vài năm nữa cách chữa trị đó sẽ được thực hiện an toàn ở đây. Mình đợi được mà.”

“Cho dù họ hoàn thiện nó và bằng cách nào đó nó được chuẩn y nhanh như thế, em cũng không có vài năm, Cal à.” Đôi mắt xanh của Lilah khẩn nài mong tôi hiểu. Sự khẩn nài đó không làm tôi lo ngại, sự tĩnh tại hoàn toàn tôi thấy trong chúng mới đáng lo. Nàng thực sự đã chấp nhận quy luật sinh lão bệnh tử và thế có nghĩa là nàng đã bỏ cuộc.

“Em không thể biết được chuyện đó.”

“Em biết. Em cảm thấy được. Em có thể nghe nó trong giọng nói đáng ghét của em, khỉ thật.” Nàng kéo tay tôi lên mặt nàng và tựa má vào đấy. Tôi ứa nước mắt và quai hàm giần giật. Tôi muốn tranh cãi với nàng. Tôi chỉ không biết làm cách nào để bắt đầu. Khi nàng nói lại, lời lẽ nhẹ nhàng hơn. “Em đã làm kiểm tra nuốt cách đây mấy ngày. Khi em nuốt, một lượng nhỏ nước bọt len vào phổi. Đó là lý do em cứ bị viêm phổi suốt và đó là lý do em sẽ tiếp tục bị, cho đến khi nó giết chết em.”

“Nhưng bệnh viêm phổi có thể chữa được mà.” Tôi tuyệt vọng đến mức phải đứng lên và bắt đầu đi tới đi lui trong phòng. “Lần trước em đã đánh liều với phương pháp chữa trị mà tỉ lệ thành công chỉ một-phần-nghìn-tỷ; lần này em định để cơn cảm lạnh khốn khiếp đó quật ngã em sao?”

“Nếu cơn cảm lạnh khốn khiếp đó quật ngã em, thì đó là điều may mắn dành cho em,” Lilah so vai. Nàng đã có nhiều năm để chuẩn bị việc này, còn tôi chỉ mới tiếp nhận nó được vài giờ. Nhưng tôi không biết nếu mình là Lilah thì tôi có bình tĩnh được như nàng không. “Nếu em đợi cho bệnh Huntington quật ngã mình, em hẳn sẽ quên việc nuốt như thế nào, quên cười và quên cả việc chùi đít. Một ngày mẹ vào phòng và em không nhớ tên bà, bởi não em sẽ mất đi sự kết nối giữa tên bà và những ký ức của em về bà. Thậm chí khi anh nhắc em nhớ mẹ là ai, em cũng không quan tâm. Đó chính xác là những gì đã xảy đến với cha em. Vậy nên em sẽ bị sốt, em ho nhiều và em sẽ chết. Em muốn được như vậy.”

“Hai người có muốn chút riêng tư không?” Lynn hỏi. Tôi vẫn đi tới đi lui bên cạnh giường Lilah, từ bức tường này đến bức tường kia, tìm kiếm một tia hy vọng dù nhỏ bé và có cảm giác như thể vừa mới tìm ra, thì Lilah hoặc Lynn đã lập tức dập tắt.

“Tôi cần hiểu, Lynn. Tôi cần hiểu tại sao, với tất cả thiết bị của bệnh viện và kiến thức của cô và toàn bộ ngành công nghiệp chết tiệt này, mà tuyệt đối không có gì cô có thể làm để giúp cô ấy là sao?” Giọng tôi vỡ vụn.

“Chúng tôi có thể giúp chị ấy nhiều đấy chứ, Callum. Tôi có một đội ngũ toàn chuyên gia sẵn sàng để điều trị những triệu chứng khi chúng xuất hiện.” Lynn đứng lên với nét mặt buồn bã khi nhìn tốc độ đi của tôi chậm lại. “Điều duy nhất chúng tôi không thể làm là thay đổi cấu trúc ADN của chị ấy.”

Suốt những ngày kế tiếp, tôi gần như không thể rời khỏi phòng bệnh. Tôi ngồi với Lilah, ngủ bên cạnh nàng và ăn chung với nàng đồ ăn bệnh viện ngán chết. Chúng tôi nắm tay nhau trong im lặng, chúng tôi nói về thời tiết và đọc báo cùng nhau. Rồi sẽ có lúc dành cho những giải thích và những cuộc nói chuyện nghiêm túc, giờ chưa phải lúc. Tất cả những gì tôi có thể làm là mong chờ một phép màu mang nàng trở lại bên tôi.

Và rồi tôi bắt đầu tìm kiếm câu trả lời, cố tìm một cách để hiểu. Thậm chí Lilah, Peta và Lynn còn ngồi với tôi hàng giờ chỉ cho tôi những nghiên cứu học thuật, sách và những bức vẽ ngớ ngẩn để cố giúp tôi hiểu những gì đang xảy ra. Lynn cho tôi xem sự sắp xếp chuỗi cho thấy đột biến gene đã gây ra căn bệnh này mà họ đã nghiên cứu suốt những năm qua. Cô kiên nhẫn giải thích và lặp đi lặp lại những khái niệm căn bản của việc đo sự lặp lại bộ ba mã hóa nucleotide trong gene. Thông thường, phần này của ADN được lặp lại từ 10 đến 28 lần. Tuy nhiên, trong bệnh Huntington, nó được lặp lại từ 36 đến 120 lần. Điều này có tác động đến một kiểu dự đoán sự tấn công của những triệu chứng, nên Lilah đã lường trước mình sẽ trở bệnh khi còn trẻ đến tuổi giữa ba mươi. Dù những triệu chứng của bệnh có thể bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào, kinh nghiệm của Lynn là cuộc tấn công càng sớm thì sự suy giảm càng tệ. Vài bệnh nhân đến tuổi sáu mươi mới phát bệnh. Nếu một phép lạ nữa không xảy ra, Lilah sẽ không sống để thấy tuổi sáu mươi mình như thế nào.

Những sự kỳ quặc nơi Lilah đột nhiên trở nên rất rõ ràng – một trong số đó là chứng bệnh hoang tưởng về MSG. Có vài bài báo tạp nham gợi ý rằng một trong những thành phần trong MSG có liên quan đến sự rối loạn thần kinh và nhiêu đó là đủ đối với nàng – nàng loại trừ nó một cách triệt để và cực đoan.

“Em muốn dành cho bản thân cơ hội tốt nhất. Nên em đọc, đọc mãi, đọc suốt và chuyển bất kỳ ý tưởng mới nào thành một tín ngưỡng,” nàng nhẹ nhàng giải thích. “Haruto là một người ăn chay trường. Em chỉ thực hiện chế độ ăn uống đó sau khi anh ấy mất, nhưng em luôn cảm thấy khỏe hơn nhờ thế. Và chế độ ăn uống dựa trên thực vật tốt hơn cho sức khỏe nói chung là hoàn toàn có cơ sở khoa học.”

Nằm viện nhưng Lilah vẫn trung thành với chế độ ăn uống của mình và tôi xem đó là một dấu hiệu cho thấy rằng trong chừng mực nào đó, nàng vẫn còn nuôi hy vọng. Tôi chỉ không hiểu tại sao nàng cố ăn đồ chay của bệnh viện cho dù rất ngán nhưng lại thiếu niềm tin vào lợi ích nó mang lại.

Và đương nhiên tôi cũng tự nghiên cứu. Trong khi Lilah nghỉ ngơi, tôi lên Google vào hết trang này đến trang kia. Và giống như cái ngày sau lần đầu tiên gặp Lilah, tôi tìm kiếm sự kết hợp đúng của những từ khóa hoặc những ký tự để cho tôi thứ tôi muốn: hy vọng.

Dù tôi có làm gì thì tình huống vẫn thảm khốc. Nghiên cứu đang được tiến hành trên khắp thế giới, những thử nghiệm và ý tưởng được thực hiện và liên tục thất bại. Cũng có những khả năng thực sự cho tương lai: nghiên cứu về tế bào gốc rõ ràng đầy hứa hẹn và những thử nghiệm trên động vật cho thấy tiềm năng của một loại thuốc dựa trên ADN có thể vô hiệu hóa gene bị đột biến trong một thời gian, dẫn đến sự gián đoạn của những triệu chứng, giống như trường hợp của Lilah.

Tôi đã cho Lynn xem kết quả tìm kiếm của mình khi Lilah được đưa đi làm xét nghiệm.

“Trong tương lai,” Lynn ôn tồn bảo, “đương nhiên ai cũng hy vọng rằng sẽ có cách chữa trị căn bệnh này. Rất có thể là khái niệm đó, khái niệm dựa trên ADN, chữa được bệnh Huntington.”

“Thế Lilah thì sao? Bài báo cho biết những thử nghiệm thuốc chỉ còn vài năm nữa thôi là tiến hành được.”

“Phải, Callum. Những thử nghiệm về thuốc antisense14 ở người ít nhất cũng phải hai năm nữa mới thực hiện.”

14 Là thuộc tính của một chuỗi ADN, thường được tạo ra trong phòng thí nghiệm, đối ngược hoàn toàn với một phân tử mRNA do cơ thể tạo ra. Các phân tử mRNA do cơ thể tạo ra có nhiệm vụ làm mẫu để tổng hợp chất đạm. Phân tử mRNA “trái ngược” này sẽ dính chặt với hình ảnh ngược của nó, khiến cho cơ thể không tạo ra chất đạm được.

Hai năm. Hai mươi bốn tháng. Chín mươi sáu tuần. Không sao, nhanh thôi mà. Chắc chắn Lilah có thể cầm cự được ngần ấy thời gian phải không? Khi tôi nói ra điều mình vừa nghĩ, Lynn khẽ lắc đầu.

“Cô ấy phải cầm cự, Lynn. Cô cũng thấy Lilah đã đi được đến mức này rồi.”

“Anh cứ tiếp tục đọc và anh cứ tiếp tục nghiên cứu,” Lynn nói khẽ. “Cho dù Lilah có bi quan đến thế nào hoặc tôi hoặc bất kỳ ai khác bi quan, anh hãy cứ tiếp tục đi, bởi vì anh yêu chị ấy.”

Tôi gật đầu. Cô ấy nói đúng. Tôi không thể ngừng ước hoặc cố nếu cuộc sống của tôi phụ thuộc vào điều đó.

“Nhưng nếu anh muốn sự thật từ tôi, Cal, thì nó như thế này: tôi không biết phòng khám ở Mexico đó đã làm cách nào để chị ấy thuyên giảm trong năm năm, rồi tại sao nó lại kết thúc và tại sao sức khỏe chị ấy lại kém đi nhanh đến thế. Nhưng dù cho việc này có khó nghe và khó chấp nhận đi nữa, thì tôi vẫn nói thời gian sống của Lilah chỉ tính bằng tháng, chứ không phải bằng năm; và tôi tin chắc chị ấy đã chấp nhận điều đó.”

“Tôi không thể cứ thế mà bỏ cuộc được.”

“Đương nhiên là anh không thể rồi. Nhưng tôi nghĩ anh cần tìm một cách để tập trung tất cả những năng lượng tích cực vô cùng to lớn này vào việc tận dụng hết mức thời gian còn lại của chị ấy.”

Lynn để tôi lại một mình sau đó. Tôi nhìn chằm chằm vào màn hình laptop cho đến khi hai mắt đau rát, nghĩ hết giả thuyết này đến khả năng nọ trong đầu. Có một trường đại học ở Trung Quốc đang thực hiện những thử nghiệm trên động vật về khái niệm antisense. Tôi có thể đưa nàng đến đó không nhỉ? Mua chuộc ai đó để cố giúp nàng? Cố ăn cắp ít thuốc? Làm sao tôi thuyết phục được Lilah? Liệu Peta có ngăn tôi lại không?

Tôi gạt ý nghĩ đó sang một bên khi Lilah quay lại. Nàng mệt và nàng cần tôi bình tĩnh và thông cảm, chứ không phải ép nàng nghe những ý tưởng điên rồ của mình. Khi rời phòng để mua cho nàng bữa tối, bất kỳ thứ gì thay cho món salad mềm èo mà bệnh viện phát, tôi tự hứa với bản thân rằng tôi sẽ quay lại việc đó, có thể sau một hay hai tuần nữa khi mọi thứ đi vào ổn định.

Chúng tôi có vài người đến thăm trong thời gian Lilah nằm viện. Peta vào rồi về, cố duy trì những lớp học hát tư của bà ở Gosford, ở qua đêm tại một nhà nghỉ gần đó khi có thể. Nancy và Leon mang ít rau xà lách tươi và một hộp trái cây vào và ngồi uống trà sáng với chúng tôi như thể chúng tôi đang trong một tiệm cà phê chứ chẳng phải phòng bệnh. Họ đến mang theo tất cả những tin tức về gia đình và nông trại, những hứa hẹn mùa hoa quả bội thu.

Vào chiều thứ Tư, một nhóm bốn người xuất hiện nơi cửa khi Lilah đang nghỉ ngơi. Tôi đang đọc báo, đúng hơn là tôi đã đọc lại tờ báo ngày hôm trước đến lần thứ mười và tôi đứng lên khẽ lùa rèm.

“Tôi có thể giúp gì?”

“Chắc cậu là Callum.” Người lớn tuổi nhất trong nhóm bước tới trước như thể sắp sửa bắt tay tôi nhưng rồi ông ôm chầm lấy tôi khiến tôi sửng sốt. “Tôi thực nhẹ cả người khi thấy cậu ở đây. Tôi là Alan, một trong những cộng sự tại công ty của Lilah. Đây là Bridget, Anita và Liam.”

“Chúng tôi… Chúng tôi là đội của Saoirse.” Những giọt nước mắt ứa ra từ đôi mắt của Bridget. Cô trẻ, có lẽ chừng hai mươi mấy và có vẻ rất xúc động. “Tôi là, từng là, thư ký luật của chị ấy.”

“Và Anita và Liam từng là phụ tá của Lilah,” Alan khẽ giải thích, dù ông không cần làm vậy bởi tôi đã nghe tên của họ hàng chục lần, thường là giữa những lời chửi thề, vì họ thường xuyên khiến Lilah thất vọng ghê gớm. Tôi quan sát nét mặt những đồng nghiệp của Lilah và nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt họ. “Cô ấy thế nào rồi?”

“Tốt hơn nhiều rồi,” tôi nói. Và về bệnh phổi, nàng đúng là thế thật.

“Tôi rất vui khi anh và chị ấy…” Bridget nước mắt tràn mi. Tôi đột nhiên cảm thấy không thoải mái trước ánh mắt cảm thương của Bridget và tôi cựa quậy bối rối, thiếu tự nhiên.

“Tôi cũng vậy,” tôi nói.

“Mấy người ngốc kia vào đây đi chứ hả?” Lilah gọi với ra. Tôi mở cửa và những đồng nghiệp của Lilah đi theo tôi. “Khỉ thật, mấy người biết đây là bệnh viện mà, chứ có phải hộp đêm đâu. Sao lũ lượt kéo vào đây một lúc thế?”

Sự khinh khỉnh trong giọng nàng khiến tôi sửng sốt, nhưng dường như không khiến mấy vị khách kia lúng túng chút nào.

“Lilah là một người sếp ghê gớm đến vậy à?” Tôi đột ngột lên tiếng.

“Ôi trời, đúng thế.” Anita nói và tất cả chúng tôi bật cười hơi gượng gạo, ngoại trừ Lilah cau mặt.

“Em nhớ chị.” Bridget đến gần bên giường và cố cầm tay Lilah. Lilah hất ra và sốt ruột chỉ về phía ghế lúc nãy tôi đã ngồi.

“Ngồi xuống đi, Bridget. Đây đâu có phải là lời trăng trối trên giường bệnh. Cô không cần khóc lóc như thế.” Giọng nói sắc bén của Lilah làm giảm đi ít nhiều không khí buồn bã trong căn phòng, cho đến khi nàng nói thêm, “Chưa đến lúc.”

“Tôi có tin tốt này, Lilah. Chúng tôi đã tuyển được Ann Jenkins; cô ấy sẽ bắt đầu vài tháng nữa.” Alan mở cúc áo khoác khi ngồi xuống cuối giường.

“Ann?” Lilah lặp lại. “Cộng sự?”

“Cô ấy sẽ mua cổ phần.”

“Tuyệt quá, Alan. Xin chúc mừng.”

“Tôi nghĩ cô sẽ ủng hộ.”

Lilah nhìn sang tôi.

“Cô ấy là luật sư. Giỏi hơn em rất nhiều. Cô ấy sẽ điều hành hoạt động môi trường.”

Tôi nhìn Alan và cau mày. “Công việc của Lilah?”

“Nó không còn là công việc của em nữa rồi,” Lilah nói. “Alan đã mua số cổ phần của em.”

Nàng bắt đầu chất vấn đội cũ của mình, hỏi về nhiều vụ và những thành viên, trong khi tôi đứng im lặng nơi cửa, tiêu hóa cái tin nàng bỏ việc. Sau vài phút tôi nhìn đồng hồ.

“Có lẽ… anh chạy loáng về nhà lấy ít quần áo sạch. Không sao chứ, Ly?”

“Anh cứ đi đi.” Nàng mỉm cười. Nói chuyện về công việc khiến nàng có sinh khí và khi lái xe về nhà, tôi nghĩ về điều đó. Đương nhiên tôi có thể hiểu tại sao Lilah bỏ việc, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên và đó không phải là một sự ngạc nhiên dễ chịu.

Tôi đi một mạch về nhà rồi quay trở lại bệnh viện thì chợt nhận ra tại sao mình lại buồn chán và thất vọng khi nghe tin đó đến như vậy. Tôi đang tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy Lilah đang đấu tranh và để hy vọng của mình bám víu vào những dấu hiệu cỏn con đó. Nàng duy trì chế độ ăn uống không thịt. Nàng đã uống kháng sinh. Có vẻ như nàng thực sự xúc động khi tôi quay về với nàng. Đồng thời, tôi gần như dồn hết sự tập trung của mình vào việc tìm hiểu căn bệnh và làm thế nào chúng tôi có thể tiếp cận một phương pháp điều trị. Miễn là tôi làm công việc của mình và tìm ra phép màu và nàng làm công việc của nàng và không ngừng cố gắng, bằng cách nào đó, chắc chắn, nàng sẽ ổn.

Nhưng Lilah đã bỏ việc và bán cổ phần. Nàng đã hoàn tất công việc của mình, sẵn sàng nói lời tạm biệt. Đối với nàng, cuộc chiến đã thất bại. Tôi đã quá tập trung vào căn bệnh của nàng và thế có nghĩa là trong đầu tôi không có chỗ cho thực tế rằng nàng thực sự sắp chết. Tôi không bao giờ sẵn sàng để Lilah đi. Nhất định là không, cho dù nàng có thể gắng gượng mười năm, hai mươi năm hay ba mươi năm nữa.

Đồng nghiệp của nàng đã ra về và Lilah đã tắm xong trong khi tôi vắng mặt. Nàng đang ngồi trên giường lau khô tóc bằng khăn. Tôi để ý thấy tiêm tĩnh mạch đã được tháo.

“Lilah, em phải đi làm lại chứ.” Nàng nhìn tôi trống rỗng.

“À, thứ nhất là, em không đi. Và thứ hai là, em không thể, cho dù em rất muốn.”

“Kìa em.” Tôi ngồi xuống bên nàng và lấy cái khăn từ nàng và nàng xoay người để tôi lau khô tóc nốt cho nàng. Khi tôi lau tóc cho nàng, tôi cố gắng tìm lời thích hợp để nói. “Em cần làm việc. Em phải làm việc. Alan có thể giao em vài vụ nhỏ để làm ở đây hay ở nhà cũng được mà.”

Lilah im lặng và tôi không chắc nàng nghe tôi. Nàng rốt cuộc xoay người lại và lấy cái khăn. Nét mặt trống rỗng.

“Lilah?”

Nàng đánh rơi cái khăn xuống nền và nằm xuống gối, nhìn tôi. Bàn tay gầy guộc của nàng với lên xoa ngực tôi.

“Anh biết không, Cal, trước khi gặp Haruto, em không hề quan tâm đến luật môi trường.”

Sự thật đó khiến tôi sửng sốt, gần như bị sốc. Tôi thấy thật khó hình dung một Lilah xa lạ với những vấn đề môi trường. Tôi biết có thời gian nàng làm việc trong lĩnh lực luật doanh nghiệp nhưng tôi nghĩ đó chỉ là một bước đệm để nàng tiến lên một sự nghiệp cao quý thực sự mà nàng vẫn hằng mơ, cứu lấy hành tinh và đại để. Vả lại, tôi thực sự không muốn nghe về người yêu đã chết của nàng, nhất là bởi bây giờ tôi đã biết người ấy chết thế nào.

“Em chuyển chuyên môn của mình sau khi anh ấy qua đời vì môi trường là đam mê của anh ấy và em cảm thấy có lỗi vì em sống còn anh ấy thì không. Em có cảm giác như mình nợ anh ấy việc làm nên sự khác biệt. Và quả thực là, em bắt đầu yêu nó. Em là dân hippy từ trong xương tủy cho dù em thực sự không tự hiểu điều đó cho đến năm, sáu năm trước.”

Tay Lilah thả xuống đùi tôi và nàng đan tay vào tay tôi.

“Nhưng, Callum ạ, em bị Huntington. Cho dù em muốn, em cũng không thể đi làm trở lại và thực tế là, em không muốn. Khi em nhận ra mình phát bệnh trở lại, khi em nhận ra sự tấn công của nó, tảng đá vốn đè nặng bỗng được nhấc khỏi em. Không còn tìm kiếm trong ám ảnh những dấu hiệu cho thấy nó trở lại, không còn có cảm giác như em đã bằng cách nào đó cướp lấy từ tay Haruto cơ hội thay đổi thế giới của anh ấy. Em đã có năm năm ngoài mong đợi, năm năm tuyệt vời và em đã sống hết mình trong thời gian ấy vì anh ấy. Nhưng những ngày hay tuần hay tháng cuối cùng này là của em.”

“Nhưng em sẽ làm gì?” Môi tôi tê cứng. Lilah xoa xoa ngón tay cái vào mu bàn tay tôi.

“Cal, điều em định làm chính là ốm và chết. Anh cần hiểu điều đó.”

Tôi cầm tay nàng áp lên má và trốn đằng sau nó. Tôi không muốn nàng thấy tôi lại sắp sửa khóc như một đứa bé.

“Em muốn trở về Gosford với anh,” Lilah nói khẽ. “Em muốn loanh quanh nhàn tản trong nhà, ăn rau xanh và nói chuyện phiếm như thể chúng ta có hết thời gian của cả thế giới.” Tay nàng giật giật vào mặt tôi. Tôi nhắm nghiền hai mắt. “Em muốn vờ đây là thời điểm ở giữa cuộc sống của chúng ta với nhau. Em muốn vờ như chúng mình đã sống với nhau hàng mấy thập kỉ rồi và còn hàng mấy thập kỉ nữa bên nhau. Em muốn vờ rằng chúng mình biết mọi thứ về nhau nhưng chúng mình vẫn còn chuyện để nói, vì chúng mình thích nghe nhau nói.”

Nghe thật thú vị. Thực sự thú vị. Lilah ngồi thẳng người và khi tôi mở mắt nhìn nàng, ánh nhìn của nàng cứng cỏi.

“Nhưng chúng ta làm điều này theo cách của em nhé. Đến lúc em đi, anh hãy để em đi, cho dù nó quá sớm và anh không muốn.”

“Khỉ thật, Lilah. Em không thể đưa ra đòi hỏi như thế với anh được.”

“Giờ em khỏe rồi. Và em sẽ khỏe. Sáng mai khi Lynn đến thăm, em sẽ xin ra viện và về lại căn hộ. Chúng ta có thể ở lại đó một đêm để em tưới nước cho mấy chậu cây và dọn ít đồ, nhưng sau đó em muốn anh đưa em về Gosford. Và khi em lại trở bệnh, em sẽ không quay về bệnh viện đâu. Anh hiểu không?”

Có thể tôi sẽ đổi ý, có thể không. Nàng sẽ không bao giờ thuyết phục được tôi ngừng cố gắng, tôi mở miệng định nói điều mình nghĩ, nhưng nàng đưa tay chặn lại.

“Và chỉ có thế thôi, Callum. Nếu anh không thể đương đầu với điều đó, thì anh cứ đi. Em muốn anh ở đây, nhưng em không chấp nhận nếu anh không làm theo ý em.”

Tay nàng vẫn còn chặn miệng tôi, nhưng ánh mắt chúng tôi dán vào nhau. Nàng đang kiểm tra tôi, tìm kiếm sự kháng cự, sẵn sàng chối bỏ tôi lần nữa. Tôi đưa tay lên và nhẹ nhàng gỡ tay nàng ra khỏi mặt mình.

“Anh hiểu.”

Tôi không hiểu. Đương nhiên tôi không hiểu. Tất cả quá mới mẻ và tôi thậm chí còn lâu mới hiểu cái tình huống lạ lùng mình rơi vào, chứ đừng nói gì đến những yêu cầu của nàng.

Nhưng tôi cần thời gian để hiểu tất cả và cuộc nói chuyện này nhất định sẽ được khơi lại sau một tháng nữa.

“Tốt.” Lilah mỉm cười hài lòng, cho đến khi một ý nghĩ buồn bã giăng ngang tâm trí nàng. “Về nhà cho khuây khỏa. Nhưng chắc mấy chậu cây của em úa tàn thành tro hết rồi.”

Ngày hôm sau, Lynn không phản đối khi Lilah yêu cầu được ra viện và tôi thừa nhận quả thật là nhẹ nhõm khi dìu nàng ra xe và đưa nàng về nhà.

Và Lilah nói đúng về mấy chậu cây. Tụi nó chết rụi. “Em chỉ ước mình có thể làm những gì cha em đã làm,”

Lilah thở dài khi nàng đi giữa những chậu cây với bình tưới.

“Ông thực sự có tài làm cho mọi thứ nở hoa. Cho dù em đã cố đến thế nào trong suốt cuộc đời mình, em cũng không thể làm được.”

“Em không thế với cây thôi,” tôi nói khẽ. “Nhưng với anh thì có.”

Lilah ngước lên nhìn tôi và chúng tôi nhìn nhau cười giễu cợt trước câu nói sến sẩm của tôi.

“Anh bước vào thời kỳ tươi đẹp nhất đời mình ở vài tháng cuối cùng này hay sao ấy nhỉ?” Mặt nàng thoáng vẻ tội lỗi.

“Anh không muốn có bất kỳ bí mật nào giữa chúng ta nữa, Lilah. Thế nên anh cho em biết là anh đã đau khổ đến mức tuyệt vọng từ khi chúng ta chia tay nhau ở Gosford.” Tôi nhìn ra biển từ ban công. “Lẽ ra em có thể cho anh biết bệnh tình của mình.”

“Em tưởng em biết anh sẽ phản ứng thế nào,” nàng nói và bật cười buồn bã. “Và giờ anh biết chắc rằng em đúng. Chừa cho anh một lối thoát trước khi anh biết anh cần đến nó cũng là lẽ công bằng thôi mà.”

“Anh nghĩ em đã sống một cuộc đời lớn và em đi đây đi đó khắp chốn, em biết những con người thú vị và đạt được rất nhiều điều. Có thể đối với em mối quan hệ này chỉ là một phần của tất cả những điều đó, nhưng với anh, nó là một sự mặc khải thay đổi tâm hồn một cách đáng kinh ngạc. Và em muốn lấy nó đi bởi vì em tiên liệu những khó khăn anh phải đối mặt ở phía trước. Anh trân trọng tình cảm đó. Thực ra, khi anh tưởng tượng nỗi đau chứng kiến bệnh của em mỗi ngày một tệ đi và so sánh với cuộc sống không có em, anh biết ngay lập tức là anh sẽ ở bên cạnh em, dù phải tàn úa trong sự tuyệt vọng cùng cực thì anh vẫn cảm thấy biết ơn một cách đáng xấu hổ rằng em vẫn còn là một phần cuộc sống của anh.”

Bàn tay Lilah co giật và bình tưới chuyển động cùng với nó, đổ nước ra chân nàng và khắp sàn ban công. Nàng vẫn tiếp tục như thể không có gì xảy ra.

“Làm sao em biết nó trở lại?” Tôi nói với nàng. Lilah nhổ một cọng cỏ ra khỏi chậu cây và so vai.

“Em nghi ngờ một thời gian, có thể từ trước cả khi chúng mình gặp nhau. Vì đã biết cái máy chém đó luôn lơ lửng trên đầu em, nên em lúc nào cũng trông thấy những dấu hiệu ngay cả khi chúng chẳng hề có, nhưng hình như năm ngoái hay sao đó… khả năng làm việc của em thay đổi.” Nàng vứt cọng cỏ qua thành ban công xuống đường bên dưới và tiếp tục tưới. “Em nghĩ đó là lý do em cố nhắc nhở mình giữ khoảng cách với anh.” Lilah ngước mắt nhìn tôi và cười toe. “Anh thấy đấy, em đã bị lừa. Cả hai chúng ta đều biết đây không phải là kiểu quan hệ mà một người có thể kiểm soát.”

“Em không nghĩ thật bất công khi suốt những năm qua thì em khỏe khoắn, đến khi bọn mình gặp được nhau thì em lăn ra ốm trở lại à?”

“Ai biết được chữ ngờ, Cal.” Nàng tưới một cây đã chết khô, như thể có hy vọng nó lại tươi xanh. “Sau khi chúng ta gặp nhau lần đầu tiên, em kiên quyết nghĩ sẽ không công bằng cho anh nếu mối quan hệ của chúng ta trở nên vững chắc. Thực ra, em đã lái xe đi làm sau đêm đầu tiên chúng mình bên nhau để không nhìn thấy anh và rồi – bùm – anh xuất hiện đúng lúc, đi ngang qua văn phòng của em. Một phần trong em muốn tin rằng việc này thể nào cũng xảy ra, nhưng phần lớn trong em tin nó đã xảy ra rồi và một khi chúng mình đã biết nhau rồi thì…” Giọng nàng đuối dần và nàng xoay người lại. “Anh xin nghỉ phép chưa?”

“Họ email sáng nay.” Tôi đã đọc email trong khi nàng thu dọn đồ ở bệnh viện, nhưng rồi tôi quên béng chuyện đó. Thật nực cười khi gần đây công việc là thứ khiến tôi ít bận tâm nhất. “Ban giám đốc cho anh nghỉ ba tháng có lương, sau đó bọn anh sẽ xem xét lại.”

“Xem xét lại,” Lilah khẽ lặp lại. Nước từ bình tưới đã chậm lại thành dòng chảy nhỏ giọt và nàng xoay người lại chìa nó cho tôi. “Đổ nước thêm cho em với?”

“Em biết mình đang tưới cây chết, đúng không?”

Hàng chục cái chậu trên ban công hầu hết chứa những thân cây trụi lá trong đất khô khốc. Nàng vẫn lắc lắc bình tưới và nhướng mày nhìn tôi.

“Chúng ta thường lập danh sách những điều cần làm trước khi chết đúng không nào và trở thành một người làm vườn tuyệt vời nằm trong danh sách đó của em, thế nên cứ hy vọng đi.”