• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Từ ngày em đến
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 28
  • Sau

Chương 5

Callum

Tôi nằm thao thức gần như suốt đêm sau khi rời nhà Lilah, ước rằng đã có đủ dũng khí để gợi ý nàng ngủ lại chỗ mình lần nữa và nhớ những ngày hai đứa bên nhau. Nghĩ cũng lạ khi gần bốn mươi tuổi đầu rồi tôi chưa từng có lúc nào cảm thấy bay bổng như mấy ngày cuối tuần vừa rồi ở bên cạnh Lilah và thật bất công khi quãng thời gian ấy lại trôi qua quá nhanh.

Tôi đưa mắt tìm Lilah trên chuyến phà buổi sáng và thất vọng khi chẳng thấy nàng đâu. Nàng đã cho tôi số điện thoại khi hai đứa chia tay, nhưng tôi nhất định không vội dùng đến nó – vả lại Lilah bảo cứ đợi nàng gọi cơ mà. Tôi không muốn khiến Lilah sợ bỏ chạy mất dép.

Karl đang đợi chỗ chậu cây lúc chín giờ. Khi tôi bước ra khỏi văn phòng, cậu ta nhìn mặt tôi, rồi ngoác miệng cười.

“Ổn cả chứ?”

Tôi cố giữ vẻ ngoài bình thản.

“Ừ, bọn mình ở với nhau cuối tuần rồi.”

“Và?”

“Và gì chứ?”

“Nàng có thực sự tuyệt vời như ấn tượng ban đầu của ông không?”

Tôi cười phá lên. “Còn hơn thế nữa.”

“Ngạc nhiên chưa?” Cậu ta bước vào cầu thang và tôi theo sau. “Mình nghĩ hôm nay ông hơi thẫn thờ.”

“Thẫn thờ?”

“Xin lỗi, chọn từ dở rồi. Ông vốn đã vậy rồi. Mình nghĩ ông sẽ thoát khỏi tình trạng ủ rũ này, rơi vào một mức độ ủ rũ hoàn toàn mới.”

“Sao ông lại nói thế?” Tôi thích thú, đồng thời có chút tự ái.

“Toàn bộ vụ Lilah này khiến mình nhớ đến đợt tập huấn tâm lý năm ngoái, về việc lưu lại dấu ấn và những ấn tượng ban đầu. Hình như ông đã bắt ép bọn mình thực hiện triết lý đó. Ông nhớ không?”

“Mang máng.” Tôi nhớ rõ là đằng khác. Dù vậy tôi không thích cách dẫn dắt cuộc nói chuyện của cậu ta.

“Người tiêu dùng hình thành một quan điểm bất di bất dịch về một nhãn hàng trong mười giây đầu tiên sau khi trông thấy một kiểu mẫu. Thế nên nếu kiểu mẫu hay, họ sẽ thích sản phẩm, cho dù sản phẩm đó không hề phù hợp với họ và cần liên tục phơi bày những mặt tiêu cực của sản phẩm mới khiến họ đổi ý.”

“Sùy.”

“Mình cũng thắc mắc liệu phân nửa sự cuốn hút của Lilah có phải đến từ thực tế là nàng không thể với tới bởi vì nàng né tránh ông. Sự hồi hộp của cuộc rượt đuổi và đại loại thế.”

“Nếu ông định dùng lời nói đập lại mình, thì tốt hơn là ông nên đi mua cà phê hôm nay đi.”

Karl bật cười. “Không, nói nghiêm túc đó Callum, mình mừng vì ông tìm được người tâm đầu ý hợp. Ổn định một chút cũng tốt.”

“Lilah khá cương quyết không tiến tới một mối quan hệ lâu dài, nhưng thôi mình chấp nhận – được ngày nào mình vui ngày đó.”

Karl không nói gì. Cậu ta đi trước tôi vài bậc, nhưng khi rẽ vào góc cua, cậu ta ngoái lại nhìn tôi và cười ngoác miệng. “Ông say nàng như điếu đổ rồi, đúng không?”

“Ông sẽ hiểu thôi nếu Lilah duy trì tình cảm với mình đủ lâu để mình giới thiệu nàng với ông.”

Thứ Hai. Suốt từ sáng sớm đến khi lên giường tôi cố không liên lạc với Lilah. Phải nói là vô cùng kiên nhẫn vì suốt ngày hôm đó tôi đã cầm điện thoại lên không biết bao nhiêu lần. Ngay khi tôi nhắm mắt, một cơn bốc đồng thình lình ập đến. Tôi cầm điện thoại lên và soạn một tin nhắn văn bản.

Anh biết tuần này em rất bận. Anh nhắn tin chỉ vì muốn nói cho em biết rằng những ngày cuối tuần chúng mình bên nhau thật tuyệt và anh đang nghĩ về em.

Ngón tay tôi chần chừ bên trên nút hủy, nhưng rồi tôi thở dài và nhấn phím gửi. Giờ cũng đã trễ rồi, nên tôi không mong gì Lilah sẽ trả lời. Do vậy tiếng chuông báo vài giây sau đó khiến tôi càng phấn khích hơn.

Cảm ơn anh, Callum. Muốn đi chung phà sáng mai không?

Cầu tàu Manly Wharf nằm ở đằng sau một trung tâm mua sắm thượng lưu nhỏ. Siêu thị giá rẻ nép mình giữa những cửa hiệu thời trang cao cấp và quán cà phê, như thể nó đang cố tìm cách giữ cân bằng – trả một cái giá cắt cổ cho sô-cô-la và cà phê và bạn sẽ được tặng bột và đường giảm giá. Tôi thấy Lilah xếp hàng đợi ngay lối vào của một quán cà phê. Cả hai đều mang dù vì trời đầy mây đen nhưng ngoài ra Lilah còn đem theo một chiếc vali nhỏ có bánh xe.

“Em định đi đâu à?”

Trong một lúc Lilah có vẻ bối rối, rồi nàng nhìn theo ánh mắt tôi xuống chiếc vali kéo và bật cười.

“Tài liệu một vụ án em đọc tối qua ấy mà. Nhiều đến mức không thể đọc bằng lap được. Anh có bao giờ đọc trên lap nhiều tới mức khi nhìn ra chỗ khác anh toàn thấy ánh điện như một tấm màn che khuất thế giới thật chưa?” Tôi bật cười và gật đầu trước khi nàng nhăn mặt, “tuần trước em được cấp một lệnh huấn thị và em đang có cảm giác bọn khốn sắp sửa lật ngược tình thế.”

“Đập bọn chúng tơi bời đi,” tôi nói và Lilah rướn người trao cho tôi nụ hôn. Tôi ngạc nhiên và thấy vui vui, cả hai toét miệng cười. Sấm rền vang trên đầu chúng tôi, nhưng chẳng hiểu sao tôi thấy có vẻ như quảng trường sáng lên với ánh mặt trời ấm áp nhất.

“Sao-Iris?” Nhân viên pha chế cà phê ngập ngừng gọi. Tiệm cà phê yêu cầu khách hàng viết tên mình lên cốc khi gọi đồ uống và tôi bất ngờ khi Lilah chọn dùng cái tên mà người phục vụ sẽ không bao giờ đọc đúng.

“Seer-sha,” tôi chỉnh lại, rồi nháy mắt với Lilah lúc này mặt đỏ bừng. “Một trong những cái tên Gaelic lập dị.”

“Em gọi cà phê cho anh đó,” Lilah thông báo. Nàng cầm hai cái cốc từ cô nhân viên và nở nụ cười lạnh lùng với cô ta, trái ngược với tính lịch sự thường ngày, “Cảm ơn rất nhiều.”

Lilah đưa cho tôi một cốc và khi tôi đọc miêu tả nguệch ngoạc bên dưới tên nàng, tôi thở phào khi nhận ra nàng đã gọi cho tôi sữa bò nguyên kem thay vì sữa hạnh nhân. Tôi đón tay cầm vali từ Lilah và hai đứa hòa vào dòng người tiến về phía cầu tàu.

“Sao em không viết tên Lilah lên cốc cho tiện?”

“Vì lần trước em mua cà phê ở đó, chính cô nhân viên ban nãy đã hành xử vô lễ với một bà cụ xếp hàng ngay trước em và hôm nay em muốn cô ta tự biến mình thành một con ngốc.” Lilah cười khúc khích hệt một cô nữ sinh và tôi không thể không mỉm cười trước sự hả hê trẻ con của nàng. “Anh lại còn thông cảm cho cô ta.”

“Lưu ý: hãy coi chừng – Lilah thù dai.”

“Ồ, chắc chắn rồi. Anh sẽ thấy những gì em định làm với cái công ty khai thác mỏ này nếu bọn họ động tới những động vật trong sách đỏ của em lần nữa.”

“Mỗi lần em làm một vụ hả?”

“Một vụ là thế nào?” Nàng khịt mũi. “Em có hàng tá vụ tại bất kỳ thời điểm nào. Em có một thư ký luật xuất sắc và hai phụ tá, nếu không em sẽ không biết phải xoay sở ra sao. Em thậm chí không thể cho anh biết hiện tại em đang giải quyết bao nhiêu vụ - nhân viên và máy vi tính sắp xếp hộ em.”

“Tại sao em nghĩ cái công ty khai khác mỏ khốn nạn đó định tấn công em lần nữa?”

“Em không biết,” Lilah so vai. “Đó là một dự án phát triển trị giá nửa triệu đô và em không tin là bọn họ sẽ để vài con cóc và côn trùng ở mảnh đất kế bên làm chậm tiến độ, chứ đừng nói là dừng hẳn. Chúng em cũng có thể tìm một người làm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái để làm chứng chống lại dự án đó tại phiên tòa, nhưng anh biết thế nào rồi đấy. Thật đáng xấu hổ là những chuyên gia hoặc đã ăn tiền hoặc sợ không dám làm gì. Do vậy em đoán chừng tình hình có thể trở nên xấu đi, nên em cần phải sẵn sàng.”

“Chào buổi sáng, Lilah.” Một khách đi phà gọi lớn khi chúng tôi lên phà và Lilah mỉm cười vui vẻ chào lại.

“Rupert,” nàng nói. “Anh biết anh ấy không? Anh ấy làm việc trên chuyến phà sáng.” Tôi lắc đầu. “Anh ấy là người tuyệt vời; vài tuần nữa vợ anh ấy sinh đứa con thứ ba.”

Chắc gì tôi từng để ý đến bất kỳ nhân viên nào trên các chuyến phà, nói chi đến việc biết tên và hoàn cảnh cá nhân của họ. Chúng tôi ngồi bên nhau, tựa vào một cửa sổ lát nữa sẽ nhìn ra mạn Bắc của cảng. Tôi muốn khơi lại cuộc nói chuyện, nhưng bỗng nhiên tôi thấy lòng nặng trĩu và phải mất một lúc để xác định nó.

Sự thất vọng.

Lần đầu tiên tôi nhận ra Lilah và tôi thực sự quá khác biệt. Ồ, chắc là sự mới mẻ của những khác biệt đã lôi cuốn tôi, nhưng khi tôi ngồi trên phà và nghĩ về cả buổi sáng đến giờ, tôi tự hỏi liệu những khác biệt này có phải quá cực đoan không. Tôi thực sự tìm kiếm thứ gì ở đây?

“Này, anh có sao không?” Lilah thình lình hỏi. “Em làm anh chán à?”

Tôi ngoái lại nhìn nàng và lướt ánh mắt suốt từ đôi mắt màu thiên thanh long lanh, sống mũi lấm tấm tàn nhang, đôi gò má cao, cặp môi mọng. Cảm giác khó chịu trong lòng tôi giờ nhẹ bớt và tôi thấy dễ chịu hơn. Ai bảo chúng tôi phải giống nhau nào? Có thể chúng tôi bằng cách nào đó bù khuyết cho nhau một cách hoàn hảo.

“Đâu có. Anh bình thường mà,” tôi nói khẽ và nắm tay nàng. “Kể cho anh nghe về mấy con cóc nhái đi.”

Một thói quen mới được thiết lập. Ai mà ngờ được chuyến phà lại có thể trở thành yếu tố cốt lõi cho hạnh phúc của tôi? Lilah bảo nàng bận bù đầu, nhưng bét ra chúng tôi còn có thể tìm cách để đi chung phà trong những ngày sắp tới.

Lượt về, Lilah thuyết phục tôi đi chuyến chậm với nàng.

“Vâng, em biết nó chẳng mang ý nghĩa gì; vâng, em biết anh cần mua vé thêm dù anh đã có thẻ; và, vâng, em biết sẽ mất thời gian,” Lilah vừa nói vừa khoác tay tôi kéo đến quầy vé. “Nhưng nếu đi chuyến phà nhanh, chỉ mười lăm phút sau là chúng mình có mặt ở Manly rồi và em buộc phải trở lại làm việc. Hơn nữa, anh từng bảo thích những chuyến phà chậm cơ mà.”

Tôi không phản đối mạnh mẽ lắm. Chúng tôi ngồi ở quầy khi phà nổ bình bịch băng qua cảng và thuật lại cho nhau nghe những chuyện xảy ra trong ngày. Lilah kể về vụ của nàng, chi tiết đến không tưởng, dù tôi hầu như không hiểu lấy một thuật ngữ nào và thậm chí chẳng biết công viên quốc gia nằm ở đâu cho đến khi nàng nói ra. Tôi trở nên quen thuộc với những đồng nghiệp của nàng và ngay cả giọng điệu nàng dùng khi nói về họ. Alan là hội viên quản lý và nàng có vẻ kính trọng ông như một thủ lĩnh. Bridget là thư kí của nàng và bất kì khi nào Lilah nhắc đến tên cô thì thái độ của nàng vui hơn hẳn – tôi có thể nhận ra tình cảm và sự tôn trọng mà nàng dành cho cô.

Và hai luật sư tập sự nữa, Anita và Liam. Hai người này tôi vẫn chưa biết gì nhiều, vì dù họ nằm trong nhóm của nàng, Lilah thường to tiếng chửi rủa mỗi khi nhắc đến họ.

“Đúng là không ra sao mà,” một tối nàng nói với tôi, khi sự thất vọng trào đến đỉnh điểm. “Bọn em biết mấy gã Hemway sẽ yêu cầu lệnh huấn thị của bọn em và Bridget và em đang làm việc như điên, suốt ngày đêm, để lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng. Còn Anita và Liam thì mới nửa buổi sáng mà đã cứ thế bỏ ra ngoài tìm mua bánh nướng xốp sô-cô-la? Việc của mấy người đó chỉ có thế. Em điên quá đi mất.”

Tôi thích nghe Lilah trút bầu tâm sự. Tôi thích cái nhíu mày giận dữ và hai bàn tay múa may loạn xạ của nàng và cách nàng để xõa tóc đến hông không buồn búi lại gọn gàng lúc chúng tôi gặp nhau sau giờ làm và nàng lọt thỏm trong vầng hào quang của suối tóc đỏ ấy. Niềm đam mê và nguồn năng lượng Lilah dành cho công việc thật đáng nể.

Đương nhiên chúng tôi không chỉ tán chuyện về công việc. Đôi khi trong những ngày mới quen đó, khi ở trên phà chúng tôi đã kể cho nhau nghe nhiều câu chuyện ngớ ngẩn về thời thanh xuân của mình. Tôi biết về Lilah từng chút từng chút một, mọi chuyện linh tinh và tiếng cười khúc khích giúp tôi khám phá nhiều hơn về nàng và cho tôi biết những sự việc xảy ra trong cuộc đời nàng theo từng mốc thời gian khác nhau. Tôi biết Lilah từng học tại trường đại học không xa trường tôi mấy và nàng cũng sống trong CBD một thời gian dài và nàng ở mọi lục địa ít nhất một lần, trong đó có Nam Cực, nơi nàng đã đến vào lần sinh nhật thứ mười ba. Và rồi những bóng gió về cuộc sống tình cảm phong phú, bởi vì trong nhiều câu chuyện linh tinh của nàng có thấp thoáng bóng dáng những người bạn trai.

“Anh ấy lừng lững như chiếc sơ mi rơ moóc ấy,” nàng kể. “Một bức tường cơ bắp và cơ bụng cao hai mét cộng với sức quyến rũ Hi Lạp chết người.”

“Ừm,” tôi khịt mũi, “vậy chắc dễ kiếm bạn gái lắm nhỉ.”

“À, nhưng vẻ ngoài và sức cuốn hút đương nhiên không phải là tất cả. Thời gian đó em đang làm một đề tài xã hội học và một đêm hai đứa đang uống bia, em hỏi theo anh ấy giới tính là bẩm sinh hay do nuôi dưỡng. Và anh ấy nhìn em như thế này này,” nàng ngẩng mặt lên song song với mặt tôi và nhìn xoáy vào mắt tôi, “và anh ấy nói, em định nói với anh rằng em là đàn ông đấy hả?”

“Anh còn hơn thế cơ,” tôi đắc thắng. “Cách đây cũng lâu, anh đưa một phụ nữ anh quen qua công việc đến nhà hát xem một vở kịch trào phúng liên quan đến chính trị. Và rồi trên đường ra cô ta nói với anh là cô ta đã không nhận thấy thủ tướng là một diễn viên hài.”

Thực ra chỉ có một nửa sự thật trong câu chuyện linh tinh của tôi. Người phụ nữ trẻ xinh xắn đó là một chuyên viên tâm lý sắc đẹp, hai mươi bốn tuổi, tôi quen biết vì thường đến thẩm mĩ viện của cô ta và cũng chỉ mới năm ngoái thôi chứ không phải mập mờ cách đây đã lâu này nọ. Nhưng sau khi Lilah miêu tả về Nicko-thần-Hi-Lạp, tôi không muốn thừa nhận rằng sở thích của tôi về phụ nữ rõ ràng là chỉ mới chín chắn gần đây thôi.

Những chuyến phà là sự kiện nổi bật nhất mỗi ngày và cảm giác lưu luyến khi chúng tôi chia tay nhau để đi làm hoặc ai về nhà nấy. Tôi muốn bên cạnh Lilah và khi hai đứa chia tay, trong đầu tôi lấp đầy ý nghĩ đó. Lilah chiếm hết tâm trí tôi, án ngữ trong ý thức tôi, cho dù tôi có muốn đuổi nàng thì cũng chẳng nghĩ ra được lý do nào. Tôi lo lắng về điều đó, vì thỉnh thoảng Lilah đột nhiên bất an.

“Chúng mình ở bên nhau nhiều quá,” Lilah luôn nói vậy mỗi khi chúng tôi ở trên phà và những lời đó luôn bật ra khỏi môi nàng như thể nàng sực nhớ đến thực tế và trở nên hoảng hốt. Tôi cố khỏa lấp tâm trạng sợ hãi của nàng bằng sự hài hước, thường là một câu nói phóng đại quá mức.

“Ừ, Lilah, anh nhận thấy đi phà cùng thế này, đứng dưới góc độ trách nhiệm, cũng na ná với việc đi mua nhà với nhau đấy, nhưng anh hứa là nếu chuyện thất bại trước khi chúng ta kết thúc, anh chỉ muốn giữ lại vé đi phà thôi.”

Hoặc tôi sẽ cạnh khóe sự thiếu nhất quán giữa lời nói với hành động thân mật của nàng và luôn khiến nàng cười toe toét.

“Vậy anh định nói rằng tất cả những cuộc trò chuyện nhăng nhít này đang tiến quá nhanh, nhưng những gì chúng ta đã làm cuối tuần trước thì ổn? Lưu tâm và ghi nhận.”

Thế nhưng cho dù mối quan hệ lỏng lẻo của chúng tôi đang tiến những bước loạng choạng về phía trước và gốc rễ của nó từng chút từng chút một gắn kết cuộc đời chúng tôi lại với nhau sau mỗi lần gặp gỡ, thì tôi vẫn không an tâm về sự lưỡng lự thiếu dứt khoát của nàng. Biểu lộ tình cảm của Lilah trong khi chúng tôi bên nhau và sự hăng hái của nàng đối với việc đi phà chung chẳng hề ăn nhập gì với những lời nói đó và tôi càng lúc càng lo rằng có thể vào lúc nào đó nàng sẽ chấm dứt hoàn toàn.

Một thứ Sáu nọ, tôi đang đi bộ dọc theo cầu thang đến tiệm cà phê với Karl thì điện thoại đổ chuông. Tôi liếc nhìn màn hình và đứng sững lại.

“Lilah muốn ăn trưa với mình.” Tôi giật thót.

“Ố ồ. Nghe không hay rồi.”

“Ừ.”

“Ăn trưa à?”

“Ừ.” Tôi vội nhắn tin gợi ý thời gian và địa điểm rồi cho điện thoại vào túi.

“Không, ý mình là giọng của ông ấy,” Karl phá lên cười. “Nàng chỉ muốn ăn trưa thôi sao?”

“Ừ thì… mình không biết nữa. Cứ cho là bản năng mách bảo đi.”

Có thể tôi đã chuẩn bị tinh thần về việc Lilah sẽ rút lui, sau hành động biến mất của nàng và cả những bình luận của nàng vào cuối tuần vừa rồi. Dành ra hàng giờ với Lilah suốt cả tuần vô cùng dễ dàng, cho dù nàng đã nói toẹt ra là nàng không hề có ý kiếm tìm một mối quan hệ nghiêm túc. Có lẽ chuyện đã đến hồi kết.

Có một quán cà phê nơi góc đường nằm giữa văn phòng của hai đứa. Tôi đến sớm và đợi vài phút chờ bàn trống. Lilah đến sau một chút và trông mệt rã rời.

Tôi hôn lên má Lilah và nàng buông mình xuống ghế thở ra nặng nhọc.

“Nhiều việc lắm à?” Tôi hỏi và Lilah rên lên.

“Kể lại chi tiết bực mình lắm. Anh thế nào?”

“Ổn.” Cho đến lúc này. “Ý hay đấy, ăn trưa cùng nhau.”

“Vâng, em đói ngấu.” Lilah với lấy thực đơn, liếc nhanh một lượt rồi thả phịch xuống bàn.

“Anh nghĩ mình nên gọi món ở quầy đi. Anh gọi cho em luôn nhé?”

Trong một thoáng ngập ngừng, tôi có thể nhìn thấy sự độc lập nơi nàng vật lộn với nhu cầu thực tế của khoảnh khắc này như thế nào. Lilah nhìn quanh quán ăn đông đúc vài người đang đợi bàn trống và cuối cùng là tấm biển gắn ngay trước phòng yêu cầu gọi món ở quầy. Sau khi thu hết từng ấy thứ vào tầm mắt Lilah mới liếc sang tôi và gật đầu.

“Salad Hi Lạp, không phô mai sữa cừu nhé. Anh bảo họ thêm ô-liu hộ em được không? Cảm ơn.”

Khi tôi gọi món, ruột tôi nhộn nhạo vì căng thẳng. Hôm nay ở Lilah có một năng lượng khác thường và tôi không chắc điều đó có nghĩa là gì, hoặc làm thế nào để giải mã nó. Khi tôi trở về chỗ Lilah, nàng đang ngồi vắt chân trên ghế bành và nhìn tôi chằm chằm như thể tôi đang đứng trước bục nhân chứng.

“Em nghĩ…” Đến lúc rồi. Tôi giữ bình tĩnh. “Ngày mai tụi mình đi bộ vào rừng chơi đi.”

“Sao cơ?”

“Anh giật mình kìa. Không phải là ý hay sao? Em nghĩ anh có thể mang theo máy ảnh. Có rất nhiều khu vực đi bộ ở núi Blue; tụi mình có thể bắt xe lửa và…” Tôi bất ngờ trước gợi ý của Lilah đến mức trong một thoáng không chắc nàng đang nói những gì và nhìn đăm đăm vào mặt nàng với vẻ hăng hái trước viễn cảnh khám phá một vùng đất mới cùng nhau và chỉ có thể tập trung trở lại vào lời nói của nàng khi nàng nói gần xong. “… Và nhất là, em sẽ phải đi giày, nên em đoán là anh sẽ thích điều đó.”

Tôi liếc nhìn chân Lilah và để ý đôi giày cao gót màu đen nàng đang đi. Nàng đá chúng về phía tôi trêu.

“Vâng, em biết, nhưng em thường đi chúng suốt trong ngày làm việc. Đây mới là lần đầu tiên anh gặp em ở bữa trưa. Ý anh thế nào? Mai tụi mình đi bộ nhé?”

“À… Ừ… Đương nhiên rồi,” tôi nói, từ nọ xọ từ kia và nàng hơi khựng lại.

“Anh không cần phải thế.” “Không. Anh thích mà. Thật đấy.”

“Anh…” Nếp nhăn nhỏ lại xuất hiện giữa hai mắt Lilah. Khi nàng giận hay bối rối, thậm chí lúc tập trung cao độ, nó cứ như thể từ trên trời rơi xuống đáp trúng giữa hai mắt nàng và biến mất ngay khi nàng mỉm cười. “Có gì không ổn sao?”

“Không,” tôi mỉm cười và cố trấn an nàng. “Thật đấy. Đó là một ý tưởng tuyệt vời. Tối nay anh sẽ sạc pin máy ảnh. Anh muốn cho nó hoạt động lại, cũng nhiều năm rồi anh không đụng tới.”

“Được.” Lilah ngồi ngả người ra ghế, mắt vẫn còn nhìn vào tôi. “Anh chắc là không có kế hoạch nào khác đấy chứ?”

“Lilah, tất cả những gì anh hy vọng trong cuối tuần này là được ở bên em,” tôi nói. “Thật đấy. Và một chuyến đi dạo trong rừng nghe rất thú vị.”

“Vậy là xong nhé, bọn mình sẽ dậy sớm và đến đó vào khoảng chín giờ…”

Và Lilah lại tiếp tục liến thoắng về những khả năng liên quan đến chuyến đi bộ đường rừng. Sau khi chúng tôi ăn xong, Lilah hôn tôi và biến mất sau góc đường đến văn phòng của mình và tôi ở lại dùng thêm cà phê để cố kéo mình trở về quỹ đạo thường ngày.

Tôi sực nhớ rằng bấy lâu nay tôi đã thôi tìm kiếm những thứ mới mẻ trong cuộc sống và đó là cách hiệu quả để tránh được cả rủi ro lẫn sợ hãi. Vậy mà bây giờ bỗng đâu một người cứ như thể từ trên trời rơi đùng xuống cuộc đời tôi và tôi lập tức bị cuốn vào mối quan hệ ấy, đồng nghĩa với việc tôi sẽ rất dễ gặp rủi ro và tổn thương. Lần này Lilah gọi tôi đi ăn trưa để lên kế hoạch, lần tới có thể là để nhắc tôi nhớ rằng nàng không định tìm một mối quan hệ nghiêm túc và để kết thúc những gì đang diễn ra giữa hai đứa. Nếu định tiếp tục gặp nàng, tôi phải chuẩn bị tinh thần cho khả năng đó. Ngay từ đầu tôi đã biết rằng Lilah quen với lối sống xê dịch – muốn rẽ lối nào thì rẽ, rẽ bất kỳ lúc nào không hề báo trước, bay nhảy khắp nơi dưới danh nghĩa là tận hưởng cuộc sống hết mức có thể. Ai biết liệu, hay khi nào, nàng rẽ sang lối khác, bỏ mặc tôi làm kẻ độc hành?

Mỗi lần gặp Lilah là tôi quyến luyến nàng thêm một chút, nên tôi biết mình phải ra quyết định. Nếu muốn tiếp tục gặp Lilah, tôi phải chấp nhận một điều rằng rất có thể chúng tôi sẽ tiến tới một thời điểm mà tại đó hy vọng của tôi về mối quan hệ này không hề phù hợp với hy vọng của nàng.

Tôi sẽ tiến lên với cặp mắt mở to và chấp nhận rủi ro đã được lường trước. Giống như Lilah đi bộ chân trần trên bãi biển vào ban đêm, tôi sẽ tập trung vào việc tận hưởng khoảnh khắc hiện có.

Một tiệm mỳ mới được khai trương ở Corso và sau khi chúng tôi gặp lại tại cầu tàu đêm ấy, Lilah gợi ý qua đó ăn nhanh chút gì đó. Tôi gọi món mỳ nước Mã Lai. Lilah bước nhanh đến quầy để gọi thì nàng để ý thấy một hộp nhỏ đựng hạt nêm hương vị rau củ trên chiếc ghế băng bằng thép không rỉ.

“Thực đơn ghi là không có MSG10,” nàng cau mày. “Nhưng nhãn hàng này có chứa MSG.”

10 Monosodium Glutamate: Mì chính.

“MSG?”

“Mì chính. Có hại cho thần kinh khủng khiếp.” Lilah lên giọng, chút thôi, nhưng vẫn hàm chứa sự ghê tởm. Hàng người đằng sau chúng tôi bỗng im phăng phắc và tôi bất giác cảm thấy mình sẽ chứng kiến một sự bùng nổ nào đó.

“Lilah…”

“Thực đơn ghi không có MSG,” người phụ nữ trung niên đằng sau quầy lên tiếng thẳng thừng. “Nhưng trong vài nguyên liệu có thể chứa một lượng nhỏ MSG. Nếu cô dị ứng, tôi có thể bỏ nguyên liệu đó ra.”

Lilah cầm menu lên, mở phắc nó ra và dằn mạnh xuống trước người phụ nữ nọ.

“Không chứa MSG,” Lilah đọc to. “Chị cần thay đổi nguyên liệu, hoặc cho in lại toàn bộ thực đơn của quán.”

“Thôi nào, Lilah,” tôi kéo nhẹ cánh tay nàng. “Đi ra thôi, được không?”

“Nhiều nghiên cứu cho thấy MSG là chất độc đối với não bộ con người, nó có tác hại lũy tích và có thể gây tổn thương cho não. Thêm vào đó, nó là một chất thường gây dị ứng. Chị không thể tùy tiện cho vào thức ăn trong khi thực đơn lại ghi là không có.” Lilah hít sâu và bình tĩnh trở lại, nhưng rõ ràng là nhất định giảng cho người phụ nữ kia một bài. “Chị có hiểu điều này nghiêm trọng thế nào không?”

Người phụ nữ đứng sau quầy vẫn tỉnh bơ.

“Thưa cô, cô có muốn dùng mỳ hay không?”

“Khỉ thật, đương nhiên là không. Có chết đói tôi cũng không ăn. Nhưng tôi sẽ quay lại trong vòng một tuần nữa.

Nếu nguyên liệu đó hoặc thực đơn vẫn như cũ, tôi sẽ gọi cho nhà chức trách.”

Tôi cảm thấy đằng sau mình có sự chuyển động. Khi ngoái đầu lại, tôi thấy nhiều người ở cuối hàng đã rời khỏi tiệm. Những người còn chưa đi đang quan sát Lilah với vẻ thích thú; vài người đang xì xào với nhau. Người phụ nữ đứng quầy cũng để ý điều đó và phát một cử chỉ cáu tiết về phía cửa.

“Tôi nghĩ cô nên ra khỏi đây ngay, nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát.”

Lilah nhướng mày nhìn người phụ nữ. Trước khi nàng kịp mở miệng phản đối, tôi kéo tay nàng.

“Lilah, mình đi đi, được không?”

Lilah quay sang tôi, thở dài, rồi rời khỏi quầy. Khi ra ngoài, nàng càu nhàu thất vọng.

“Anh không được coi thường chất phụ gia thực phẩm. Em đã kiểm tra thực đơn trên mạng trước khi đến đây. Em biết chị ta sai.”

“Vậy mình đừng ăn ở đó. Làm to chuyện lên thì được gì chứ?” Tôi chưa từng thấy Lilah nổi giận, nhưng nàng gần như run lên với cơn thịnh nộ.

“Callum, xuyên tạc một sản phẩm là vi phạm pháp luật và đó chính xác là những gì tiệm ăn đó đang làm. Anh không hiểu tại sao điều đó khiến em bực tức à? Hôm nay chị ta lén cho MSG vào, tiếp sau là gì, biết đâu là một miếng thịt bít tết nhiễm phóng xạ?”

Tôi giơ hai tay đầu hàng vì nhận thức được rằng Lilah vẫn còn giận tím gan và đó là một cuộc tranh luận mà tôi không có cơ may thắng cuộc. “Hay mình đi ăn pizza đi? Hoặc về nhà để anh làm cho em…”

Tôi ngập ngừng. Chế độ ăn uống của nàng giới hạn và kỹ năng nấu nướng của tôi tệ vô đối, tôi thực sự không có cửa nấu ăn cho nàng. Lilah nhướng mày nhìn tôi.

“… sinh tố đậu nành nhé?” Tôi gợi ý. Một nụ cười ngập ngừng trên gương mặt Lilah. Nàng khoác tay tôi và chúng tôi tiếp tục đi.

“Không ăn MSG thực sự rất quan trọng đối với em, được chưa? Em xin lỗi đã nổi khùng lên như thế. Chỉ có điều em không ưa mấy người xem thường việc này.”

“Được rồi, Lilah. Anh hiểu mà.”

Tôi vẫn chưa thực sự hiểu vấn đề, nhưng chỉ cần biết Lilah nhất định không ăn mì chính là đủ rồi.

“Có một tiệm mỳ nữa ở đầu kia Corso,” nàng nói, “em có thể ăn ở đấy. Được không?”

“Dĩ nhiên rồi.” Tôi nhẹ cả người khi nàng bắt đầu nguôi giận. Lilah mà nổi giận thì tôi chẳng biết phải làm thế nào. Chúng tôi đi thẳng tới tiệm mỳ kia và gọi món trước khi nàng thở hắt ra và liếc nhìn tôi.

“Anh ngượng à?”

“Em suýt chút nữa thì bẻ đầu người phục vụ và khiến gần nửa đám thực khách bỏ đi vì sợ chết khiếp chẳng phải sao?” Tôi cười trêu nàng. “Ngượng gì chứ?”

Nàng hơi nhăn mặt.

“Em không dữ đến thế.”

“Lại còn không,” tôi nhướng mày.

“Không thật mà.” Lilah cố cãi. “Nhưng có vài điều đáng để đấu tranh và em thực sự tin rằng dán nhãn chính xác là một trong số chúng. Em thì kiên quyết tránh MSG rồi nhưng thực sự có vài người bị sốc mẫn cảm với nó. Luật này cần được thực thi là có lý do - nó bảo vệ mạng sống cho con người.”

“Em sẽ trở lại kiểm tra chỗ đó thật đấy à?”

“Chắc chắn luôn. Em có bổn phận phải làm điều đó.”

“Nếu đó không phải là việc của em thì sao?”

“Sao mà nó không phải là việc của em chứ? Giờ em biết chắc điều đó rồi mà.”

“Em không có trách nhiệm giải quyết mọi vấn đề trên đời mà em tình cờ biết đến.” Ý nghĩ đó làm tôi thích thú.

“Những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong thế giới hôm nay phần nào do chính cái thái độ đó ấy,” Lilah cau mày. “Đơn giản thế này nhé, khi biết sức khỏe và sự an toàn của con người đang bị đe dọa và tất cả những gì em phải làm để ngăn chặn mối đe dọa đó chỉ là đến kiểm tra lại và gọi điện thoại. Chỉ có vậy thôi chẳng lẽ anh lại không làm?”

“Em đã nói thế thì anh đoán là anh cũng vậy. Nhưng trong những tình huống thông thường thì sao? Anh thậm chí không để ý thực đơn ghi gì về MSG và cho dù có tình cờ để ý, anh cũng không nghĩ mình có thể hay nên làm gì về chuyện đó.”

“Anh đang nghiêm túc gợi ý em nên từ bỏ?” May quá. Giọng nàng không có gì là phẫn nộ, chỉ bối rối và có lẽ phật ý. Chúng tôi đang ngồi ghế chờ, Lilah để tay lên chỗ gác tay bên cạnh tôi. Tôi cầm tay nàng lên đan vào tay tôi.

“Anh không định nói thế. Trước hết, anh không dám bảo em làm gì và không nên làm gì.” Tôi vờ sợ sệt và Lilah nhìn tôi bằng ánh mắt ý như muốn nói nàng không có tâm trạng đùa giỡn lúc này. “Anh không biết. Giới hạn của em nằm ở đâu? Chúng ta cần nhiều làn xe đạp hơn ở Manly và dù gần như không lái xe, anh suýt nữa đụng phải hai người đi xe đạp đâu như năm ngoái thì phải. Anh nghĩ ai đó nên giải quyết việc này, thế có nghĩa là anh có bổn phận phải vận động hành lang chính quyền địa phương không? Còn những mẩu quảng cáo về trẻ em đói khát trên truyền hình thì sao? Anh biết mình chỉ cần cho tiền, nhưng bao nhiêu là đủ? Có đúng không khi cứ cho tiền cho đến khi khánh kiệt? Em không thể đấu tranh với mọi cuộc chiến trên thế giới này được.”

“Nhưng ít ra anh cũng phải đấu tranh một vài cuộc chứ. Không phải vì thế giới, mà là vì anh. Khi anh thấy có thứ gì đó khiến anh giận dữ, điều gì đó bất công hay tốt đẹp hay… hay… gì đó – anh phải đi theo nó, bất kể nó trọng đại hay nhỏ nhặt, vì đó là tất cả những gì có trong cuộc đời này. Chẳng có gì khác đáng để hoang phí thời gian của mình cả.”

Tôi không biết đáp lại thế nào. Thậm chí không biết nghĩ gì về nó. Cả hai rơi vào im lặng, ngay cả sau khi chúng tôi lấy thức ăn và ngầm thống nhất là ăn chỗ tôi và dù Lilah dường như đã hoàn toàn quên cơn giận dữ ban nãy và lại ríu rít về những công việc của tuần vừa rồi, tôi vẫn thấy mất tập trung. Lần đầu tiên trong suốt nhiều năm, lòng tôi dậy lên những cảm xúc khó tả bởi người phụ nữ này, người sẵn sàng đấu tranh vì tất cả những thứ khơi dậy cảm xúc của cô.

“Em phải về,” Lilah nói sau khi xong bữa. Nàng đứng lên và tôi cũng đứng lên, nhưng thay vì tiễn nàng về, tôi cầm tay nàng và lẳng lặng kéo nàng về phía mình.

Chỉ sau một tuần biết Lilah, bên trong tôi có quá nhiều thay đổi diễn ra đến mức tôi cảm thấy mình như đang được mở rộng ra. Tôi muốn nói cho nàng biết điều đó, nhưng tôi biết những lời nói của mình sẽ vụng về khiến nàng hoảng sợ mà bỏ chạy như một chú mèo con, nên thay vì thế tôi để nụ hôn và cái ôm của mình làm thay.

“Ở lại đi,” tôi thì thầm.

“Nhưng…” Giọng Lilah yếu ớt, nhưng cách nàng phản kháng thậm chí còn yếu ớt hơn bởi vì mắt nàng nài nỉ tôi thuyết phục nàng.

“Ở lại đi, Lilah. Xin em.”

Lilah nuốt khan. Tôi thấy những cảm xúc thoáng qua trong ánh nhìn của nàng, sự giằng xé nào đó bên trong nàng ngăn không cho nàng đến với tôi và sức mạnh đối lập – sự gắn bó giữa chúng tôi kéo nàng ở lại. Tôi thậm chí nhìn thấy khoảnh khắc mình thắng, khi nét căng thẳng trên mặt Lilah giãn ra và nàng vòng hai cánh tay ôm lấy cổ tôi.

Lilah đánh thức tôi dậy lúc rạng sáng, trước cả khi tôi tỉnh ngủ hẳn. Chúng tôi ghé sang nhà nàng để lấy quần áo và một ba lô nàng đã chuẩn bị đầy thức ăn. Rồi hai đứa lên chuyến phà nhanh sớm nhất về hướng Sydney để bắt tàu lửa.

Lilah đã lên kế hoạch chuyến đi cho chúng tôi, bắt đầu tại một trạm gác ở Katoomba, đi vòng quanh thứ gì đó có cái tên báo điềm xấu Cầu thang khổng lồ, xuyên qua rừng và quay trở lại.

Khi chúng tôi đến Echo Point Lookout, mặt trời vẫn còn thấp và chỉ có một nhóm khách du lịch rải rác. Trời lạnh cóng, nhưng Lilah bảo đến chín giờ sáng là chỗ này sẽ đầy người và các nhóm đi tour, nên tốt nhất là đến trước họ để còn có cơ hội nhìn ngắm xung quanh. Nàng đứng ngay chỗ lan can an toàn và quan sát toàn bộ khung cảnh rộng lớn và đất hoang đầy bụi rậm, thung lũng trải dài hút tầm mắt ở cả hai hướng. Dãy núi Ba Chị Em nổi tiếng ở ngay bên dưới, bị che khuất trong màn sương mù sà thấp đến chân toàn bộ khu thung lũng.

Lilah hít sâu, như thể nàng có thể cho hết vào buồng phổi bầu không khí nơi đây, rồi quay sang tôi cười toe.

“Nếu bất kỳ điều gì có thể khuyến khích anh trở thành một nhà môi trường học, thì chắc chắn là nơi này.”

“Đẹp quá.” Dù đã từng đến đây, tôi không nhớ nổi mình đã sững sờ trước sự rộng lớn của nó lần nào chưa. Tôi cầm máy ảnh lên và bấm vài bức, trong đó có một tấm Lilah hướng mắt nhìn xa xa. Nàng bắt gặp tôi chụp lén và nhoẻn miệng cười, thế là tôi bấm thêm bức nữa. Khi xem lại tấm ảnh đã chụp, tôi bị tác động bởi sức mạnh lớn lao của sự kì diệu mình đã cảm thấy đối với nhiếp ảnh từ hồi còn bé. Tôi có thể nắm bắt được một khoảnh khắc đúng lúc và đóng băng nó vĩnh viễn và lúc này những gì tôi vừa làm cũng hệt như một phép màu vậy.

“Đi nào!” Lilah tiến về phía trước. “Chúng ta còn cả một ngày dài đấy!”

Lilah không hề nói chơi.

Chúng tôi đi bộ suốt nhiều giờ. Từ Echo Point chúng tôi tiến thẳng xuống Cầu thang khổng lồ và sau khi xuống hết thảy chín trăm bậc thang bằng đá và kim loại, rốt cuộc chúng tôi đã đến được chân thung lũng. Những bảng hiệu được niêm yết công khai cung cấp cho chúng tôi nhiều lựa chọn đi lên khác nhau, trong đó có tàu lửa và xe ngựa nhưng khi tôi chỉ vào những lựa chọn đó, Lilah cười chế giễu và cương quyết thuyết phục tôi đi bộ.

“Chính xác là em định đưa anh đi đâu?” Tôi hỏi Lilah khi chúng tôi tách những du khách khác và tiến sâu hơn vào vùng đất hoang đầy bụi rậm. Có một lối đi được vạch rõ và có cắm biển chỉ đường, nhưng chỉ có hai kẻ độc hành là chúng tôi, cộng với tiếng chim líu lo trong những vòm lá phía bên trên.

“Rừng Leura. Đây là đèo Dardanelles. Chúng ta sẽ quay về qua đèo Federal và rồi lên lại theo lối cầu thang.”

“Lên lại theo lối cầu thang?” Tôi há hốc mồm, “Không phải chứ! Đi lên?!”

“Ừ. Đi lên.”

Hai đứa đi bộ thêm vài giờ nữa trên địa hình cũng may là bằng phẳng hơn, dừng lại để ăn chút trái cây Lilah mang theo và thỉnh thoảng nghỉ ngơi chốc lát. Trong lúc đi, thoạt đầu chúng tôi chỉ nói chuyện về vùng đất này và cuộc sống hoang dã, nhưng rồi khi những bước chân tiến sâu hơn vào rừng, thì cuộc nói chuyện cũng tiến xa hơn.

“Lần đầu tiên đến đây, em đi cùng cha,” Lilah giải thích. “Em nghĩ lúc đó có lẽ mẹ đang bận dạy ở Katoomba, có thể là bà đang tổ chức một hội thảo gì đấy. Em không nghĩ nhà em ở đây lâu. Em chỉ nhớ lúc xuống cầu thang, thời gian như vô tận và ở đâu đó gần chân thung lũng em nhất định không chịu đi nữa, nên cha phải cõng em. Ông bế em lên và để em ngồi lên vai ngay trên ba lô ông đeo sau lưng. Được một lúc ông thuyết phục em xuống và hai cha con cùng đi bộ đến rừng Leura. Trên đường đi lên ông quá tích cực và khích lệ đến mức em thực sự đã tự mình đi lên hết cả các bậc thang.” Nụ cười trên khuôn mặt nàng biến đổi. Nàng liếc nhìn tôi. “Cha em rất tuyệt. Ông là người có tâm hồn thuần khiết, yêu thương bằng cả tấm lòng. Em nghĩ nếu mẹ cưới ai đó khác mà không phải cha, bà hẳn đã dễ dàng lấn lướt họ; bà luôn dành chín mươi chín phần trăm cuộc đời mình cho âm nhạc. Nhưng cha có cách khơi gợi một phần trăm còn lại nơi bà và đó là phần tốt đẹp nhất của bà. Ông luôn cố hết sức ủng hộ bà, bởi vì biến ước mơ của bà thành hiện thực cũng là mơ ước của ông.” Nàng im lặng hồi lâu, rồi thú nhận. “Ngày nào em cũng nhớ cha.”

“Em có nghĩ mình giống ông không?” Tất cả những gì tôi biết về ông là câu chuyện nàng vừa kể cho tôi nghe, nhưng tôi có thể nhận ra những điểm tương đồng giữa hai cha con. Lilah bật cười và lắc đầu.

“Bố cao và khỏe và có giọng Scotland rõ ràng. Khi còn là một thiếu niên, ông chuyển đến đây sống với dì dượng của mình. Ông ít nói, nhưng khi đã quen biết thì nói thôi rồi. Lúc nào cũng là người ầm ĩ nhất phòng. Ông cứ oang oang cất giọng hết cỡ và luôn bật ra một tràng cười sau mỗi câu nói. Em thừa hưởng mái tóc của ông và có lẽ một vài đặc điểm khác nữa, nhưng em nghĩ mình giống mẹ nhiều hơn. Mẹ mê nhạc và em mê luật – cả hai mẹ con đều ám ảnh với đam mê của mình, theo những cách khác nhau. Anh giống ai hơn, mẹ hay cha?”

Tôi nhăn mặt.

“Anh không chắc nữa. Anh trông giống cha nhiều, ngoại trừ anh cũng thừa hưởng tóc từ mẹ. Đến tuổi anh cha đã bắt đầu hói rồi.”

“Anh có vẻ chăm chút tóc rất kỹ nhỉ?”

“Đó là nét đẹp nhất của anh mà.”

“Đâu có. Mắt và quai hàm mới là thứ đẹp nhất ở anh. Nhưng tóc trông cũng được.”

“Ồ, cảm ơn em,” tôi bật cười. “Anh nghĩ vậy.”

“Mẹ anh trông thế nào?”

“Bà đẹp,” tôi đáp. Cổ họng tôi nghẹn lại. “Ngay cả khi bà già đi, bà vẫn luôn dịu dàng… ân cần. Em có thể nhìn thấy điều đó trong mắt bà. Ngạc nhiên thay là cho dù bà có một mụn cóc trên đầu mũi, thì cũng chẳng ai để ý.”

“Bà có làm nghề gì không?”

“Sự nghiệp của bà là gia đình. Bà thường nói ba đứa bọn anh mỗi người là một công việc toàn thời gian của bà. Anh nghĩ bà đã dành hết hai mươi năm để làm trọng tài cho hai em trai anh.”

“Anh thì không à?”

“Đương nhiên,” tôi bật cười. “Anh không cãi cọ. Anh tập trung vào những sở thích của mình: đọc sách, vẽ hay chụp ảnh, tùy thuộc vào năm anh bao nhiêu tuổi. Ed hoặc Will thường cố lôi anh vào những trận ẩu đả của tụi nó, nhưng anh chỉ đứng dậy bỏ đi.”

“Nghe có vẻ anh được nuôi dạy rất tốt.”

“Anh biết. Và nó đúng như thế, theo nhiều phương diện. Anh là người may mắn. Ed và Will rất gần gũi, mẹ và cha rất gần gũi…”

Con đường quanh co đến một khoảng rừng thưa, dọc theo đó là một con lạch chảy xuống một thác nước nhỏ. Âm thanh êm ái của nước hòa với bản nhạc giao hưởng của cuộc sống xung quanh khiến chúng tôi không thể không dừng lại để ngắm thác nước một chốc.

Lilah bước lại gần tôi thêm một chút, khoác tay tôi hỏi, “Anh có cảm giác bị xa lánh à?”

“Anh biết cả nhà thương yêu anh. Và anh biết mình không phải là đứa con hư; anh chưa từng gặp rắc rối. Cha mẹ luôn tự hào về anh. Nhưng anh vẫn có cảm giác bị hắt hủi. Thật ngớ ngẩn vì anh tin chắc đó chỉ là do anh nghĩ vậy thôi. Sự gắn kết mà hai em trai anh có với nhau rất khác so với sự gắn kết của tụi nó với anh, còn mẹ và cha… ừm, họ yêu thương nhau kinh khủng ấy, thậm chí sau hàng chục năm. Anh có thể nhớ rất rõ vài lần trong bữa ăn anh kể về những việc mình làm ở trường và khi ngước nhìn lên anh phát hiện ra rằng mẹ chỉ chăm chú nhìn cha, cứ như thể là anh không hề ở đó vậy.” Tôi đột nhiên nhận ra rằng mình đang than vãn về tuổi thơ đầy tình yêu thương và không xáo trộn với một người sống qua bảy quốc gia trước mười hai tuổi. Tôi vội vàng cố giảm nhẹ những bình luận của mình. “Em biết đấy, những chuyện đó đều chẳng sao cả. Nhà anh là như vậy đấy.”

Chúng tôi đi sâu vào trong thung lũng và không thấy bất kỳ ai suốt một lúc lâu. Tôi nghĩ có lẽ vũ trụ đã bị thu nhỏ chỉ còn lại hai chúng tôi và cả triệu chú chim cùng những con vật không rõ danh tính chí chóe cãi nhau gần đó trong những lùm cây bụi. Tôi nghĩ về những điều mình vừa nói, những nỗi sợ thầm kín và sự thiếu cảm giác an toàn mà tôi chưa từng bày tỏ. Có thể là tôi chưa từng thú nhận điều đó ngay cả với chính mình. Tôi chợt nhớ lại lần nằm bên cạnh cô gái đầu tiên tôi ngủ cùng. Tôi nhớ mình đã cố gắng thở đều, không dám mở mắt vì sợ trông thấy vẻ thất vọng trên khuôn mặt cô ta.

“Em nghĩ thứ gì cũng có mặt tốt và mặt xấu, cho dù có lúc hình như hầu hết mọi thứ xảy ra trong cuộc sống hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu,” Lilah lẩm bẩm và tôi cuối cùng cũng nhìn nàng. Lilah có vẻ tư lự, lòng trắc ẩn thể hiện trên khuôn mặt nàng thay vì vẻ khinh thường thường thấy. Tôi thở ra nhẹ nhõm. “Sống như dân du mục khi còn bé là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời, cho dù nó cản trở việc học hành của em cũng như kiến thức của em về cuộc sống bình thường. Và gia đình anh cũng vậy, Cal. Cho dù nó đẹp và êm đềm và anh yêu thương người thân của mình, nhưng chắc chắn là rất đơn độc khi mình là người thứ năm trong một gia đình có hai cặp đôi thân thiết với nhau. Anh không cần giả vờ sự tình không như thế.”

“Anh thích nói chuyện với em,” tôi thốt lên, có lẽ đang tập trung hơi nhiều vào mớ ký ức tuổi thiếu niên vụng dại ấy. Lilah vẫn còn khoác tay tôi và nàng áp mặt vào cánh tay tôi một chốc. Đó là một cử chỉ lạ lẫm, gần giống với khoảnh khắc lúc sáng khi nàng đứng trước thung lũng và hít sâu.

“Em cũng thích nói chuyện với anh,” Lilah nói sau một lúc và rồi nàng thay đổi tư thế để có thể đứng trước tôi và tựa vào ngực tôi. Tôi choàng hai tay quanh hông nàng và tựa cằm lên đầu nàng và cả hai cùng ngắm thác nước.

Khi chúng tôi rốt cuộc cũng lên hết các bậc thang thì trời đã về chiều. Thẻ nhớ trong máy ảnh sắp đầy, nước cũng sắp hết và hai đùi tôi nóng ran lên thậm chí trước khi chúng tôi bắt đầu đi lên. Đi bộ cả ngày rồi, nhưng Lilah nhất định không chịu bắt xe lửa lượt về.

“Thế là gian lận!” Nàng phản đối khi tôi gợi ý đi lên bằng cách đó. Tôi vui, nhưng cũng mệt và có thể nhận thấy nàng cũng mệt dù không thừa nhận. Lilah sẩy chân vài lần trên đường về và dù nàng vẫn cười toe như một đứa trẻ tinh quái, tôi có thể nhìn thấy sự mệt mỏi trên khuôn mặt nàng.

“Nếu khi còn nhỏ em lên được thì người lớn như anh chắc chắn phải làm được chứ,” nàng trêu tôi. Và thế là chúng tôi đi lên, chen chúc với đám du khách cùng lựa chọn với mình. Hầu như ai cũng im lặng vì cố dồn hết năng lượng để chinh phục đoạn đường đi lên gần như thẳng đứng. Trời mau chóng trở nên lạnh khi mặt trời rời khỏi thung lũng, đến mức thấy cả những luồng hơi phả ra khi mọi người thở.

Ngay khi tôi trông thấy đỉnh ở ngay trước mặt và ngay khi tôi thấy mừng rơn và nhẹ người vì rốt cuộc cũng đã lên đến những bậc thang cuối cùng, thì Lilah trượt. Nàng không ngã xa, chỉ vài bậc thang xuống dưới và tôi phản xạ đủ nhanh để kịp kéo nàng lại và giúp nàng không ngã xa hơn. Nàng ngã đập lưng xuống nền đá và tôi tức khắc nhận ra nàng bị thương.

“Lilah?”

Nàng nhăn mặt và quơ tay về phía mắt cá chân trái. “Em nghĩ mình bị bong gân rồi.” Giọng nàng chứa đựng sự đau đớn không giấu diếm. Đám đông đang đi lên tiếp tục di chuyển như thể chúng tôi là một tảng đá trong một con suối. Tôi đỡ Lilah đứng lên và nàng cố đứng một bên chân. Nàng lập tức hét lên và tựa vào tôi.

“Ú ồ,” nàng nói. Nàng nhìn tôi với đôi mắt khẩn nài. “Em không nghĩ mình có thể đi hết những bậc thang còn lại.”

Tôi nhấc bổng nàng lên và bắt đầu đi thật chậm trở lại. Dù Lilah nhỏ con và gầy, trọng lượng thêm vào đó vẫn khiến những cơ bắp của tôi vốn đã mệt giờ nóng bừng bừng, tôi phải cố hết sức mới bước lên nổi. Lilah áp mặt vào cổ tôi và quàng hai cánh tay quanh người tôi.

Sau vài bước, tôi vừa nói vừa thở hổn hển, “Em lẽ ra không nên kể cho anh nghe về lần em bắt cha cõng xuống. Anh biết em chỉ kiếm cớ để khỏi phải đi bộ thôi.”

Lilah hôn lên má tôi.

“Nhưng mà… anh vẫn đang bế em đấy thôi.”

“Anh biết nói gì được? Anh đâu thể từ chối người đẹp.”

Tôi bế Lilah suốt đoạn đường trở lại quán cà phê tại trung tâm du lịch ở trạm, rồi cẩn thận cởi giày nàng ra để xem xét vết thương. Với mắt cá chân sưng và bầm tím thế kia, chắc Lilah sẽ không đi đâu được tối nay. Tôi tựa chân nàng lên gối chiếc ghế đối diện, rồi đi lấy nước ấm và ít đồ ăn.

Một lúc sau, hai đứa cùng nhìn đăm đăm về phía thung lũng đã cùng nhau chinh phục. Lilah uống thay phiên cốc trà và chai nước lạnh. Tôi ngồi bên nàng, cầm cốc cà phê sữa lên ngang ngực cố làm ấm bàn tay. Tôi nghĩ về tình huống lúc này, chân Lilah và cách tốt nhất để về nhà mà không khiến nàng đau thêm.

“Chúng ta có thể bắt taxi về nhà ga được không? Hoặc đi thẳng về Manly nếu em muốn. Anh lo được,” tôi gợi ý. Phí taxi sẽ là hàng trăm đô la, nhưng đoạn đường từ núi đến Manly có ít nhất một chuyến xe lửa và một chuyến đổi phà, đó là chưa kể đến những dãy nhà chúng tôi phải đi bộ để về nhà người này hoặc người kia.

“Ở lại đây đêm nay đi,” nàng đột ngột lên tiếng. Tôi ngẩn ra nhìn nàng.

“Nhưng em bị thương.”

“Ùi, chỉ là bị bong gân thôi mà,” Lilah phẩy tay có ý bảo tôi đừng lo rồi chỉ về phía đông. “Có vài khách sạn rất đẹp ở đằng kia. Tìm một cái ở lại đi.”

“Mình có mang quần áo theo đâu. Cả chất khử mùi nữa. Bàn chải cũng không.”

“Mình sẽ mặc lại đồ này. Thiếu chất khử mùi một hôm không chết được đâu, em thề đấy. Và em tin chắc là mình có thể tìm được bàn chải.”

“Đồ ngủ thì sao?”

“Callum, em không bao giờ mặc đồ ngủ. Anh không mặc đồ ngủ một đêm không chết được đâu,” nàng bật cười. “Anh có thấy là chúng mình đang tạo cho em thói quen ăn hiếp anh, bắt anh phải xuề xòa không? Nào, gọi taxi đi.”

Lối suy nghĩ đó trở nên quen thuộc và chấp nhận được đối với tôi khiến những phản kháng của tôi đột nhiên thành ra lố bịch. Chúng tôi có thể tìm một cái tổ lãng mạn cho đêm nay và tôi có thể chăm sóc Lilah khỏe lại.

“Ừ, có lý. Chuyến trở về có thể dễ dàng hơn một chút vào ngày mai đúng không?”

Lilah cười toe. Nàng đặt tay lên tay tôi trên bàn.

“Dĩ nhiên rồi. Em quá đau để có thể ngồi xe suốt một giờ trở lại thành phố, nên tốt nhất là chúng mình ở lại miền đất hoang dã tuyệt diệu này để em có thời gian nghỉ ngơi. Gọi taxi đi anh.”

Người lái taxi đưa chúng tôi đến một tòa nhà kiểu di sản tọa lạc trên rìa một vách đá. Để Lilah trong xe, tôi chạy vào đặt phòng. Có nhiều loại phòng, trong đó có một phòng cao cấp với bồn tắm nhìn ra thung lũng.

“Tôi lấy phòng có giường cỡ lớn.” Tôi bắt đầu một cách tự động, nhưng rồi đổi ý và rút lại thẻ. “Không, tôi lấy phòng cao cấp được không?”

Căn phòng có một lò sưởi mở và một giường cỡ đại và nhân viên lễ tân sốt sắng thu xếp bàn chải, một túi chườm đá và ít thuốc giảm đau cho Lilah. Sau khi nhận chìa khóa phòng, tôi quay lại giúp Lilah ra khỏi xe và đến thang máy.

Lúc này, mặt trời bắt đầu lặn xuống thấp và thung lũng đỏ rực ráng chiều. Lò sưởi vừa mới nhóm, nhưng nhiệt dưới sàn đã khiến căn phòng ấm lên rồi. Cả hai thở phào khi bước vào bên trong và cảm thấy được mức nhiệt dễ chịu xung quanh.

“Tốt hơn rồi,” tôi thở ra, đi thẳng đến lò sưởi. Lilah, trái lại, lò cò ra ban công và mở cửa. “Lilah, em làm cái gì vậy?”

“Anh lấy giúp em vài cục đá trong tủ lạnh được không?” Lilah bước ra ngoài ngắm nhìn thung lũng, rồi nói với ra sau, “Có nhà hàng dưới lầu hả?”

“Ừ, nhưng…” Tôi đã hình dung ra cảnh gọi thức ăn lên phòng và nàng gác chân lên gối trong khi chúng tôi dùng bữa.

“Chúng ta uống chút gì đó và ngắm hoàng hôn rồi hãy đi ăn tối nhé.”

“Nhưng chân em…”

“Có thang máy mà,” Lilah so vai.

Rõ ràng nàng đã quyết định. Lại nữa rồi. Tôi đột nhiên phá lên cười.

“Em là một chiếc xe ủi đất bốn chân đấy, em biết không?” “Thôi nào, Cal. Em đâu có lùn thế. Và anh chỉ sống một lần thôi. Biết đến khi nào anh lại đến đây lần nữa chứ? Cứ tận hưởng khoảnh khắc này đi.”

Tôi khui chai sâm-panh và rót ra hai ly, rồi mang cho nàng. Tôi đặt ly lên chiếc bàn thấp và kéo Lilah ngồi xuống một chiếc ghế.

“Nghỉ ngơi đi,” tôi bảo. “Anh đã nhờ nhân viên lễ tân đưa lên cho em một túi chườm lạnh rồi. Nếu em nghỉ ngơi một lúc, anh sẽ giúp em xuống nhà hàng và ta sẽ dùng bữa, được không? Nhưng chỗ đó sang trọng mà bọn mình thì ăn mặc như mới trong rừng ra thế này.”

“Ai quan tâm nào?” Lilah nâng ly về phía tôi. “Mừng chuyến phiêu lưu.”

“Mừng chuyến phiêu lưu,” tôi nhại lại. “Và mừng cả chuyến xe lửa đi lên lần tới.”

“Nếu mình đi xe lửa, thì kế hoạch giăng bẫy anh ở qua đêm tại một căn phòng cao cấp lãng mạn đâu có thành hiện thực.”

“Em chỉ cần nói ra là được thôi mà.”

Giữa đêm khuya, có gì đó đánh thức tôi dậy. Có thể tôi vô tình đụng phải chân Lilah và nàng kêu lên, hay có thể tôi cựa mình trong giấc ngủ và làm đau chỗ cơ nào đó trên người mình. Dù là lý do gì, tôi thấy mình tỉnh như sáo và nhiều phút trôi qua, tôi nhận thấy mình sẽ không ngủ trở lại ngay được.

Ý thức được Lilah đang ngủ ngay bên cạnh, tôi rón rén ra khỏi giường. Khách sạn đã mang quần áo của chúng tôi đi giặt, nên tôi chỉ mặc một chiếc áo choàng màu trắng mềm mại và đi ra chỗ cửa sổ. Chúng tôi đã đóng rèm từ sớm, nhưng giờ tôi kéo nó ra và nhìn ngắm thung lũng.

Tôi nhớ đến lần ngắm sao vào tuần trước với Lilah và những bình phẩm của nàng về việc thiếu ánh sáng tự nhiên trong thành phố. Liệu như vậy quang cảnh có chắc chắn là đẹp hơn không? Dù vậy trời quá lạnh để bước ra ngoài, nhất là khi trên người khoác độc một chiếc áo choàng; chỉ đứng bên cửa sổ thôi cũng thấy lạnh cóng rồi.

Bị thôi thúc bởi cơn bốc đồng lạ lùng, tôi mở cửa và bước nhanh ra ngoài ban công.

Không khí bên ngoài tuyệt đối tĩnh lặng và thung lũng chìm trong mù sương. Dù vậy, khi nhìn lên, tôi trông thấy hình xoáy màu kem của Dải Ngân Hà và hàng ngàn vì sao, vốn bị vùi lấp bên dưới lớp khói bụi ô nhiễm của thành phố, nay tỏa sáng rực rỡ. Cảnh tượng ấy mới ngoạn mục làm sao!

Cửa ban công bật mở he hé.

“Xin lỗi, Lilah, anh không cố ý đánh thức em.”

Nàng thò đầu ra, ngước nhìn lên trời và rồi khẽ kêu ré lên vì lạnh.

“Rõ hơn này,” nàng nói, vẫn còn ngước nhìn lên các vì sao. “Tin hay không tùy anh nhưng sao ở đây nhìn còn rõ hơn chỗ em ở phía Bắc, nơi gần như không có ánh đèn hắt ra từ các ngôi nhà. Nhưng cho dù em cảm thấy rất hài lòng khi anh đang lạnh tê người mà vẫn ra ngoài chỉ để ngắm sao, em vẫn sẽ quay lại giường ngủ.”

“Vài phút nữa thôi.”

Tôi ở ngoài ban công cho đến khi tay chân cứng đờ vì lạnh, rồi trở vào và bò lên giường nằm cạnh Lilah.

Lilah cố tình ngủ nướng vào sáng hôm sau, nhưng ngay cả như vậy trông nàng vẫn nhợt nhạt khi thức giấc.

“Em cần đi bác sĩ không?” Tôi hỏi khẽ khi chúng tôi lên tàu lửa về lại thành phố, nhưng nàng không chịu. Quá trưa chúng tôi mới về tới cầu tàu Manly. Lúc đó nàng vẫn chưa thể đi lại được và tôi nhận thấy nàng không tài nào đi bộ hết ba dãy nhà để về đến nhà được.

“Chúng ta quyết thế này nhé, anh lấy xe đưa em về nhà.” Tôi tuyên bố.

“Em …” Nét mặt Lilah cho thấy nàng đau thực sự. Thói quen tự lập không để nàng dễ dàng nhận sự giúp đỡ của người khác nhưng lúc này thì không thể từ chối được nữa.

“Lilah. Giờ đến lượt anh là người ra lệnh nhé.” Tôi đặt hai tay lên vai nàng và nhìn thẳng vào mắt nàng. “Anh đã để em lôi anh xuống nước biển lạnh cóng hay bắt anh đi lên đi xuống một ngàn tám trăm bậc thang bất kỳ khi nào em muốn, nhưng chỉ lần này thôi, em phải để anh chăm sóc cho em. Anh sẽ đưa em đến tiệm cà phê và em ngồi đó đợi anh quay lại.”

Lilah mím chặt môi và gật đầu.