• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Từ ngày em đến
  3. Trang 6

Chương 3

Callum

Tôi bận điên cuồng. Như thường ngày. Các vị giám đốc thích vắt kiệt sức nhân viên với cả núi công việc và có thể đó là lý do tại sao tôi trung thành với Tison Creative từ khi thực tập đến giờ. Nhân viên cấp dưới luôn sẵn sàng và nếu bạn sống sót đủ lâu để leo lên chức vị cao hơn, thì áp lực trở thành một lối sống.

Tôi là kênh trung gian giữa bộ phận sáng tạo và kinh doanh tại Tison. Khi có công việc mới, chính tôi là người nhận điện thoại và sau đó là thuyết phục. Và tôi giỏi về chuyện đó, thực sự rất giỏi. Tôi thích đứng trong những căn phòng đầy những người mặc complet và cố thay đổi ý kiến của họ, theo đúng cách mà tôi thích điều hành những chiến dịch để thay đối ý kiến công chúng. Việc khiến mọi người đồng ý với mình là thứ gì đó rất dễ gây nghiện. Tôi thường tự hỏi, nếu sùng đạo, liệu tôi có thể là một trong những người truyền bá Phúc âm trên truyền hình, hướng mọi người đi theo cách nghĩ của mình?

Một khi chúng tôi đã đảm nhận một công việc thì vai trò của tôi là quản lý dòng chảy công việc đó suốt từ đầu quá trình cho đến hóa đơn cuối cùng. Tôi lờ đi những tin nhắn khó nhằn và ưu ái những tin nhắn có hy vọng. Thế nên, công việc của tôi chính là gửi email từ chối tất cả những đơn xin nghỉ phép trong suốt chiến dịch bầu cử, sa thải họa sĩ đồ họa bị bắt gặp đang tán gẫu trên các diễn đàn về bệnh vô sinh trong giờ làm việc và thông báo quyết định của ban giám đốc nhận công ty thuốc lá là khách hàng. Trong suốt thời gian làm việc tại Tison, nhiều lần tôi đi từ thang máy đến bàn làm việc của mình trong góc văn phòng mà chẳng hề có một người nào mỉm cười hay thậm chí gật đầu chào tôi. Tôi không đi làm để kết bạn và có thể đó là lý do tôi chỉ có duy nhất một người bạn ở đấy.

Tên cậu ta là Karl Dickson và cậu ta là một trong những nhà thiết kế lâu năm và là một anh chàng dễ mến toàn diện - rất được người khác yêu quý, làm bạn với bất kỳ ai, giỏi nhớ những chi tiết về cuộc sống của mọi người và thích tán chuyện với họ tại chỗ cây uống nước. Cậu ta đến Tison với tấm bằng chưa ráo mực cùng khoảng thời gian với tôi và chúng tôi cùng nhau đeo đuổi sự thăng tiến trong nghề nghiệp suốt mười tám năm qua. Karl làm bên mảng sáng tạo của bộ phận tiếp thị, có thể do vậy mà chúng tôi trở thành bạn – chúng tôi chưa khi nào cạnh tranh trực tiếp. Tôi hình dung nếu chúng tôi đấu đá nhau để dành một vị trí hoặc thậm chí một khách hàng vào những năm đầu, thì tình bạn của chúng tôi hẳn đã tan tành từ lâu. Thay vì thế, chúng tôi bên nhau gần hai thập kỷ của cuộc đời và mặc dù hiếm khi gặp nhau ngoài nơi làm việc vì cậu còn dành thời gian cho vợ con, cậu ta gần gũi với tôi hơn cả hai em trai tôi nữa.

Chúng tôi có một nghi lễ buổi sáng, khi lịch làm việc cho phép. Khoảng chín giờ đến chín giờ ba mươi, chúng tôi gặp nhau tại cái chậu cây buồn cười bên ngoài văn phòng của tôi. Đó là một cây cọ nhựa trong một cái chậu nhựa và tôi tin chắc ai đó nghĩ nó sẽ làm cho môi trường làm việc sinh động hơn, nhưng, ít nhất đối với tôi, nó đại diện cho mọi thứ khiến tôi khó chịu về Tison và công việc của chúng tôi ở đây. Cái cây đó chẳng bao giờ phát triển, nó cũng không chết được – có vẻ như nó chẳng có mục đích nào khác ngoài việc lấp đầy chỗ trống. Theo cách nhìn nhận đó tôi nghĩ nó là một nơi hoàn hảo để tôi có cuộc gặp gỡ với một đồng nghiệp mà tôi thực sự xem là bạn. Bên cạnh chậu cây là chiếu nghỉ cầu thang, nên chúng tôi sẽ đi mười tầng để đến quầy cà phê ở lầu dưới cùng của tòa nhà và nắm bắt bất kỳ tin tức nào trong ngày, liên quan đến công việc hoặc những chủ đề khác. Karl hiện có cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng ngày xửa ngày xưa chúng tôi có đi bar cùng nhau sau khi làm việc và rồi gặp lại ở chỗ chậu cây để kể cho nhau nghe những câu chuyện đã lượm lặt được đêm trước.

Dù vậy chúng tôi trưởng thành cùng nhau. Karl trở thành một người chồng yêu vợ và người cha thương con. Và tôi cũng trưởng thành, một cách thuần túy vì công việc chiếm hết tất cả không gian sẵn có trong cuộc sống của tôi và tôi không còn thời gian cho những trò chơi dành cho thanh thiếu niên. Ngoài ra, hiện tại, cho dù tôi có thể ăn tối hay tiến xa hơn nữa với một phụ nữ, bét ra tôi cũng đủ chín chắn để không khoe khoang khoác lác về nó.

Ấy thế mà buổi sáng sau cái đêm cùng với Lilah, những lời nói tuôn ra khỏi miệng tôi như nham thạch trào ra từ miệng núi lửa.

“Tối qua mình đã gặp một nàng rất tuyệt nhé.” Cánh cửa thậm chí còn chưa đóng lại sau lưng khi chúng tôi bước ra chiếu nghỉ cầu thang. Karl đi trước, sắp sửa bắt đầu một chuyến đi bộ dài xuống dưới, nhưng cậu ta ngoái lại nhìn tôi chằm chằm, nét mặt sững lại đâu đó giữa không tin và sửng sốt.

“Vào một ngày thứ Năm sao?” Cậu ta cười lớn. “Chẳng phải lẽ ra ông nên về nhà sau giờ làm sao?”

Karl bắt đầu đi xuống tầng thứ nhất, tôi đóng cửa lại và đi theo cậu ta.

“Mình gặp nàng trên phà. Nàng không đi giày ông ạ. Mình hỏi lý do. Rồi chúng mình nói chuyện với nhau. Đi ăn và kết nối theo một cách mà mình thậm chí không nghĩ là có thể. Rồi chúng mình trở về chỗ của mình. Sáng mình thức dậy thì nàng đã đi.”

“Đối với một kẻ thiếu hơi đàn bà đã lâu, trông ông không hạnh phúc lắm.”

“Nàng tuyệt không thể tả: thông minh, hóm hỉnh, đầy đủ mọi tố chất. Và rồi nàng cứ thế biến mất trong lúc mình còn ngủ.”

“Ông thì chưa từng là người biến mất đấy.” Karl so vai. “Ông lên giường với người ta, rồi ông không muốn có một buổi sáng ngượng ngùng sau đó. Với mình thì nghe có vẻ hai bên cùng có lợi.”

“Ngoại trừ việc mình chưa hỏi nàng địa chỉ liên lạc và mình đang nghĩ nàng không để lại gì có nghĩa là nàng không định gặp lại mình.”

Những lời nói của tôi vang vọng khắp cầu thang và tôi nghe giọng mình mới dằn dỗi làm sao. Khi cậu ta rẽ qua góc cua đầu tiên xuống tầng dưới, tôi thấy Karl ngoác miệng cười.

“Có người đang say nắng kìa.”

“Giờ thì chẳng biết làm sao.” Lúc này tôi rõ ràng hờn mát. Không cách nào giấu được.

“Hỏi bác Google xem.”

Tôi đã tra Google bằng điện thoại trên đường đi làm rồi. Rõ ràng hoặc Lilah Owens chỉ là một luật sư vô danh tiểu tốt, hoặc nàng đã cho tôi tên sai. Tôi nghi là vế sau. Lần tìm kiếm thứ hai, tôi nhanh chóng phát hiện sự phản đối kịch liệt của công chúng và tin tức về cái cây ở bãi biển Shelly đã được cứu, một nhóm luật sư đảm nhận nhiệm vụ đó cũng được nhắc đến, nhưng không thấy cái tên mà nàng cho tôi đâu cả.

“Lén lút vậy mình không thích,” tôi nói dối.

“Vậy kế hoạch của ông là gì nhỉ? Hy vọng tình cờ gặp lại nàng trên phà và nàng không nhảy xuống biển để tránh ông và kỹ năng làm tình dở ẹc của ông?”

“Vụ đó của mình ổn mà?”

Đó chính xác là kế hoạch của tôi. Thực tế, tôi đã tính đến bước kế tiếp của mình. Điểm giống nhau duy nhất giữa hai chúng tôi là đi phà hàng ngày, nên tôi định nấn ná ở bến phà và cố chạm trán với nàng lần nữa. Nếu có số điện thoại, hoặc tên thật của nàng thì đã dễ dàng hơn nhiều rồi, nhưng thiếu những thứ này tôi sẽ phải nhẫn nại đợi chờ cơ hội.

Buổi sáng cứ thế trôi đi, rồi tôi nghĩ đến buổi trò chuyện với Lilah về việc đi thăm em trai mình, Ed. Tôi mở mail và bắt đầu soạn thư cho chú ấy.

Tôi có một cô em dâu chưa từng gặp mặt, tên của cô ấy tôi còn chẳng nhớ và thật đáng xấu hổ là cô đã cưới em trai tôi nhiều năm nay. Hai vợ chồng đương nhiên có mời tôi dự đám cưới, nhưng đó là một cuộc tình nhanh như cơn lốc và hai đứa chỉ báo tin trước có vài tuần. Tôi lờ mờ nhớ mình đã cố tìm cách thoái thác vài việc ở công ty và khi nhận thấy nó bất khả, tôi đã thông báo cho Ed qua email rằng mình không dự đám cưới được. Tôi có cảm giác việc không thường xuyên giao tiếp của hai anh em chúng tôi trở nên rõ ràng hơn sau khi tôi vắng mặt ở đám cưới em trai mình.

Ed, anh thực sự cần đến thăm em và gặp…

Lizette? Suzette? Chết tiệt.

…vợ của em. Tới lúc nào thì được?

Tôi gửi email. Ed hồi đáp gần như ngay lập tức và gợi ý mấy tháng nữa khi châu Âu vào mùa đông và tôi rùng mình – còn quá lâu để tôi tìm cớ trì hoãn. Tôi chuyển tiếp mail đó cho William, em trai tôi ở Melbourne, với một lưu ý mập mờ về việc lúc nào gọi điện và có thể thu xếp đi Pháp với nhau.

Và rồi, cảm thấy như thể bét ra cũng đã hoàn thành một công việc buổi sáng, tôi đóng laptop và đi ăn trưa.

Có một trung tâm mua sắm dưới đất gần văn phòng của tôi và tôi gần như luôn ngồi ăn tại quán. Thường thì tôi đọc báo trong khi dùng bữa.

Tôi không chắc lý do mình đã làm điều gì khác thường vào hôm đó. Tôi nhớ bầu trời xanh vẫy gọi khi đi ra từ văn phòng để đến quán ăn và thế là thay vì ngồi lại, tôi lấy phần ăn trưa mang đi.

Tôi nghĩ mình sẽ đi ngược lại đường George Street và tìm một chỗ có nắng ở Martin Place, một quảng trường ngoài trời chỉ dành cho người đi bộ, xung quanh toàn là những tòa nhà sa thạch. Vài cái cây nhỏ trồng đây đó ven đường làm tôi lại nghĩ về Lilah. Tôi tự hỏi tại sao nàng thậm chí không buồn đánh thức tôi dậy trước khi rời đi. Tôi đã làm gì khiến nàng tổn thương sao? Tôi chắc chắn rằng nàng cũng cảm thấy sự kết nối giữa chúng tôi – tôi đã sai chăng? Hoặc nàng sẽ lại xuất hiện nếu thấy hứng thú? Tôi sẽ nghe tiếng điện thoại liên lạc nội bộ một đêm nào đó và phát hiện ra là nàng ở ngay bên kia cánh cửa như thể nàng chưa hề rời đi?

Mới đầu trông thấy Lilah bước ra khỏi taxi, tôi tưởng là mình nhìn nhầm. Có gần năm triệu người ở thành phố Sydney này; chắc chắn tôi sẽ không đủ may mắn để tình cờ gặp nàng hai ngày liên tiếp được. Nhưng đúng là nàng, ngay góc cua từ văn phòng của tôi, mặc complet xám sậm và tóc cũng được búi gọn gàng như hôm trước. Nàng bước ra khỏi taxi và bắt đầu sải bước thật nhanh về phía một hành lang.

“Lilah?”

Hai mắt Lilah mở to khi nàng ngoái người ra sau và tôi thấy nàng hít sâu. Tôi không chắc nét mặt nàng thể hiện điều gì, nhưng không phải là sự mừng rỡ; nếu phải đoán, tôi dám nói nó gần với sự thất kinh hơn. Tôi đột ngột hẫng đi, cảm giác như khi máy bay đụng phải một lỗ hổng không khí và lao xuống mà không hề có cảnh báo gì.

Hai người, một thanh niên và một phụ nữ, đang đi cùng nàng ở phía sau phải đột ngột dừng lại ngơ ngác. Xung quanh chúng tôi, tiếng ồn ào của thành phố vẫn tiếp diễn, còi xe inh ỏi và tiếng động cơ ầm ầm lướt qua. Nhưng hình ảnh của Lilah choán hết tầm nhìn của tôi và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là nếu hôm nay vẫn giữ thói quen ăn trưa tại chỗ, thì tôi đã bỏ lỡ khoảnh khắc tuyệt vời này.

“Đợi tôi ở phòng họp ban giám đốc nhé.” Giọng nàng sắc sảo và hai đồng nghiệp lẳng lặng làm theo. Và rồi chỉ còn lại hai chúng tôi – ít nhất là có cảm giác như vậy, cho dù George Street là con đường tấp nập nhất của thành phố.

Chúng tôi cứ thế nhìn nhau lâu hơn mức cho phép. Rõ ràng Lilah đang cố nghĩ xem nên nói gì. Liệu có đáng xấu hổ không khi thừa nhận tim tôi đang đập nhanh với phản ứng chiến-hay-chạy? Tôi không sợ sự chạm trán và cũng chưa từng sợ. Tôi không sợ tranh luận, mà là sợ bị khước từ. Sợ đến toát mồ hôi lạnh.

“Tôi đã có lần gặp người phụ nữ này trên một chuyến phà,” tôi nói, hay đúng hơn là buột miệng thốt lên, chỉ để kết thúc khoảnh khắc căng thẳng kéo dài này vì một trong hai người phải có người lên tiếng trước. Lilah nhướng mày.

“Vâng.” Nàng không ngạc nhiên. Không ấn tượng. Và, tệ hơn cả, là nét mặt vẫn không chút biểu cảm. Tôi tiếp tục lấn tới.

“Cô ấy rất tuyệt. Đêm tuyệt vời nhất đời tôi. Thế rồi cô ấy biến mất.”

“Câu chuyện buồn quá nhỉ.”

“Vẫn chưa tệ nhất đâu. Tôi khá chắc là cô ấy cho tôi tên giả.”

“Tinh quái nhỉ.” Lilah không phủ nhận và không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên khi tôi nghi ngờ sự lẩn tránh của nàng. Nàng tặc lưỡi cảm thông đầy mỉa mai. “Anh tổn thương lắm nhỉ. Tôi hi vọng là anh đã phục hồi.”

“Khó nói lắm. Tôi vẫn còn rất buồn nhưng ít nhất vẫn chưa quên ăn.”

“Hãy cho tôi biết, Ngài…?”

“Em có thể gọi tôi là Ngài Cô đơn,” tôi nói. Tôi nhận thấy nàng thích thú trò chơi của tôi. Thế có nghĩa là dù Lilah khoanh tay ngang ngực với dáng điệu nghiêm túc và mím môi cương nghị, nàng không hoàn toàn đóng cánh cửa trước tôi.

“Ngài Cô đơn. Hãy cho tôi biết, anh và người phụ nữ tuyệt vời kia đã bàn bạc một tương lai sáng lạn với nhau chưa?”

“Tôi tưởng có ít nhất một phân tích nào đó về khả năng thành công của một tương lai như thế được bảo đảm.”

Nàng nhướng mày.

“Anh có chắc anh không phải là luật sư không?”

“Tại sao em lẻn đi trong lúc tôi còn ngủ?” Tôi nghe rõ sự thất vọng trong giọng nói của mình và biết cần phải kiểm soát nó. Lại một quãng im lặng, lần này ngắn hơn, nhưng lại một lần nữa đầy ngượng ngập vì Lilah rõ ràng đang tìm cách để “thoát” tôi.

“Tôi đã bảo hôm nay tôi có phiên xử. Tôi phải rời sớm để chuẩn bị, để bù lại một đêm “buông tuồng” với anh thay vì đọc tài liệu.”

“Vậy tại sao em cho tôi tên giả?”

“Tôi luôn cho tên giả cho những người đàn ông tôi tình cờ làm quen trên phà. Để nếu tôi không muốn gặp lại họ thì cũng dễ tránh.” Lilah nhoẻn nụ cười hớp hồn và tôi gần như có thể bỏ qua cho nàng ngay lúc ấy. Những lời nói của nàng chìm nghỉm. Tôi không muốn cuộc nói chuyện này chỉ cho vui nữa. Tôi muốn câu trả lời.

“Em thực sự là không muốn gặp tôi nữa chứ?”

“Tôi đâu có nói thế,” Lilah nghiêm túc chỉnh tôi. “Tôi nói tôi cho anh tên giả trong trường hợp tôi không muốn gặp lại anh cơ mà. Chúng ta đã có một đêm tuyệt vời.”

“Em đang biện hộ đấy à?”

“Callum,” nàng thở dài sốt ruột. “Tôi quả thực không thuộc tuýp người dành cho một mối quan hệ nghiêm túc. Tôi nghĩ nó sẽ giống hệt như bóc toạc miếng băng cá nhân ra vậy.”

Ngày hôm nay quá đẹp để dành cho một cuộc trò chuyện có khả năng khiến ta đau khổ như cuộc trò chuyện này, nhưng ngay cả hơn thế, tôi cũng nhận ra vẻ đẹp của nó. Tôi đã sống quá lâu theo kiểu chiếu lệ chứ không chân thành hay nghiêm túc, ngày tuần tháng năm nối tiếp nhau trôi qua trong sự đơn điệu. Thế nhưng ngày hôm nay khác với ngày hôm qua; vòng lặp đã bị phá vỡ. Tôi muốn chỉ ra những điều này cho Lilah thấy và khiến nàng ấn tượng về những suy nghĩ sâu sắc của tôi. Thay vì thế, tôi biết mình đang cố giành lấy cơ hội để chia sẻ những điều như vậy với Lilah và được nàng chia sẻ những suy nghĩ cũng lộn xộn như vậy với tôi. Tôi sẽ lấy những gì tôi có thể nhận, từ người phụ nữ này và cả cuộc nói chuyện này, thậm chí chỉ cần thỉnh thoảng đi cà phê với nhau, hoặc hứa mỉm cười chào nhau mỗi khi thấy trên phà.

Cuộc gặp gỡ này phải kết thúc bằng cơ hội cho sự kết nối tiếp theo.

Phải như thế.

Lilah chuyển sự chú ý sang cánh cửa xoay bên cạnh chúng tôi và tôi cũng liếc sang đó. Davis McNally. Chỗ này là nơi làm việc của Lilah, hay nàng đến đó để họp thôi?

Đây là lúc dùng đến một cách tiếp cận khác, trước khi nàng bước qua cánh cửa và mãi mãi biến mất khỏi cuộc đời tôi.

“Tôi nghĩ là,” tôi nói khẽ, “em sợ.”

“Chút thôi,” Lilah thừa nhận một cách dễ dàng. Tôi lại bất ngờ và nàng so vai. “Tôi đã bảo anh rồi, chúng ta đã có một đêm tuyệt vời bên nhau. Chúng ta thực sự đã kết nối và anh đúng, trước giờ tôi chưa từng tâm đầu ý hợp với ai cả. Nhưng như tôi đã nói, Callum,” nàng hít một hơi dứt khoát. “Tôi thực sự không thuộc tuýp người dành cho mối quan hệ nghiêm túc đâu.”

“Được rồi, Lilah,” tôi dừng lại. “Có phải Lilah không?” Nàng ngập ngừng và tôi quyết định lấn tới. “Vậy ta thỏa thuận thế này nhé. Hãy ăn tối với tôi và tôi sẽ để em yên.”

“Anh đã có một lần rồi.”

“Một lần nữa.”

“Anh chắc chắn sẽ để tôi yên – anh không có lựa chọn nào khác; anh có biết danh tính của tôi đâu nào,” Lilah nhấn mạnh. Trước khi tôi kịp nghĩ mình nên nói gì tiếp theo, thì nàng tiếp tục với giọng điệu mà tôi cho là cương quyết nhất của mình, “Vậy cái thỏa thuận kia thật vớ vẩn, bởi vì tôi đã cho anh những gì anh muốn. Không, anh sẽ phải chỉ rõ những cái lợi của nó. Hãy cho biết lý do tôi nên đi ăn tối với anh lần nữa.”

Bởi vì tôi cần biết về nàng. Bất kể thế nào, suốt quãng đời còn lại tôi cũng sẽ tự hỏi đêm qua mình đã cảm thấy thế nào.

“Tôi cũng chẳng phải tuýp người phù hợp cho các mối quan hệ nghiêm túc đâu.” Tôi xách mé một chút. “Tôi không định tìm vợ. Tôi thậm chí không định đi tìm bạn gái. Tôi chỉ muốn quen em một thời gian thôi. Hết.”

Nàng không có vẻ gì ấn tượng.

“Một bữa tối nữa thôi.” Tôi đang khẩn nài phải không? Chắc chắn giọng tôi nghe giống thế thật. “Có thể em sẽ làm tôi chán đến phát khóc và lần tới chúng ta tình cờ gặp nhau trên đường George Street tôi sẽ nhảy ra trước một chiếc xe buýt để tránh nói chuyện với em.”

Lilah đang nhìn chằm chằm xuống khoảng đất bên cạnh tôi, chắc là đang nghĩ về lời đề nghị vừa rồi. Tôi giống hệt một đứa bé háo hức đợi sự tán thành và chấp nhận và thực sự là nín thở trong khi nàng suy tính trong đầu.

“Một bữa tối nữa thôi nhé,” Lilah đồng ý. Tôi mỉm cười với nàng. Nàng bĩu môi và chau mày. “Không được dây dưa đâu đấy.”

“Tôi chỉ mỉm cười. Dây dưa là thế nào?”

“Vậy tối nay nhé,” Lilah thở ra, như thể nàng đang hàm ý chúng tôi đã hoàn thành một nhiệm vụ đáng ghét, nhưng tôi bất giác nhận ra rằng nàng cũng phấn khích về nó giống như tôi. Không phải trong giọng nói của nàng, nhưng chắc chắn là trong mắt nàng, có cảm giác nhẹ nhõm khi chúng tôi đã tìm thấy nhau. “Lần này anh chọn nhà hàng nhé và tôi sẽ cố đi giày tử tế.”

“Đồng ý,” lúc này tôi đã bớt phấn khích và có thể nói bình thường trở lại. “Vậy chính xác tôi sắp hân hạnh đi ăn tối với ai đây?”

“Lilah,” nàng nói giọng chắc chắn. “Lilah sẽ gặp anh trên chuyến phà năm giờ chiều nay.”

“Thế nếu tôi bị sái chân và không đến được thì sao? Làm sao tôi liên lạc được với em?”

“Hãy nhờ một nhân viên của anh gửi lời nhắn đến cho tôi.” Lilah lại liếc mắt về phía cửa xoay và tôi biết mình chỉ may đến thế thôi. Không, nhất định phải tìm cho ra tên thật của nàng. Nhưng thế là được rồi. Tôi có thể kiên nhẫn, miễn là có cơ hội. “Tôi xin lỗi, Callum, tôi thực sự phải đi rồi. Chúng tôi đang nghỉ giải lao giữa phiên tòa, tôi cần trở lại chỗ đồng nghiệp của mình và chuẩn bị cho phiên họp buổi chiều. Gặp lại anh lúc năm giờ nhé?”

“Nhớ đấy,” tôi nói và Lilah gật đầu cộc lốc rồi biến mất đằng sau những cánh cửa xoay. Tôi dõi theo nàng rồi quay trở về văn phòng, cười rộng miệng đến mức cảm thấy được hai má căng ra.

Giờ thì chẳng thể tập trung vào công việc được nữa. Tôi ngồi trong văn phòng với đống giấy tờ trước mặt mà tâm trí cứ vẩn vơ tận đẩu tận đâu.

Khi kim giờ đồng hồ rốt cuộc cũng chỉ đến số bốn, tôi tạm gác công việc của ngày lại và rời văn phòng. Tại sao ư? Tôi đã nói với Lilah về việc Sydney đã tiếp sinh lực cho tôi và có điều gì đó đặc biệt gây cảm hứng vào những buổi chiều thứ Sáu. Điều đó hẳn phải là việc có quá nhiều người đều đang hối hả - về nhà, tới quán bar, đến công viên. Tôi bị lẫn trong đám đông và bỗng trở nên nổi bật khi tôi bẻ trộm vài cành hoa từ một cửa sổ. Có thể cử chỉ đó kỳ quái và cổ lỗ sĩ, nhưng tôi cần bằng cách nào đó thể hiện cho Lilah thấy tôi hoàn toàn bị nàng lôi cuốn.

Lúc năm giờ, tôi đang đợi chỗ cửa quay thì Lilah xuất hiện. Còn lâu trời mới tối hẳn nhưng những cái bóng đã bắt đầu dài ra, một cơn gió mát lạnh thổi vào từ cảng. Nàng để tóc xõa và gió khiến nó bay bay. Tôi phải nhắc mình thở đều. Chết thật. Giờ tôi mới sực nhớ mấy người làm bên môi trường có thể không ủng hộ việc bẻ hoa vô tội vạ. Tôi thấy nàng đang rảo bước về phía mình và tôi tính đến việc ném đại bó hoa trên tay vào sọt rác gần nhất.

Quá trễ. Nàng đã đứng trước mặt tôi.

“Anh mua hoa cho tôi đấy à,” Lilah nói. Nàng vui đến mức kinh ngạc. May thật. “Đẹp quá. Cảm ơn anh, Callum.”

Tôi phải hắng giọng mới nói được.

“Em nói sẽ đi giày. Có vẻ đây là điều bét nhất tôi có thể làm.”

Lilah toét miệng cười và trước niềm vui sướng của tôi nàng nhón chân hôn lên má tôi. Tôi ngửi được mùi dầu gội của Lilah khi nàng chạm vào tôi. Chanh? Chắc chắn là mùi đặc trưng của dân hippy. Cát và nước biển hồi đêm qua thực sự đã trôi sạch mất rồi.

“Ăn tối ở đâu đây? Hy vọng là nơi nào đó ấn tượng hơn cái chỗ dở ẹc hôm trước nhỉ.” Nàng trêu và tôi thích như vậy.

“Hôm nay em không thể bỏ một bữa chay được sao?

“Xin lỗi, tôi không thể.”

“Tôi đoán thế có nghĩa là nhà hàng thịt nướng toi rồi.” Tôi chỉ ngược lại hướng mà từ đó nàng đi tới. Lilah có vẻ ngạc nhiên.

“Vậy sẽ ăn ở thành phố hả?”

“Chuẩn bị bất ngờ đi.”

Tôi đã tìm được một nhà hàng chay ở Surry Hills có vài đánh giá cao trên mạng và khi chúng tôi ngồi bên nhau trên băng ghế sau taxi, Lilah liến thoắng tán chuyện trong ngày. Người phụ nữ nghiêm nghị tôi gặp trên đường George Street đã biến mất, thay vào đó là cô gái có tinh thần phóng khoáng khiến tôi đắm say vào đêm hôm trước.

“Luật pháp giống như kiểu chơi một trò chơi với rất nhiều quy tắc. Anh phải dành nhiều năm học hành chỉ để đi được một bước, rồi tại một thời điểm anh chơi hàng tháng trời trước khi có bất cứ điều gì xảy ra tiếp theo.”

“Đó là phép loại suy tuyệt vời. Tôi cũng đã từng học chuyên ngành luật hồi đại học,” người lái xe taxi chen vào.

“Thật sao! Làm thế nào anh lại trở thành tài xế taxi vậy?”

“Thì cũng giống như trò chơi thôi vài người nắm luật giỏi vài người không. Những người không giỏi thì không đậu kì thi Bar7 và ăn bám cha mẹ suốt mười năm trước khi mua được cho mình một chiếc taxi và tự vác xác ra đường kiếm sống.” Người lái taxi và Lilah cười lớn. Tôi kinh ngạc trước khả năng giao tiếp linh hoạt của nàng – với một nhóm người nhỏ trên phà trong cuộc trò chuyện đầu tiên của chúng tôi, với anh chàng phục vụ trong quán pizza và giờ với người này - đó là chưa kể đến tôi. Mỗi người Lilah gặp đều có khả năng trở thành bạn mới hơn là người lạ. Tôi tự hỏi sẽ như thế nào khi có cuộc sống phóng khoáng như thế.

7 Kì thi sinh viên luật phải thi để trở thành luật sư.

Lilah chưa từng đến nhà hàng tôi chọn và có vẻ ấn tượng khi tôi tìm ra nó. Sự hí hửng vụt tắt khi tôi cầm thực đơn lên.

“Đậu tương lên men là cái quái gì thế?” Trang web của nhà hàng cho biết họ chuyên đồ ăn chay kiểu Úc, nhưng theo tôi phân nửa các món ở đây lại toàn kiểu Hy Lạp.

“Đậu nành lên men.”

“Nghe ngon đấy.” Tôi gấp thực đơn lại kèm theo một cái rùng mình. “Hay là em cứ giải thích món này là gì đi và gọi cho tôi thứ gì tôi thực sự nhận ra ấy?”

Và thế là, cùng chai vang đỏ, chúng tôi dùng chung với nhau nhiều món. Một món có tên là bít tết cải hoa – một cái tên rất dễ hiểu sai, bởi vì về cơ bản nó chỉ là những miếng súp lơ trắng được cuộn trong thảo mộc và ướp những miếng gluten8 với nhiều loại rau củ xào.

8 Một loại protein trong lúa mạch, lúa mì…

“Gluten tốt cho sức khỏe chứ?”

“Miễn là anh đừng có bệnh về đường ruột thì không sao,” Lilah nhăn mặt hóm hỉnh.

Tóm lại, thức ăn tạm được – nhưng người ăn cùng thì tuyệt không thể tả.

“Em kể đã chuyển chỗ rất nhiều lần nhỉ,” tôi gợi chuyện. Lilah đang chống khuỷu tay lên mặt bàn và thỉnh thoảng tôi thấy nàng quấn một món tóc quanh ngón tay rồi duỗi nó trở lại xuống bờ vai. Nàng rất thoải mái và thích nói chuyện và tôi lại thích thú khi được ánh mắt nàng dành trọn sự chú ý cho mình.

“Mẹ tôi thuộc tuýp người tự do phóng khoáng. Tôi sinh ra ở Ấn Độ, nhưng đến năm mười ba tuổi thì nhà tôi đã sống đến tận bảy quốc gia.”

“Chà!”

“Chà chứ còn gì nữa,” nàng cười khúc khích trước sự kinh ngạc của tôi. “Nghe thế chắc anh sửng sốt lắm nhỉ, Ngài- chỉ-có-mỗi-một-phòng-ngủ-cho-đến-năm-mười-tám.”

“Sửng sốt là từ sai. Sốc thì đúng hơn.”

“Có gì đâu. Tôi có vài trải nghiệm tuyệt vời, nhưng khi tôi sắp sửa lên trung học, thì cha mẹ tôi sực nghĩ rằng tôi gần như không thể đọc và không biết cách để duy trì tình bạn với những người cùng lứa.”

“Dựa vào nghề nghiệp hiện tại của em, tôi đang nghĩ em đã học đọc. Vậy là họ lập tức sống ổn định một chỗ?”

“Không hề,” Lilah lại cười vang và cầm ly rượu lên. “Họ để tôi lại cho ông bà ngoại. Cha cũng đồng bóng phù phiếm hệt như mẹ vậy, nhưng suy cho cùng ông quen với việc làm như được bảo.”

“Họ làm nghề gì? Sao có thể di chuyển liên tục như vậy được?”

“Mẹ là nhạc công. Thực ra là ca sĩ và hát khá là hay, nhưng bà cứ mãi chạy theo những cơ hội lớn cho đến vài năm trước. Bà cứ dành một học kỳ ở chỗ này và một học kỳ ở chỗ nọ, dạy học hoặc đóng kịch hoặc đăng ký tham gia những cuộc thử giọng triền miên. Đừng hiểu sai nhé; bà có vài lần thành công vang dội đấy – nhưng đồng thời cũng có vài lần thất bại thảm hại, như cái năm chúng tôi ở Hollywood ấy. Cả năm đó, bà hầu như ngày nào cũng đi thử giọng mà không có nổi lấy một lần được chọn. Nên chúng tôi lại đi. Mặt khác, cha là một người làm vườn giỏi và ông bét ra cũng mang về một ít tiền ngay cả khi bà không thể.”

“Đó là một kết hợp thú vị. Hai người gặp nhau thời còn đi học à?”

“Không. Cha lớn hơn mẹ vài tuổi; họ gặp nhau khi ông đến làm việc tại nhà ông bà ngoại tôi. Ông ngoại thuê cha chăm sóc vườn cây ăn quả một mùa xuân nọ và cha mẹ rất tâm đầu ý hợp. Cha thích luôn tay luôn chân, nên cho dù ở đâu ông cũng đều tìm gì đó làm để kiếm tiền, cho dù là đóng gói thành phẩm.”

“Thế ông bà ngoại của em thì sao? Nghe có vẻ cũng giống dân hippy hả?”

“Ồ, bậy nào, không. Họ thuộc tuýp người bình thường – tốt bụng và trung thực. Họ sống trên một mảnh đất lớn gần Gosford. Họ thực sự thất vọng với lối sống của cha mẹ tôi nên không gì khiến họ vui hơn việc có thể đón tôi về sống chung dưới sự bảo bọc của hai người. Họ là những người kiên nhẫn nhất tôi từng biết. Bà ngoại kèm cặp cho tôi khá nhiều cho đến khi tôi có thể tự mình học ở trường và ông ngoại là người thông minh và nhẹ nhàng kinh khủng. Ông cũng là một luật sư thành công nữa. Ông là hội viên của bệnh xá ở Gosford, nên tôi dành khá nhiều thời gian ở đó sau giờ học đợi ông và phải lòng ngành luật.” Nàng so vai. “Cái còn lại là lịch sử.”

“Em thường gặp mẹ không?”

“Tôi nói chuyện với mẹ gần như hàng ngày và tôi cũng khá thường xuyên về thăm nhà ở Gosford. Mẹ và tôi thực sự gần gũi.”

“Em không ghét…” Tôi ngập ngừng. Lilah lắc đầu; không đợi tôi nói hết câu.

“Không. Có thể khi còn trẻ thì tôi ghét mẹ thật, nhưng cuộc sống quá ngắn ngủi để ta giữ mãi trong lòng thứ cảm giác đó. Họ đã có vài lựa chọn nực cười, nhưng, Chúa ơi, tôi cũng vậy. Tôi chỉ là không có một đứa con để khiến nó tổn thương thôi.”

“Chưa chứ?”

Lilah lại lắc đầu.

“Tôi không định có con.”

“Tại sao không?” Tôi hỏi.

Tôi cũng không chắc mình muốn có con, nhưng tôi biết chắc mình sẽ muốn cân nhắc về điều này khi tôi ở trong một mối quan hệ ổn định. Nếu chúng tôi tiến xa đến đó, thì có thể tôi sẽ khiến nàng đổi ý. Lilah bĩu môi. Tôi thấy vết nhăn hình thành giữa hai mắt khi ánh nhìn của nàng trở nên sắc lại. Nàng thậm chí không thích câu hỏi.

“Có phải ai cũng muốn có con đâu,” rốt cuộc nàng nói. “Hầu hết mọi người đều muốn.”

“Nhiều người không. Và không thiếu những lý do xác đáng để một người chọn không có con.”

“Tôi đồng ý. Tôi chỉ thắc mắc không biết lý do của em là gì.” Tôi so vai. “Tôi không nói tôi muốn có con, nhưng tôi biết tại sao mình lưỡng lự.”

“Trẻ em mang lại thảm họa cho môi trường.”

“Chủ yếu là bởi vì chúng sẽ trở thành người lớn, đúng không?”

“Chính xác. Và đã có quá nhiều người lớn rồi. Không chỉ là… tôi không biết nữa. Chỉ là một quyết định tôi đưa ra cách đây đã lâu và tôi hoàn toàn hạnh phúc với điều đó. Anh thì sao?”

“Tôi không định lập gia đình, nhưng nếu tôi có thể ổn định với một ai đó, thì có thể tính đến việc sinh con.” Tôi so vai. “Tôi đương nhiên không đành lòng đối xử tệ với chúng. À mà em bao nhiêu tuổi?”

“Đoán xem.”

“À, thú thật với em, tôi khá giỏi đoán tuổi và tôi cảm thấy tối nay đang diễn ra khá suôn sẻ và tôi không muốn phá hỏng nó bằng việc đoán đúng.”

Lilah cười toe.

“Anh bao nhiêu?”

“Tôi gần bốn mươi.” Không già lắm. “Tôi đoán em ba mươi chứ gì.”

Nàng bật cười.

“Thôi nào. Đó thậm chí không phải là một phỏng đoán thuyết phục.”

“Ba mốt.”

“Kiểu này chắc anh phải đoán đến chín lần nữa mới đúng được quá.”

“Hai hai?” Nàng lại cười toe.

“Gợi ý nhé. Chúng ta gần bằng tuổi nhau đấy. Anh sinh tháng mấy?”

“Mười hai.” “Đầu hay cuối?”

“Thực ra là đêm giao thừa.”

“À, mẹ sẽ nói chúng ta là một cặp đôi rất tồi.”

“Sao thế? Liên quan đến cung hoàng đạo à?”

“Vì anh nhỏ hơn tôi.”

“Em sinh ngày mấy?”

“Hai mươi ba tháng Bảy.”

“Vậy là vừa sinh nhật xong.”

"Đúng rồi.”

“Thế có nghĩa là tôi nhỏ hơn em năm tháng?”

“Năm tháng thì vẫn cứ nhỏ hơn. Vậy là tôi hơn bốn mươi còn anh thì gần thôi nên…” Nàng so đôi vai gầy. “À, tôi đã đồng ý đi ăn với anh thêm một bữa. Tôi đoán giờ là lúc kết thúc rồi.”

“Em đùa đấy à?” Tôi hy vọng Lilah đùa, nhưng nét mặt nàng không cảm xúc. Thình lình nàng cười toe.

“Chỗ anh hay chỗ tôi đây?”

Tôi không chậm lấy một giây nào.

“Chỗ em.”

“À,” tôi có thể nhận ra Lilah ngay lập tức hối tiếc về lời đề nghị. “Có phải bây giờ là lúc lý tưởng để củng cố lại quyết định của chúng ta về chỉ một buổi tối?”

“Em có thể nhắc tôi vào sáng mai,” tôi gợi ý khi ra hiệu cho người bồi bàn mang hóa đơn đến.

Căn hộ của Lilah biến chỗ ở đang sửa chữa dang dở của tôi trông như một căn lều. Nó chỉ cách chỗ của tôi vài dãy nhà, nhưng trong khi căn hộ của tôi nằm ở tầng trệt của một tòa nhà gạch đỏ kiểu những năm 70, thì căn hộ của nàng trên tầng thượng của một tòa nhà mới xây ngay bên bờ biển. Nhà bếp của tôi nhìn ra một con đường nhỏ, trong khi ban công của Lilah lại nhìn xuống những tán thông nằm trên bãi biển Manly.

Căn hộ của Lilah đẹp, dù vật dụng trong nhà lộn xộn giữa kiểu hiện đại và cổ điển. Những viên đá lát sáng bóng, trường kỉ bằng da đỏ chói trên có đặt những chiếc gối Peruvian nhiều màu. Giấy dán tường là những đường kẻ hình chữ V đen trắng hiện đại trang trí bên kia tường phòng khách, nhưng phía bên này được đính lộn xộn những khung ảnh của Lilah và những phong cảnh đồng quê trên thế giới. Phần họa sĩ trong tôi hơi co rúm lại một chút với cái hỗn độn của tổng thể, nhưng phần còn lại thì hài lòng. Tôi đang ở nhà nàng – và điều đó có nghĩa là tôi biết nơi nàng sống.

“Khi đưa ai đó về nhà, anh có bao giờ cảm thấy sự thay đổi gì không?” Lilah đi thẳng đến nhà bếp lấy hai chiếc ly và một nửa chai vang. “Ý tôi là, giờ anh đang ở đây. Tôi là chủ nhà, hay tôi là người tình? Tôi mời anh ăn chút gì đó, hay cởi đồ anh ra?”

“Em cứ làm điều mình muốn,” tôi nói, điềm nhiên nhất có thể bởi đang mường tượng trong đầu ý tưởng nàng vừa đưa ra.

Lilah đi ngang qua tôi, về phía mấy cái trường kỉ đỏ chói và tôi để ý chân nàng.

“Em cởi giày rồi kìa.”

“Đương nhiên,” nàng đặt chai lên mặt bàn kính và ngồi cuộn tròn thoải mái trong góc trường kỉ hình chữ L. “Anh thì không cởi giày ra khi ở nhà à?”

“Có… nhưng…” Tôi bật cười và lắc đầu, “tôi thậm chí không để ý em đã cởi giày.”

“Tôi thường làm hai việc khi đi đến cửa trước,” nàng bảo. “Cởi giày và cởi nịt ngực. Lý do duy nhất tôi không làm vế sau là tôi nghĩ lát nữa anh muốn tự mình làm lấy.”

“Em thật tử tế.”

“Tôi cố.”

“Vậy tối qua rất tuyệt,” tôi ngồi trên trường kỉ bên cạnh nàng và với lấy ly rượu.

“Vâng,” Lilah tán thành.

“Tôi đã bối rối khi sáng dậy thấy em biến mất.”

“Và tôi bối rối khi anh sống mà không có một căn bếp thực sự.” Tôi để ý thấy nàng làm chệch hướng câu hỏi của tôi và trong một lúc tôi nghĩ cách cố lái câu chuyện trở về hành động cứ thế ra về mà không thèm chào hỏi ai của nàng sáng sớm hôm nay. Dù vậy tôi không muốn cuộc nói chuyện trở nên kém tự nhiên. Tôi đang ở nhà nàng, chẳng phải thế là đã đủ rồi sao?

“Tôi sẽ làm mới nó.”

“Như anh sẽ đi Paris?”

“Chính xác.”

“Anh định làm gì nữa?”

“Chẳng lẽ em không có một danh sách công-việc-đang- tiến-hành à?” Tôi so vai.

“Công-việc-đang-tiến-hành của tôi bây giờ là uống hết chỗ rượu này. Nó bằng thời gian tôi để mọi thứ dang dở trước khi hoàn thành chúng.” Nàng nhấp một ngụm rượu rồi liếc nhìn tôi. “Có thể tôi hiểu được rằng anh quá bận rộn nên không đi thăm em trai mình được. Nhưng nói một cách nghiêm túc này, căn hộ của anh ấy? Bận đến mức không làm nốt cho xong được à?”

“Tôi mua chỗ đó bởi vì tôi nghĩ đó là một dự án cuối tuần thú vị. Tôi định dành thời gian ban đêm để lát sàn.”

“Nhưng?”

“Nhưng rồi tôi mua gạch lát phòng tắm về và phát hiện ra chúng không hợp,” tôi thở dài. “Màu quá ấm so với màu sơn đã mua trước đó, nên tôi mang đi trả và lấy vài mẫu về thử lại.”

“Ổn chứ?”

“Không, tôi mang cả mớ gạch mẫu về so nhưng cũng chẳng mẫu nào thích hợp. Và đến lúc đó tôi hết hứng thú với phòng tắm và bắt đầu “tấn công” nhà bếp. Tôi chỉ muốn nó trông đâu ra đó. Một dự án còn ý nghĩa gì nếu nó không hoàn hảo? Vả lại, tôi vẫn có mọi thứ tôi cần ở đó, đâu cần vội làm gì.”

“Điều làm tôi sửng sốt nhất về chỗ ở của anh là nó thực sự thảm họa. Nhìn thì trông như anh đang làm nhà nửa chừng, nhưng lại không thấy một hạt bụi nào.” Lilah bật cười. “Đừng ‘soi’ nhà tôi nhé, tôi sẽ xấu hổ đấy; tôi chỉ rửa chén bát khi không còn cái nào.”

“Rõ ràng đó là những công việc lớn tôi không tìm đâu ra thời gian để hoàn thành. Tôi không thích bừa bộn.”

“Thủa bé, có giai đoạn tôi mơ lớn lên sẽ làm nghề lau dọn, giờ nghĩ lại thấy thật buồn cười vì ngay cả chỗ ở của mình tôi còn không giữ cho sạch được nữa là,” Lilah nói. “Năm tôi bảy, tám tuổi gì đó, gia đình tôi đang sống ở New York và bà chủ của cha tôi nuôi một quản gia trong nhà. Tôi thường đi với cha đến chỗ làm và trong khi ông chăm sóc vườn, tôi ngồi trong ngôi nhà rộng lớn đó và quan sát người quản gia đi tới đi lui làm mấy công việc lặt vặt nhàn tản. Bà ta phủi bụi luôn tay… phủi từ cửa trước đến cửa sau suốt tuần và rồi lại làm lại từ đầu. Căn nhà như một lâu đài so với những căn hộ một phòng chúng tôi vẫn ở và đồ nội thất đẹp chưa từng thấy. Tôi không tưởng tượng nổi mình có đủ tiền để mua những thứ đó, nên tôi nghĩ… ‘Chà, nếu tìm được một công việc trong nhà, ít nhất mình được thấy những món đồ đẹp đẽ này.’”

“Căn hộ của em tuyệt đấy chứ,” tôi bảo. “Em có ước mình quay lại thời gian đó và mang cô bé Lilah bảy tuổi trở lại đây chơi không? Cô bé chắc sẽ ấn tượng lắm đấy.”

“Không đời nào. Tôi sẽ để con bé ở yên đó.” Lilah lắc đầu quầy quậy. “Tôi không muốn Lilah bảy tuổi biết được cuộc đời mong manh như thế nào, hoặc những thứ đẹp đẽ đó gây thất vọng ra sao, hay thậm chí những thập kỷ tiếp theo sẽ hỗn loạn như thế nào với con bé. Anh có thể tưởng tượng mình đủ ngây thơ để nghĩ rằng một quản gia sống chung nhà với chủ, được trả lương thấp so với mức đáng được nhận, lại là công việc tuyệt vời nhất thế gian không? Không bao giờ tôi muốn đánh mất những khoảnh khắc đó hoặc những suy nghĩ giản đơn đó vì bất kỳ điều gì cả. Những năm tháng đó là một trong những quãng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi.”

Lilah đột ngột nhìn sang tôi thăm dò.

“Anh có mơ mình sẽ trở thành một chuyên gia về tiếp thị khi ở vào tuổi ấy không?”

“Không,” tôi nhăn mặt. “Em có nhớ khi còn bé mọi người thường hỏi em muốn làm gì khi lớn lên không? Tôi từng ghét câu hỏi đó. Tôi luôn có cảm giác như người lớn muốn chế giễu tôi khi họ hỏi tôi câu đó. Tôi biết tôi sẽ không phải là một phi hành gia, hoặc lính cứu hỏa, hoặc một tay đua xe tốc độ.”

“Thế anh muốn gì?”

“Khai thật?” Tôi nhìn vào chất lỏng màu mận chín trong chai vang, rồi trở lại ánh mắt màu xanh của nàng. “Hơi ngượng một chút, nhưng tôi muốn làm nhiếp ảnh gia. Cha tôi làm việc cho một tờ báo, thỉnh thoảng tôi đến đó cùng ông và mấy chú nhiếp ảnh cho tôi xem máy ảnh của họ. Tôi nghĩ đó là công nghệ bí hiểm nhất – tóm bắt một khoảnh khắc và khóa nó vĩnh viễn vào thời gian.”

“Trời đất, anh làm tôi sợ đấy,” Lilah nhăn mặt. “Tôi tưởng anh định nói anh muốn trở thành kẻ sát nhân hàng loạt hoặc tên hề trong rạp xiếc chứ. Nhiếp ảnh thì có gì ngượng. Sao anh không theo đuổi nó?”

“Cũng có. Tôi đã làm một đề tài phụ về nhiếp ảnh và nghệ thuật tạo hình hồi đại học. Chỉ có điều… đó không phải là một nghề thực tế, phải không? Hầu hết mọi người mơ về một loại hình nghệ thuật nào đó, nhưng rồi khi thành người lớn, thì họ quan tâm hơn đến việc trả hóa đơn… tạo dựng cuộc sống cho chính mình.”

“Những thứ đó đâu có loại trừ lẫn nhau,” Lilah cau mày. “Anh có thể sống cuộc sống của anh và biến đi đâu đó mà không ai hay biết mỗi khi hóa đơn điện đến. Hoặc anh có thể trả hóa đơn và bỏ lỡ cuộc sống hoàn toàn. Cha mẹ tôi đã liên tục di chuyển như những con bướm vô tư lự hầu hết quãng thời gian ở cùng nhau, nhưng tôi muốn nói với anh một điều rằng - họ đã có một cuộc sống vô cùng tuyệt vời.”

“Nó có thực sự tuyệt vời như vậy không? Chắc chắn cả nhà em nhớ sự ổn định.”

“Không hề,” Lilah bật cười và hơi dịch người để có thể tựa vào tôi và duỗi chân lên trường kỷ, suối tóc đỏ trải khắp cánh tay tôi và trong lòng tôi thấy ấm áp. “Tôi sinh ra trên đường, có thể nói như vậy. Tôi không hiểu việc mọc rễ một chỗ, hoặc cảm thấy ổn định là như thế nào. Thỉnh thoảng chúng tôi thăm ông bà ngoại ở Gosford, nhưng ngay cả thế, tôi gần như không biết nhiều về họ tại thời điểm đó.”

“Tôi không hình dung nổi.” Tôi lắc đầu. “Khi cha mẹ tôi mất và khi hai em trai tôi và tôi bán ngôi nhà đó… tôi có cảm giác như mình đánh mất đi một phần của bản thân, như thể nó… nó là cái neo của tôi và rồi tôi cứ trôi lững lờ vậy.”

“Thực sự có một nơi để gọi là nhà cũng hay,” Lilah tán thành. “Nhưng chắc chắn nó phải là nơi để trở về, hơn là một cái neo. Những con tàu chỉ thả neo giữa các chuyến đi, chẳng phải sao?”

“Người ta đâu thể lúc nào cũng đi.”

“Có đấy,” Lilah nói nhỏ. “Cuộc đời là một chuyến đi. Anh không phải đi lại, nhưng anh luôn phải dịch chuyển, nếu không anh sẽ đứng ì một chỗ.”

Im lặng. Những ý nghĩ của tôi quay trở về khoảnh khắc chúng tôi bên nhau. Cả hai ly vang đều hết và trước đó chúng tôi đã uống kha khá ở nhà hàng rồi, nhưng tôi cảm thấy như mình say cuộc nói chuyện hơn là say rượu – lạ lùng chưa từng thấy! Tôi không thể nhớ có lúc nào mình đã từng nói chuyện như thế này, thoải mái tán gẫu với một phụ nữ và những lời nói thoát ra tự nhiên không chút gò bó. Nhưng cho dù không nói gì đi nữa, thì tôi vẫn rất vui khi chỉ ngồi đó với Lilah và chờ xem nàng sẽ nói hoặc làm gì tiếp.

“Em có thường gây tác động như thế lên tất cả mọi người không?”

“Tác động gì cơ?”

“Tôi có cảm giác em là cơn gió lốc nhỏ xíu và trong hai bữa tối em đã khuấy động mọi thứ tôi nghĩ về cuộc sống của mình.”

“Theo cách tích cực?”

“Tôi nghĩ vậy.” Tôi luồn tay vào tóc Lilah một lúc, cho đến khi nàng từ từ ngồi dậy và đặt ly rượu lên bàn bên cạnh. Nàng quay sang tôi và đặt tay lên vai tôi. Tôi nhìn đăm đăm vào mắt nàng và nàng cũng nhìn đăm đăm vào mặt tôi, đột nhiên tôi ý thức về sự nhỏ bé của mình. “Tôi không làm em chán sao?”

Lilah nhoài người về phía trước và hôn phớt lên môi tôi. “Không, anh không làm tôi chán,” Lilah mỉm cười thì thầm. “Có lẽ anh khiến tôi hơi cáu thôi.” Một nụ hôn nữa, lần này lâu hơn, khiến sự tự ái trong tôi vừa mới trỗi dậy vụt tan biến. “Và có thể hơi soi mói những người không thích đi giày.” Nụ hôn kế tiếp thậm chí còn dài hơn và sâu hơn và khi Lilah dứt ra nàng chạm trán mình vào trán tôi và nhắm mắt lại thì thầm, “Nhưng tôi chỉ mới biết anh thôi và tôi có thể nhìn thấy rằng ở anh còn nhiều điều hơn thế nữa. Làm thế nào tôi có thể thấy anh đáng chán được chứ?”

Tôi thức giấc trước Lilah và ngay khi tỉnh dậy, tôi nhận thấy phần tuyệt vời nhất của việc qua đêm ở căn hộ Lilah là nàng dứt khoát không thể bỏ chạy đi đâu được hết. Khi nàng ngọ nguậy trong vòng tay tôi và tôi nhìn thấy mắt nàng chớp chớp mở ra, tôi có thể hình dung mình sẽ đi con đường này suốt phần đời còn lại.

Anh yêu em, tôi sẽ thì thầm và Lilah khẽ đáp lại như vậy và chúng tôi sẽ hôn nhau dù chưa đánh răng. Cuộc sống dung dị bên nhau sẽ tươi đẹp biết bao và tôi sẽ không bao giờ cảm thấy mất kết nối nữa.

Ý nghĩ đó khiến tôi sửng sốt và tôi tự hỏi nó đến từ đâu. Lilah là một phụ nữ đẹp và thú vị. Tôi đã biết nhiều phụ nữ như thế trước đây và thậm chí không bao giờ tính đến việc ổn định với một trong số họ, chứ đừng nói gì đến sau chỉ một đêm. Ý nghĩ đó thật khó chịu và tôi cựa mình để trao nàng một nụ hôn chào buổi sáng nhẹ nhàng và hỏi, “Em ngủ thế nào?”

“Ngủ say như chết ấy,” nàng duỗi người và lại mỉm cười với tôi. “Dù anh ngáy như kéo bễ.”

“Anh cược là em ngáy.” Tôi hoàn toàn khỏa thân; chẳng có cách nào để giấu được sự xấu hổ. Tôi đã ngủ rất sâu và tôi không nhớ mình đã có lần nào ngủ được một giấc ngon như thế.

“Đừng ngượng. Trừ phi hàng xóm của em phàn nàn, thì anh có thể ngượng – và họ có thể đấy; vì anh ngáy rất to.”

Lilah lại trêu tôi. Tôi hôn lên trán nàng.

“Ăn chay thì buổi sáng có món gì?”

“Anh nhận thấy người ăn chay không phải là dị biệt. Bọn em cũng ăn thức ăn, không chỉ ban đêm, mà đầy đủ các buổi trong ngày. Để em tắm loáng cái rồi làm món thịt lợn muối xông khói chay cho anh nhé.”

Chúng tôi ngồi ngoài ban công. Đêm hôm trước vì tối nên tôi không nhận ra nó chứa một rừng hoa cỏ thực sự và những chậu cây ở nhiều tình trạng phát triển khác nhau. Vài cây không những đã chết, mà còn đang bắt đầu phân hủy. Những chậu cây đủ màu sắc và kích cỡ được đặt tùy tiện, kể cả ở hai hình chữ nhật dài màu xám được cố định trên gờ ban công.

“Em không thừa hưởng sự mát tay của cha và ở đây thì chẳng có Leon và Nancy để chăm sóc chúng,” Lilah thở dài khi tôi hỏi về mấy cái cây chỉ còn trơ cành.

“Leon và Nancy?”

“Hai người giúp việc cho nhà em ở Gosford ấy. Họ là những người làm vườn tuyệt vời. Em có thể mang mấy cái cây chết về và họ chỉ cần bỏ ra vài ngày là hồi sinh được chúng.”

“Tên thật của em là gì?”

Tôi buột miệng hỏi. Đằng sau câu hỏi là sự tò mò và không khí trở nên căng thẳng, nhưng thực sự là tôi cũng đã định khéo léo nêu ra vấn đề này.

Lilah khuấy cà phê. Tôi không biết tại sao nàng khuấy nó – chẳng có đường, chỉ chút xíu sữa hạnh nhân. Hành động khuấy có vẻ mất rất nhiều thời gian. Rốt cuộc nàng ngước nhìn tôi.

“Saoirse Delilah MacDonald.”

“Seer-shar?” Tôi cố phát âm giống nàng, nhưng nó hoàn toàn lạ lẫm đối với tôi. Nàng nhìn tôi tỏ vẻ thấu hiểu.

“Đúng rồi. Tiếng Gaelic – đánh vần là S-a-o-i-r-s-e. Ở Dublin, tên này bình thường, nhà em không ở Dublin và dù cả nhà liên tục di chuyển hết chỗ này đến chỗ kia nhưng chưa từng đặt chân đến đó lần nào. Nên hai mươi năm đầu đời em bị gọi là Sao Iris và thậm chí có thế thì cũng chẳng gần giống.”

“Sao Iris,” tôi bật cười. “Tên đó đến từ đâu vậy?”

“Cha em là người Ireland; bà nội tên là Saoirse9. Bà mất ngay trước khi em sinh ra nên hình như họ nghĩ cái tên đó thích hợp, nhưng em nghi là mẹ hối hận ngay sau đó. Vì theo như em còn nhớ thì mẹ chỉ gọi em là Lilah.”

9 Tên Ireland dành cho phụ nữ, có nghĩa là tự do, phổ biến ở Ireland những năm 1920.

“Saoirse,” lần này tôi lặp lại đúng. “Thực ra đó là một cái tên hay.”

“Vâng, nó có nghĩa là tự do hoặc gì đó tương tự. Em không ghét nó, em vẫn dùng nó trong công việc.”

“Em nói họ của em là Owens?”

“Nhũ danh của mẹ em, họ của ông bà ngoại em. Em lo anh dò ra tung tích của em và em không chắc là mình muốn bị dò ra. Thực ra, em khá chắc là em không muốn.”

“Thế tại sao lại đổi ý?”

“Ai nói em đổi ý?” Giờ thì đến lượt Lilah cười. Nàng chỉ đeo kính và mặc áo ngủ nhưng có vẻ hoàn toàn thoải mái. “Em không biết, Callum. Việc này rất tuyệt, mấy đêm nay thực sự rất tuyệt, nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Em không hề có ý định tìm bạn trai.”

Tôi nghĩ về chuyện này một lúc. Bên dưới chỗ chúng tôi, những con sóng cuộn vào bờ và âm thanh đó lấp đầy sự im lặng, nghĩa là tôi có thể thoải mái chiêm nghiệm câu nói của nàng lâu hơn.

“Anh không nhớ mình đã ngủ với bao nhiêu phụ nữ,” tôi nói, khi đã hình thành câu đúng trong đầu. “Anh không hãnh diện về điều đó; anh nghĩ mình thấy xấu hổ trên vài phương diện. Anh từng là người bỏ về sau khi qua đêm với một phụ nữ gặp trong bữa tiệc nào đó, thường cho tên giả, không hề gọi lại dù đã hứa. Anh không nghĩ anh tin vào hôn nhân hay chế độ một vợ một chồng. Và anh nói ra tất cả những điều đó chỉ vì muốn thành thật với em và anh rất cảm kích khi em cũng đang như thế.”

Ngay cả đằng sau cặp kính đen, tôi có thể cảm thấy Lilah nhìn mình. Tôi cảm thấy khó hiểu khi chúng tôi có thể nói chuyện thân mật đến thế này chỉ sau vài đêm cùng nhau và tôi thậm chí không cảm thấy ngượng ngập dù chỉ một chút.

“Anh không biết chuyện này sẽ dẫn đến đâu, Lilah. Nhưng chẳng lẽ chúng ta không thể chỉ tận hưởng nó khi nó diễn ra sao?” Tôi bị ấn tượng bởi giọng mình nghe thật tự nhiên. Quả thực là tôi cảm thấy căng thẳng đến mức phải đặt cốc cà phê xuống để Lilah không thấy tôi đang run. Nếu nàng bảo tôi về và không được liên lạc với nàng nữa, tôi không biết mình sẽ ứng phó thế nào.

Giờ đến lượt Lilah ngồi im lặng suốt một lúc thật lâu. Lần này biển không lấp được sự im lặng nữa và tôi cảm thấy mình bị phơi trần ra và lâm vào tình trạng nguy hiểm. Lilah rốt cuộc cũng nắm lấy tay tôi, chứ nếu không thì chắc tôi đã nhào đầu qua ban công rồi.

“Được,” Lilah nói chậm. “Chúng ta cứ tiếp tục tới đâu hay tới đó.”

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 28
  • Sau