• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Từ ngày em đến
  3. Trang 26

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • Sau

Chương 23

Callum

Thật nhẹ nhõm khi quay trở lại Gosford, cho dù vì hoàn cảnh bắt buộc. Tôi nghĩ nếu chúng tôi cứ để mặc mọi thứ xảy ra theo cách của chúng thì tôi đã luôn bỏ lỡ cứu cánh.

Tôi lại trở nên quen với việc bên cạnh Lilah, tình trạng choáng váng và hoảng loạn ban đầu của thời gian một tuần trong bệnh viện phai dần. Tôi đang học cách không để ý đến những cử động giật cục của đôi tay nàng hay dáng đi thiếu tự nhiên của nàng. Lilah bước vụng về và những thớ cơ nơi chân nàng co cứng. Nàng vẫn hay đi tới đi lui, vì nếu ngồi một chỗ quá lâu người nàng sẽ cứng đờ. Nhưng khi quan sát Lilah băng ngang qua phòng hay trong vườn, tôi có thể thấy rõ là nàng rất chật vật.

Và điều đó thật tệ, nhưng không tệ bằng việc chứng kiến Lilah bị nghẹn. Nàng vụng về che giấu nó bằng cách cố nuốt và ho lên, vì tôi chỉ khiến mọi việc tệ hơn khi hoảng hốt nhảy dựng lên và phóng như bay lại chỗ nàng.

“Chết tiệt, Callum. Kệ em!” Khi hết nghẹn, Lilah mới chịu để tôi lại gần. Tôi cố ăn thật chậm để không xong bữa quá lâu trước nàng. Tôi học cách tập trung vào hơi thở của mình trong khi ăn và nếu nàng có vẻ muốn nôn, tôi sẽ hít sâu hai hơi trước khi cố giúp nàng.

Tôi cũng tìm cách ở bên cạnh nàng gần như hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Lilah đi đứng lóng ngóng và sự phối hợp của nàng đã đến hồi suy giảm rõ rệt. Nếu nàng đi vệ sinh, tôi lảng vảng trong tầm nghe, phòng khi nàng ngã. Khi nàng tắm, tôi sẽ đợi cho đến khi nàng vào trong phòng tắm và ngay khi nghe tiếng nước chảy, tôi sẽ đứng ngoài cửa và lắng nghe để đảm bảo là nàng không sao. Khi nước tắt, tôi nhanh chóng lảng ra xa để nàng không biết. Hiện tại Lilah cởi mở hơn về mối quan hệ của chúng tôi và bày tỏ tình cảm của nàng dành cho tôi, nhưng nàng vẫn không chịu được sự chiều chuộng nâng niu. Trực giác mách bảo tôi rằng cho đến khi Lilah thực sự mất đi sự độc lập nàng mới chịu để bị đối xử như một người bệnh. Còn bây giờ, tôi vừa là thiên thần hộ mệnh, vừa là người đi lén theo.

Tôi biết chắc từ trong tiềm thức rằng mình nên tận hưởng từng giây từng phút quý giá bên nàng khi còn có thể, nhưng hầu hết thời gian tôi sợ. Mỗi không gian, mỗi hoạt động, mỗi khoảnh khắc đều tiềm ẩn nguy hiểm và bằng cách nào đó tôi cần tận hưởng mỗi giây của nó. Những ngày dài một cách thú vị, thật nhiều thời gian vui vẻ bên nàng và thật nhiều việc cần làm để giữ an toàn cho nàng.

Khi chúng tôi quen với sự bình thường mới, tôi bắt đầu khuyến khích Lilah ra ngoài vườn. Dưới nắng thu trông nàng thật khỏe khoắn. Tôi chuẩn bị một giỏ picnic, một cái chăn vài cuốn sách và bánh snack, rồi đưa nàng ra một vạt cỏ mềm. Điều này đương nhiên phù hợp với ý muốn làm việc trở lại trong vườn của Lilah, nhưng lại khiến tôi rơi vào tình trạng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Tuy nhiên tôi vẫn công nhận là nàng cần vận động.

“Anh nghĩ sẽ thế nào khi chúng ta chết đi?” Nàng hỏi tôi vào một buổi chiều khi chúng tôi đang hái rau.

Tôi không biết đáp lại thế nào và tôi đoán sự im lặng ngượng ngập trả lời hộ tôi.

“Như em thôi,” nàng ước đoán một cách chính xác. “Không có gì.”

Đừng hiểu nhầm; từ sâu thẳm lòng mình tôi ước rằng mình sai và có một cuộc sống đẹp ở thế giới bên kia đợi Lilah. Vấn đề là, tôi không tin điều đó, ngay cả lúc này khi mà nó sẽ cho cả hai chúng tôi một sự an ủi vô cùng cần thiết.

“Niềm tin của anh là chúng ta chỉ có cuộc đời này,” tôi thừa nhận. Tôi thảy thêm cần tây vào giỏ. “Vậy em cũng như thế chứ?”

“Em thiên về chủ nghĩ nhân đạo,” Lilah thừa nhận. Đột nhiên nàng bứt một cọng cần tây ra khỏi cây tôi vừa hái và cắn một miếng thật mạnh. “Em nghĩ khi em chết, nó sẽ giống như rơi vào giấc ngủ và mọi thứ sẽ kết thúc – một sự nhẹ nhõm – giống như ngủ quên khi ta quá mệt hoặc bị gây mê ấy.”

“Em không sợ sao?” Tôi hỏi. Tôi ngạc nhiên và bối rối, thích thú bởi sự xoay chuyển của câu chuyện đến mức quên cả hái rau.

“Không,” nàng so vai. “Em chẳng sợ gì hết và điều đó lại khiến em sợ, biết đâu đó là một triệu chứng thì sao. Cha đã bốc đồng ghê gớm khi ông ốm nặng. Một lần, mẹ tìm thấy ông đang leo xuống một vách đá trước nhà; khi bà hỏi ông đang làm gì, rõ ràng ông đã nghĩ ông có thể chèo xuồng một lúc. Sự nối kết giữa hoạt động và sự nguy hiểm đã bị tách rời trong suy nghĩ của ông.”

Tôi dặn mình đêm nào đó đợi nàng ngủ say ra gia cố lại hàng rào cho yên tâm.

“Nhưng em nghĩ em lý trí hơn về điều đó,” Lilah tiếp tục khẽ khàng. “Em chỉ mong em sẽ mắc bệnh cảm cúm và có thể sẽ bị sốt và em sẽ lúc tỉnh lúc mê cho đến khi chỉ còn bóng tối. Não em sẽ không đủ tỉnh để cảm thấy sợ hãi.” Nàng mỉm cười với tôi. “Bóng tối. Bình yên. Sợ gì chứ? Em thậm chí sẽ không biết gì đến sợ hãi.”

Tôi quay lại việc cắt cần tây; hình ảnh nàng vẽ ra quá u sầu. Sau một lúc, Lilah nhảy qua những hàng cần tây để nắm lấy vai tôi và tôi phải nhìn vào mặt nàng lần nữa.

“Này, nếu có kiếp sau, em sẽ trở về và làm đảo lộn cuộc sống của anh cho mà xem. Em sẽ vào phòng anh đổ cái giỏ đựng đồ lót của anh ra hoặc xáo giày của anh để chúng không còn đi đôi với nhau.” Nàng vờ dọa và tôi bật cười, dù ruột quặn lên đau nhói.

“Tưởng tượng như thế này dễ dàng hơn: một ngày thức dậy và phát hiện ra giường của mình bao phủ toàn lá hoặc hoa hoặc đại loại vậy.”

Lilah cười khúc khích, cúi xuống hôn lên đỉnh đầu tôi. “Anh nói đúng. Em muốn mình tinh tế hơn, nhưng nói thật, em thích biến anh trông như vừa bước ra từ lễ hội Mardi Gras15 ấy.”

15 Lễ hội Mardi Gras hay Fat Tuesday (Thứ Ba béo), là lễ hội truyền thống thường niên có nguồn gốc từ Thiên Chúa Giáo. Đây là ngày mà tất cả người dân sẽ mang hết lương thực thực phẩm đã tích trữ ra để ăn mừng.

“Triệu chứng xuất hiện ngay trước sinh nhật thứ ba mươi tư của em,” Lilah kể khi chúng tôi nằm trên giường vào một đêm của tuần sau đó. Sự lo âu tôi cảm thấy trong những ngày đầu tiên đã qua và cuối cùng tôi đã có thể lại vui vẻ bên nàng. “Em đã xét nghiệm gene ngay sau khi cha mất và em biết nó đang đến. Em biết em cũng sẽ chết trẻ, vì số lần lặp lại của CAG. Anh có nhớ gì không?”

“Anh nhớ của em cao hơn bình thường.”

“Bốn mươi tám lần.” Lilah nói. Giọng nàng cho thấy nàng đã nghĩ về con số đó rất nhiều suốt những năm qua. “Số lần lặp lại cao, nhưng không có nghĩa là bệnh Huntington tệ hơn. Nó có nghĩa là những triệu chứng có thể bắt đầu sớm hơn và tiến triển nhanh hơn – triệu chứng của em đã xuất hiện, đúng lúc.”

“Thế còn cha em?”

“Ông lớn tuổi hơn một chút khi phát bệnh và bà nội em lớn tuổi hơn chút nữa. Có vài trường hợp sau mỗi thế hệ bệnh tệ thêm một chút. Đó là lý do tại sao em không bao giờ định có con. Chấm dứt tại đây.”

“Làm sao em biết em bệnh?”

“Hầu hết mọi người có triệu chứng tâm thần trước. Thường là lo âu hoặc trầm cảm, nhưng em không nghĩ em như vậy. Hai chân em bắt đầu tê, em biết và em tức giận. Theo những gì em đọc được, nếu não được giữ ở tình trạng kích thích thì những triệu chứng vận động sẽ giảm nên thay vì đi khám bác sĩ, em bắt đầu làm việc như điên. Em làm việc và nghiên cứu và em cáu tiết với cả vũ trụ.”

“Đó là khi em tìm thấy thầy thuốc chuyên khoa thần kinh ở Mexico?”

“Không, em tìm thấy Lynn trước. Em làm những điều anh đã làm vào sáng hôm ấy ở bệnh viện, em cố thuyết phục cô ấy cho em một phương pháp chữa trị,” Lilah bật cười khẽ. “Em cứ hoang tưởng rằng đã có một bước đột phá gì đó trong y học liên quan đến bệnh Huntington mà cô ấy không chịu cung cấp cho em. Và tại phòng khám của Lynn, em gặp Haruto.”

Chúng tôi rơi vào im lặng. Tôi vén mớ tóc lòa xòa trên mặt nàng và lắng nghe đại dương một lúc.

“Anh có muốn nghe về anh ấy không?”

Lilah nói nhỏ. Đương nhiên tôi không muốn. Tôi không muốn biết bất kỳ điều gì ngoài những gì tôi đã biết, nhưng giọng nàng chứa đựng sự mong mỏi và có thể nàng cần nói chuyện về người ấy. Tôi nén xuống sự ghen tuông.

“Dĩ nhiên rồi.”

“Anh không bao giờ nói về tình cũ.”

“Tình cũ của anh không thú vị.”

“Em cược là họ nói về anh.”

“Tất cả những tình cũ đáng chú ý của anh hiện giờ đã có gia đình ấm êm và ở một thời điểm nào đó chồng họ hẳn đã nói Callum Roberts là một thằng ngốc.” Cả hai phì cười.

“Kể cho em nghe một cô đi.”

Tôi thở dài.

“Em đòi hỏi quá đấy. Được rồi, anh sẽ kể về Annalise.”

Cô ấy là bạn gái cũ của tôi trước Lilah, một cô gái đơn giản, hay cười rúc rích.

“Em đoán nhé? Cô ấy làm hướng dẫn phòng gym.” Có vẻ như Lilah nghĩ tôi lúc nào cũng trau chuốt ngoại hình.

“Sai rồi,” tôi nói và tự mãn cho đến khi nhận ra sự thật nghe còn tệ hơn nhiều. “Cô ấy là bác sĩ thẩm mỹ.”

“Ồ, hoàn hảo. Để em đoán nhé. Cô ấy là người chăm sóc sắc đẹp cho anh?”

“Chỉ một độ thôi.” Tôi vờ phòng thủ vì có vẻ như cuộc nói chuyện đang nặng nề đột nhiên biến thành đùa cợt và vui vẻ và cho dù nó gây bất lợi cho tôi thì vẫn thích hợp hơn chủ đề trước.

“Chẳng phải đó là sự xung đột về lợi ích với cô ấy sao? Ý em là, luật sư và bác sĩ không nên hẹn hò với khách hàng.”

“Tiện thôi, thật đấy. Cô ấy không bao giờ gọi số điện thoại nhà cho đến khi bọn anh đi chơi.”

“Và Annalise - chuyên viên chăm sóc sắc đẹp gọi điện thoại nhà ấy, cô ấy có đẹp không?”

“Không như em,” tôi nói và ý tôi đúng thế thật. “Nhưng cô ấy cuốn hút. Xinh xắn là từ phù hợp cho cô ấy hơn là đẹp.” Tất cả những tình cũ của tôi đều xinh xắn. Ngày xưa, điều đó dường như rất quan trọng. Thảo nào tôi chưa từng ổn định.

“Có gì không ổn?”

“Bọn anh đi chơi với nhau được vài tháng. Thực sự là không có gì không ổn; đúng hơn là… anh không biết nữa. Anh biết nó sẽ không đi đến đâu.”

“Vì cô ấy không hoàn hảo.”

“Không phải,” tôi nói và có cảm giác như tim sắp sửa rớt khỏi lồng ngực khi tôi nhận ra mình có thể nói những lời không gây bất kỳ tổn hại nào đến một tình huống vốn đã tồi tệ nhất rồi. “Vì cô ấy không phải là em.”

Sự thích thú biến mất khỏi đôi mắt của Lilah. Nàng cắn môi và nằm xuống trở lại trên ngực tôi. Tôi biết nàng không thất vọng chán nản và nàng không rút lui. Nàng muốn tôi ở đó và nàng không còn bí mật nào để giấu nữa. Lúc này tôi có thể cởi mở với nàng.

Chúng tôi nằm im lặng bên nhau một lúc. “Anh ghét căn bệnh này, Lilah.”

“Vấn đề là, nó không phải là căn bệnh, Cal. Là ADN của em. Đó là thứ em căm ghét nhất. Không phải là thứ gì đó xảy ra với em, hoặc thứ gì đó em nắm bắt được. Nó thuộc về em, nên khi em cố ghét nó, có nghĩa là em ghét một phần của chính mình. Đó là điều kinh khủng nhất.”

“Peta nghĩ gì về tất cả chuyện này? Em chưa từng kể với bà về chuyến đi Mexico sao?”

“Vâng, bọn em cho bố mẹ Haruto biết và họ ra sức ngăn cản. Nên em không nói gì với mẹ. Bà luôn ủng hộ em một trăm phần trăm nhưng riêng việc này em không thể đòi hỏi bà. Nó có vẻ không công bằng.”

“Thật sao? Thật khó hình dung em không cho bà biết chuyện đó.”

“Mẹ suy sụp khi biết em mang gene lỗi,” Lilah thở dài. “Chắc chắn là bà khó chấp nhận.”

“Ồ, hẳn rồi, Cal. Em tin chắc chuyện này đối với bà thật kinh khủng – nhưng, Chúa ơi, với em thì còn tệ hại hơn. Bà nội và ông nội đều mất trước khi em tốt nghiệp phổ thông, rồi cha cuối cùng cũng chết, nên cả hai mẹ con đều bị cuộc đời làm cho bầm dập tơi tả và em nghĩ mẹ đã hết sức chịu đựng được nữa rồi. Bà cố nài em làm xét nghiệm, em ấp ủ hy vọng và tin rằng mình sẽ gặp may, nhưng không. Nên để tóm tắt cái năm tồi tệ nhất của hai mẹ con, thì em thi đậu trường luật và có thể làm bất kỳ điều gì em muốn trong thế giới này; tuần kế tiếp em phát hiện mình bị Huntington, số lần lặp lại CAG ở em tương đối cao; và hai mươi năm vừa qua em đi trên con đường thẳng tiến về phía địa ngục. Và ngay lúc em cần sự hỗ trợ thì mẹ hoàn toàn bấn loạn, nên em một mình lầm lũi đương đầu với nó.”

“Anh rất tiếc, Lilah.”

“Em đã sống sót. Và em đã đương đầu với nó. Em phải làm vậy vì em biết cuộc sống thật sự ngắn ngủi, ít nhất là đối với em.”

Tôi nghĩ Lilah đang cố vui trở lại, nhưng lần này tôi không cười.

“Vậy là em vẫn học đại học?”

“Mẹ không muốn em đi. Bà nghĩ, nếu em chỉ còn mười lăm năm để sống, thì em nên tận dụng tối đa. Bà gợi ý bán nông trại và đi chu du vòng quanh thế giới trong khi em còn có thể. Bà thậm chí còn đề nghị đi cùng em.”

“Rõ ràng là em vẫn học đại học.”

“Em đã nhìn thấy thế giới. Em biết ngoài kia có những gì. Em muốn kiến thức, học hỏi, thách thức, sự ổn định… chủ yếu em muốn thứ gì đó bình thường trước khi những cơn co giật và mất trí bắt đầu xuất hiện.”

“Và em đã đạt được ý nguyện.” “Vâng, đúng vậy. Em đã có một cuộc sống tuyệt vời, Cal.” “Trông mẹ em đã bình tĩnh lại.”

“Vâng và khi bà đã vượt qua được rồi thì lúc nào bà cũng tuyệt vời. Nhưng em không cho mẹ biết khi em bắt đầu có triệu chứng; em chỉ im lặng. Em biết tự bà sẽ phát hiện ra. Bà không hẳn là quý Haruto, nên khi bọn em quyết định đi ra nước ngoài thử liệu pháp tế bào gốc, em chỉ nói với bà là bọn em đi du lịch. Em giữ liên lạc với mẹ qua email, nhưng trong thời gian em đi, em để bà nghĩ em sống hết mình với thời gian còn lại.”

Lilah khẽ cựa mình bên cạnh tôi, để tâm trí chìm trong ký ức đó.

“Vậy là em mất cảm giác ở chân và rồi em có trở lại. Đó là lý do em không đi giày à?”

“Em nhớ cảm giác đất bên dưới chân mình. Nhưng không phải, em không lấy cớ, em đã luôn làm thế. Em cực ghét giày.”

Tôi cảm thấy nàng cười toe trong bóng tối.

“Haruto bệnh bao lâu thì qua đời?”

“Vài tháng thôi. Anh ấy còn thở, nhưng chỉ sống thực vật và không bao giờ tỉnh lại. Em nói dối mọi người là bọn em bị tai nạn xe hơi. Em thậm chí không cho bố mẹ anh ấy biết sự thật. Em chỉ nói liệu pháp tế bào gốc không mang lại hiệu quả và bọn em quyết định nghỉ xả hơi, đi du lịch vòng quanh Mexico và rồi anh ấy bị tai nạn. Đó là một lời nói dối ngu ngốc. Họ hẳn đã biết sự thật. Nhưng họ là những người quảng đại và em không đủ can đảm để nói cho họ biết rằng anh ấy đang chết và em đang sống.”

“Anh rất tiếc, Lilah.”

“Tệ nhất là em chưa từng liên lạc lại với họ sau cái chết của Haruto. Anh ấy chết, em đến đám tang và ba người khóc với nhau và em nói với họ em sẽ giữ liên lạc. Và em đã không. Thật quá khó khăn.”

“Anh tin là họ hiểu.”

“Có thể.”

“Vậy kế hoạch của em kể từ khi đó là gì? Tiếp tục làm bên luật à?”

“Điều tuyệt vời khi anh rơi vào một tình huống hoàn toàn tuyệt vọng là anh không cần một kế hoạch. Em không nghĩ mình mong đợi sự điều trị sẽ có hiệu quả; em chỉ không thể chịu được ý nghĩ tuyệt nhiên chẳng làm gì mà chỉ ngồi nhàn rỗi đợi não mình bị phá hủy.”

Tôi nghĩ về điều đó một lúc lâu và cố hình dung mình sẽ như thế nào nếu lâm vào trường hợp của nàng. Tôi đang bắt đầu cảm thấy mình như một chuyên gia bệnh Huntington, dù tôi vẫn không thể chịu được ý nghĩ chứng kiến nàng mỗi ngày một tệ đi.

“Em có gặp cha nhiều khi ông bệnh không?”

“Có, đủ.” Giọng nàng thay đổi. Khi Lilah nói về những trải nghiệm của mình, ngay cả với Haruto, nàng có vẻ bình thường. Dù vậy, ngay khi tôi nhắc đến cha nàng, một sự nặng nề bao trùm lên nàng. “Rất khủng khiếp. Từ một người đầy sức sống và nghị lực, ông biến thành… Ông không thể ngồi hay nằm hay đứng yên. Chứng múa giật trở nên tệ đến mức ông cử động liên tục, nhưng ông hoàn toàn không nhận thức được chuyện đó. Và rồi ông bắt đầu mất trí, cuối cùng ông chỉ là một cơ thể vô hồn, quằn quại trong nhà dưỡng lão.”

Ôi chao, giá như tôi đã không hỏi. Tôi chỉ thấy một vài tấm ảnh của James McDonald, nhưng giờ tôi có thể nhìn thấy ông sống động trong tâm trí tôi và ông đột nhiên rất giống con gái mình.

“Điều tệ hại nhất khi cha mẹ gửi em cho ông bà ngoại là mỗi lần em thấy ông là ông tệ hơn. Trong suy nghĩ trẻ con ngu ngốc của em, có vẻ như điều đó xảy ra ngày một ngày hai. Và giờ đây, đến lượt em, nó thực sự đang xảy ra với tốc độ như thế thật, như em vẫn luôn sợ. Như thể tất cả những cơn ác mộng tuổi thiếu niên của em đang trở thành hiện thực. Nếu em không ý thức giữ mình bình tĩnh, em có thể sợ đến chết được ngay lúc này.”

Cả hai im lặng một lúc lâu sau đó. Tôi dịch người để nàng có thể nằm một phần trên ngực tôi và tôi có thể vuốt lưng nàng. Sau hồi lâu im lặng, nàng nói tiếp giọng khàn khàn.

“Chuyến đi đến cái chết của cha dài và chậm. Mẹ không chịu đưa cha vào nhà dưỡng lão; ông bà ngoại phải ép bà khi bệnh của cha tệ đến mức ông còn không biết đến sự có mặt của bà. Và ông ở đấy nhiều tháng, cho đến khi mất vì một cơn nhồi máu cơ tim. Thay vì đau buồn, tất cả những gì cả nhà cảm thấy là sự nhẹ nhõm, bởi lẽ mọi người đã đau buồn đến cả trăm lần rồi.”

Tôi không biết nói gì và chúng tôi nằm im lặng, chỉ nghe mỗi tiếng thở của cả hai, cho đến khi giấc ngủ tìm đến.

Vài ngày sau, Lilah trong phòng tắm và tôi đọc sách trên giường gần đó.

Tôi đợi nghe những âm thanh cho thấy nàng đang gặp rắc rối. Tôi cực ghét khi nàng quyết định đi tắm. Có rất nhiều nguy hiểm tiềm ẩn trong phòng tắm đó. Cách đây mấy năm, khi cải tạo nó, nàng đã lắp một bồn tắm lớn không có giá đỡ dưới cửa sổ. Theo tôi thấy thì nó không đủ gần tường và chẳng có gì để nàng bám lấy để vào trong hay bước ra. Và gạch lát phòng tắm thì khỏi nói – một cơn ác mộng thực sự; nàng luôn xả quá nhiều nước vào bồn nên lúc nào nước cũng tràn ra khi nàng bước vào và gạch lát trơn trượt dù chỉ có một chút ẩm ướt. Tôi cố tình lót khăn và thảm chùi chân sát bồn nhưng Lilah luôn nhặt chúng lên và ném vào giỏ mây.

Sau một lúc, tôi nhận thấy mình vẫn liên tục lật các trang sách nhưng không lọt được một chữ nào vào đầu, nên bèn đứng lên và đi đến cửa phòng tắm.

Lilah quá đẹp và mong manh. Nàng đang lẩm nhẩm hát theo bài hát trong chiếc iPod gác trên bậu cửa sổ.

“Chào anh,” nàng mỉm cười. “Sách hay không?” “Không hẳn. Em có nghĩ mình nên cưới nhau không?” Nàng không bỏ lỡ lấy một nhịp.

“Em muốn lấy anh, Callum Roberts. Nếu em không phải là em, em sẽ cưới anh trong vòng một nốt nhạc.”

“Nhưng vì em là em…”

“Suốt từ đầu đến giờ, vấn đề nằm ở chỗ đó, anh biết mà. Thực sự là vấn đề duy nhất.” Nàng nhấc bàn tay ra khỏi nước và ngắm những giọt nước rơi xuống bồn tắm. “Em muốn hứa hẹn một cuộc đời với anh. Nhưng mà em không có.”

“Có chứ sao không,” tôi nói. “Có thể cuộc đời đó không dài như chúng ta muốn, nhưng nó vẫn là một cuộc đời. Và trong khi em rất cao thượng khi muốn cứu anh tránh khỏi tuổi thọ ngắn ngủi của mình, nhưng em đã bỏ lỡ một yếu tố quan trọng.”

“Yếu tố gì?”

“Anh yêu em. Và anh sẽ yêu em mãi mãi, dù em bệnh hay khỏe, còn ở đây hay… không.” Mắt tôi ậng nước và mắt nàng cũng vậy.

“Em cũng yêu anh,” Lilah thì thầm và nàng đưa tay lên miệng cố ngăn được tiếng nấc bật ra ngay sau đó. Tôi đi đến bồn tắm và quỳ xuống bên cạnh nàng.

“Anh biết em nghĩ em đang cứu anh khỏi phải dính líu vào chuyện này, Ly. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc em đang tước những khoảnh khắc này khỏi anh, khỏi chúng mình và có đổi chúng để lấy cả thế giới này anh cũng nhất quyết không.”

“Em chỉ muốn anh hạnh phúc, Cal.” Nàng nói nhịu nhiều hơn khi tâm trạng không tốt và những lời nói gần như không tròn vành rõ chữ.

“Anh cũng muốn em như thế,” tôi nói. Nàng lóng ngóng với đôi tay ướt nắm lấy tay tôi trên mép bồn tắm và khi những ngón tay chúng tôi đan vào nhau, tôi tựa má lên chúng và nhìn nàng đăm đăm. “Em, trong tất cả những sự khác thường hoàn hảo, là tình yêu của cuộc đời anh. Anh không thể sửa đổi chuyện này cho chúng ta, Lilah, cho dù anh muốn hơn bất kỳ điều gì khác trên trái đất này. Nhưng anh có thể hứa với em rằng anh là của em cho dù bất kỳ điều gì xảy ra kế tiếp.”

“Em yêu anh rất nhiều, Cal. Em cũng cảm thấy y như vậy. Em xin lỗi… em rất tiếc rằng đây là tất cả cuộc đời chúng ta sẽ có cùng nhau. Nhưng em rất mừng rằng anh đã tìm đường trở về với em.”

Trong khoảnh khắc chúng tôi im lặng, ngoại trừ hơi thở của chúng tôi và những giọt nước mắt của nàng rơi xuống bồn tắm.

“Nghe giống lời thề hôn ước quá nhỉ,” Lilah thì thầm. Tôi siết nhẹ tay nàng và gật đầu.

“Đâu cần theo luật gì, đúng không?”

“Đây gần như chính xác là những gì em mơ, ngoại trừ em không phải trần truồng thế này và anh không quỳ trên vũng nước trơn trượt gần bồn tắm của em.”

Nàng ngồi dậy và chúng tôi trao nhau nụ hôn dài da diết. Tôi có thể bay vút lên bây giờ, chỉ một lúc thôi. Lilah cũng yêu tôi và nàng đã nói ra điều đó. Mọi thứ khác trôi tuột khỏi tâm trí tôi và tôi cảm thấy trọn vẹn ở thời khắc đó và hoàn toàn đầy sức sống. Tôi không muốn di chuyển, không bao giờ, vì tôi không muốn phá vỡ bùa mê.

Gạch lót sàn dứt tôi ra khỏi bùa mê. Hai đầu gối của tôi trở nên tê cóng, rồi đến hai bàn chân và tôi nhận thấy rằng nước trong bồn tắm của nàng đang lạnh đi. Thực tế khốn khiếp sẽ không bị trì hoãn, thậm chí một vài phút. Tôi lại hôn nàng.

“Vậy, em muốn tiệc cưới của chúng mình có những món gì nào?”

“Em sẽ xong trong một phút nữa thôi và giúp anh nấu.” Ý nàng muốn nói làm ơn để em tự nấu. Không những vì nàng vẫn còn độc lập, mà còn vì kỹ năng nấu đồ chay của tôi vẫn chưa mảy may cải thiện. Nàng gạt một lọn tóc lòa xòa trước trán tôi. “Em biết về bản chất anh là một người lãng mạn.”

“Em bắt được thóp anh rồi.”

Chúng tôi bắt đầu xây dựng một truyền thống ở nông trại. Chủ nhật nào chúng tôi cũng dành cả ngày khám phá khu vườn, tìm kiếm các nguyên liệu và rồi nghiên cứu những công thức phù hợp nhất với chúng. Tôi điên cuồng mua về rượu vang đắt tiền phù hợp với thức ăn và thậm chí đặt mua loại kem Lilah thích từ Manly.

Khi mặt trời lặn, Leon và Nancy xuất hiện, rồi Peta đến ngay sau đó. Chúng tôi ngồi trên cầu tàu ăn, kể cho nhau nghe những câu chuyện và uống rượu cho đến khi tiếng cười và tình thân ấm áp gần như nhấn chìm nguyên nhân tại sao tất cả chúng tôi ở đó. Tối Chủ nhật nào cũng tựa như một ngày Giáng sinh thu nhỏ và tôi sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc của những buổi tối ngắn ngủi đó, bên cạnh Lilah và người thân của nàng – tất cả bây giờ đã trở thành gia đình của tôi.

Tôi thấy niềm vui trên gương mặt của Lilah trong ánh nến lung linh và tôi thưởng thức đồ ăn ngon và rượu vang hảo hạng. Mặc dù nàng rất mệt, nhưng chúng tôi sẽ làm tình trên giường sau đó, cẩn trọng và nhẹ nhàng thôi, giữa tiếng kêu răng rắc của những cánh cửa kiểu Pháp mở ra, cơn gió thoảng mùa đông lạnh lẽo và những âm thanh vỗ về của đại dương. Chính những đêm đó, chứ không phải những đêm khác, tôi sẽ nằm thức chong chong trong sự yên tĩnh sau đó, nghĩ về việc chúng tôi là ai, chúng tôi đã đến từ đâu và nghĩ ít nhất có thể về những gì sắp tới.

Vào một buổi sáng mát mẻ, chúng tôi quyết định đi dạo, dọc lối đi vào nhà, ngang qua nhà Leon và Nancy. Nếu Lilah vẫn còn đi được, chúng tôi định sẽ dạo loanh quanh một chút nữa để ngắm nhìn khu vực xung quanh. Chúng tôi chưa đi hết lối đi vào nhà thì Lilah trông có vẻ mệt rồi.

“Anh có kể với Ed và Will về em chưa?”

“Anh có nhắc đến em vào lễ Giáng sinh khi bọn anh nói chuyện,” tôi thừa nhận. “Nhưng… về mọi thứ khác… anh không thường nói với tụi nó tất cả những điều đó, nên không có cơ hội.”

“Anh nên gọi điện.”

“Tại sao?”

“Anh sẽ cần các chú ấy dù sớm hay muộn, Cal.”

Tôi chưa nghĩ đến điều đó.

“Cho đến lúc này anh vẫn ổn mà không có các chú ấy.”

“Các chú ấy thế nào?”

Nàng dừng lại để nghỉ và tôi cũng dừng lại theo quán tính. Trong hàng trăm giờ trò chuyện với nàng, tôi chỉ nhắc đến hai em trai một đôi lần. Tôi đá đá xuống nền lối đi rải sỏi khi Lilah tựa vào một cây bạch đàn, tay để sau lưng.

“Hai chú ấy không giống anh,” tôi nói. “Trước hết là không tẩy lông ngực.”

Nàng cười toe.

“Mấy tuần vừa qua anh cũng đâu có làm việc đó.”

Nàng nói đúng. Tôi có cảm giác mình đang dần trở thành ma sói. Lần cuối cùng tôi cắt tóc cách đây nhiều tuần và có cảm giác nó mọc tứ tung và dài ngoài tầm kiểm soát, cứ như cuộc sống của chúng tôi vậy.

“Lúc này anh có những ưu tiên lớn hơn. Và tiếp tục phát triển đáng sợ. Nhưng điều đó không quan trọng. Không, hai em trai anh…” Tôi tìm từ. “Hai chú ấy rất đàn ông. Em hiểu chứ?”

“Cơ bắp đầy mình.” Lilah nhướng mày nhìn tôi.

“Ngày trước anh vẫn xem hai chú ấy là đồ ngốc. Khi còn bé hai em trai anh lúc nào cũng nô đùa và đánh nhau; anh thì luôn chăm chỉ và tập trung. Trong khi anh đang học, tụi nó thường đấu vật với nhau hoặc tiếp mấy đứa con gái trong phòng ngủ cho đến khi bị mẹ bắt gặp và rượt đánh. Trong khi anh học và mãi đến khi vào đại học anh mới phát hiện ra bọn con gái thú vị thế nào.”

“Đó có thể là một điều tốt.” Nàng trầm ngâm quan sát tôi. “Hồi thiếu niên anh vụng về lắm nhỉ?”

Tôi bật cười.

“Ồ, em không biết đâu. Anh có cảm giác khi anh đi những khớp đốt ngón chân kéo lê trên đất đằng sau, không phải vì anh là một người Neanderthal cổ đại, mà bởi chân tay anh quá dài và anh mất nhiều năm để phát triển cân đối. Nhưng dù vậy những năm hai mươi tuổi anh bù lại thời gian đã mất với những cô gái, anh thề đấy.” Tôi nháy mắt với nàng và nàng nhướng mày nhìn tôi.

“Em tin chắc là anh đã như vậy. Nhưng anh không bao giờ cải thiện mối liên hệ với hai em trai trước khi hai chú ấy chuyển đi à?”

“Bọn anh không phải không hòa thuận, nên chẳng có gì gọi là cải thiện mối quan hệ cả. Chỉ là hai chú ấy quá khác biệt so với anh, nhưng lại rất giống nhau.”

“Họ làm nghề gì?”

“Ed rất mê thể thao. Chú ấy đang làm huấn luyện viên bóng đá ở Pháp theo một hợp đồng ngắn hạn thì gặp vợ và giờ chú ấy lập nghiệp ở đó luôn. Anh nghĩ chú ấy đang huấn luyện một đội nổi tiếng nào đó, không chắc lắm. Còn Will là một kĩ sư cơ khí; anh nghĩ chú ấy làm việc với động cơ xe hơi hay đại loại vậy.”

“Vậy là chú ấy thôi đấu vật đủ lâu để học gì đó.”

“Cả hai đều vậy. Ed có bằng về tâm lý học thể thao hoặc bằng vớ vẩn gì đó đại loại. Nhưng vấn đề là thế này: anh có thể cho em biết mười bảy cách để bán một chiếc xe và anh có thể lái xe, nhưng nếu nó gặp sự cố, anh thậm chí không biết cách thay lốp. Còn về thể thao, hừm, thỉnh thoảng anh có xem và anh thích bóng quần… Nhưng anh không thích thể thao.”

“Anh thích xem xét các bản phác thảo cho các mẫu quảng cáo, hoặc uống rượu ngon, hoặc cứ năm phút cắt tóc một lần để lúc nào cũng trông gọn gàng tươm tất.”

“Chính xác.”

Lilah bắt đầu lê chân lóng ngóng dọc lối đi vào nhà. “Anh có bao giờ nghĩ xem tên vợ của Ed là gì không?” Lilah hỏi khi tôi lại sóng đôi cạnh nàng.

“Karen.”

“Đâu nào! Em nhớ anh nói là Lizette hay Suzette gì đấy cơ mà?”

“Anh đùa đấy. Anh vẫn chưa biết.”

“Anh đúng là không ra gì.”

“Anh cũng từng bị nói vậy. Nhưng chắc chắn anh là một người dễ thương?”

“Tùy lúc.” Bước thêm vài bước xuống đường, nàng quay lại nhìn tôi nhíu mày. “Anh có bao giờ cố nghĩ xem vợ Ed tên gì không?”

Tôi nuốt khan. Khó nhọc.

“Lizette.” Tôi nói. “Anh khá chắc là Lizette.”