M
anchester United đã theo đuổi “những lợi ích cận biên” ngay từ khi người ta còn chưa đặt tên cho những khái niệm này. Ví dụ, họ chăm sóc cho “tầm nhìn” của tôi. Khi người ta nói về “tầm nhìn” của tôi, tôi thường không nhịn được cười, vì đơn giản là tôi làm gì có “tầm nhìn”. Tôi mù như dơi. Nhưng ngay khi tôi vừa tới United, nơi người ta không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào, tôi lập tức được đưa đi kiểm tra thị lực. Người tiến hành các bài test cho tôi là một chuyên gia trong ngành, Giáo sư Gail Stephenson, một người phụ nữ hết sức dễ thương, buồn thay bà đã qua đời hồi 2015. Gail đặt bốn cái hình lên một cái gờ ở một trong hai bên, sau đó di chuyển nhẹ một hình lên phía trước và hỏi, “Cái nào đang ở phía trước?” Tôi trả lời đúng hết, nên Gail quyết định chỉ di chuyển một tí ti thôi, thế nhưng tôi vẫn nhận ra được. “Thị lực ngoại biên và khả năng cảm nhận độ sâu của cậu thật đáng ngạc nhiên,” Gail nói.
Nhờ chơi ở trung lộ, thị lực ngoại biên của tôi lúc nào cũng được duy trì ở mức sắc nét, bởi vì tôi nhìn sang bên trái và bên phải đều nhiều như nhau. Phát hiện ra các đồng đội của tôi là điều rất dễ dàng, bởi vì hình ảnh của họ không bao giờ bị nhòe đi, ngay cả ở một góc rất hẹp. Tôi nhìn còn rõ hơn nữa sau khi Gail bày cho tôi một số bài tập tăng cường cho mắt trong lúc khởi động. “Quan sát các vật ở gần, rồi sau đó ở xa, và cứ tập trung nhìn vào đó cho tới khi mắt của cậu quen với ánh sáng ở sân vận động,” Gail nói. Ngay trước thời điểm giao bóng, tôi sẽ nhìn vào một nhánh cỏ, hay một cái gì đó ở gần, rồi sau đó tập trung mắt vào một vật gì đó ở xa, có thể là một tấm pano quảng cáo hay là một bảng chỉ dẫn, tùy, để mài sắc thị lực. Gail nhận ra có sự khác biệt rõ rệt giữa thị lực của tôi và của Gary Neville. Thị lực cận biên của những cầu thủ chơi ở cánh khác xa những cầu thủ chơi ở các vị trí khác. Khả năng quan sát về bên trái của Nev tốt hơn bên phải, bởi vì khi chơi ở vị trí hậu vệ phải, anh phải nhìn về phía bên trái của mình trong phần lớn thời gian của trận đấu.
Tôi đố ai tìm được một fan Quỷ đỏ nào cực đoan hơn Nev, bởi vì anh có sẵn tình yêu với đội bóng từ trong máu rồi. Nhưng chính cuộc đời tôi cũng nhanh chóng bị xâm chiếm bởi United. Thế cho nên, tôi không cần ai trong phòng thay đồ phải giảng cho tôi những bài học lịch sử về các cuộc đối đầu với Liverpool cả. Càng tới gần cuộc đụng độ trên sân Anfield năm đó, theo lịch sẽ diễn ra vào ngày 3 tháng 3 năm 2007, tôi càng cảm nhận được rõ những biến động trong tâm trạng của các đồng đội và cả Sir Alex. Những bài nói chuyện của sếp ở Anfield bao giờ cũng là những bài hấp dẫn nhất. Chỉ cần lắng nghe những lời ông nói, cảm nhận dòng điện đang chạy lách tách qua từng con chữ, ta có thể hiểu trận đấu này với ông có ý nghĩa thế nào. Ông khao khát đánh bại Liverpool ngay trên lãnh địa của đối thủ nhiều ra sao. Ta cảm nhận được hết khi nghe ông hùng hồn nói về sự kình địch giữa hai đội bóng, thậm chí cả sự kình địch giữa hai thành phố, về lịch sử kinh tế và Kênh đào Manchester. “Chúng ta phải thắng trận này,” ông nói. Sếp nói tiếp về trách nhiệm của chúng tôi với các cổ động viên của United. Họ có được trở lại cuộc sống thường nhật trong ngày tiếp theo với niềm hạnh phúc có thể tồn tại trong cả ngày, cả tuần, thậm chí là cả tháng hay không tùy thuộc vào những gì chúng tôi thể hiện trong 90 phút sắp tới. “Đừng để họ thất vọng” là mệnh lệnh từ sếp. “Hãy nỗ lực hết sức.” Luôn luôn là “nỗ lực hết sức”. Sếp không ngừng đẩy tầm vóc của trận đấu lên cao và cao hơn nữa, nên mỗi cầu thủ chúng tôi khi đã khoác lên người chiếc áo đấu của United đều biết rằng đó là trận đấu mà chúng tôi phải thắng bằng mọi giá. “Đây chính là nơi tốt nhất để giành chiến thắng, phải, chính ở đây,” ông nhắc lần cuối trước khi trọng tài ấn chuông triệu tập chúng tôi vào trận chiến.
Nhưng bước ra từ đường hầm của sân Anfield lại là một câu chuyện khác. Xuất hiện ở đó trong màu áo United khác hẳn với khi tôi còn là người của West Ham hay Spurs; tôi có cảm giác như mình đang bị nhấn chìm dưới một con sóng lớn của sự cuồng nộ, những lời lăng mạ và thái độ thù địch. Cổ động viên Liverpool từ tứ phía đứng hết cả dậy chỉ để lăng mạ tôi, ném vào tôi những lời cay nghiệt như “thằng đần thành Manchester”, “Carrick, mày chỉ là một đống c*t”, “thằng Geordie khốn kiếp”, nhưng điều đó không làm tôi cáu, mà chỉ thấy buồn cười. Phần lớn những hành động ấy xảy ra trong thời gian khởi động, lúc sân vận động vẫn chưa ồn ào lắm, nên tôi có thể nghe rõ từng câu chửi, thậm chí còn biết rõ có một kẻ nào đó đang cố khiến cho bạn bè của gã cười bằng cách sỉ nhục tôi. Toàn những thứ vô hại. Ngay cả khi bóng ra ngoài sân, và một cổ động viên của Liverpool cố gắng ném thật mạnh quả bóng vào ngực tôi, cố tỏ ra thông minh với đám bạn của gã, thì tôi cũng chỉ cười. Tôi muốn cho những gã đó thấy chúng đang phí công, và chính điều đó lại khiến chúng cay cú hơn nữa. Tốt, thế là đúng ý tôi rồi. Những chuyện kiểu đó thực ra rất hay. Chúng khiến tôi phấn khích hơn, đôi khi còn cười thành tiếng. Kình địch trong bóng đá là phải thế.
Nếu được hỏi, tôi có thể khẳng định ngay trận đấu ở Anfield vào tháng 3 năm đó là một trong ba khoảnh khắc ưa thích nhất của tôi trong thời gian chơi bóng cho United. Chúng tôi đang dẫn đầu Premiership nhưng phải chịu một áp lực rất lớn và ngày càng lớn hơn. Tôi nhớ lại lời Nev rằng đây là quãng thời gian chúng tôi thường chơi rất tốt. Nhưng thực tế thì hôm đó chúng tôi đã chơi rất tệ, tới mức hoàn toàn vô vọng. Tôi phải nhận một thẻ vàng vì phạm lỗi với John Arne Riise, Scholesy thì nhận thẻ đỏ, và chúng tôi bị đặt vào tình thế hết sức ngặt nghèo. May mắn là còn có Edwin, người chỉ bằng một tay đã có một pha cứu thua khó tin sau cú dứt điểm của Peter Crouch để bảo toàn tỷ số 0-0. Trong tình thế này thì một điểm cũng không đến nỗi nào, nên chúng tôi đều nghĩ thôi thì cứ cầm lấy một điểm rồi làm sao thoát thật nhanh ra khỏi cái địa ngục này. Đúng vào thời điểm trọng tài giơ bảng điện tử báo hiệu trận đấu sẽ có 4 phút bù giờ thì Giggsy bị kéo ngã ở vị trí chếch bên trái vòng cấm của Liverpool. Ronaldo đặt bóng xuống điểm đá phạt, trong vòng cấm, chúng tôi chỉ có bốn cầu thủ - O’Shea, Vidić, Saha và Ferdinand - tôi thì đứng ngoài vòng cấm, sẵn sàng đón lõng một tình huống bóng hai hoặc ngăn chặn một cơ hội phản công của đối thủ. Và rồi... Pepe Reina lóng ngóng để bóng bật ra, Sheasy lao vào đá bồi. Cảnh tượng khi đó thật điên rồ. Chúng tôi vừa ghi được bàn thắng quyết định ở những giây cuối cùng của trận đấu, ngay trước The Kop (khu khán đài nổi tiếng của Liverpool). Đời chắc chẳng thể nào đẹp hơn được nữa. Sheasy xoay người và chạy vù qua tôi, thẳng một mạch tới chỗ các cổ động viên United ở đầu kia của sân để ăn mừng. Sau tiếng còi chung cuộc, toàn đội không ai bảo ai cùng chạy về phía khu khán đài Anfield Road để chia vui với các cổ động viên, không đoái hoài gì tới Sir Alex, người đang ăn mừng bên ngoài đường biên. Tôi ăn mừng với Giggsy, Nev và Rio trước, sau đó ôm Vida và Wazza. Nev cởi phăng áo ra và ném về phía các cổ động viên. Sir Alex bước vào sân, oai hùng như một vị tướng đang quan sát mảnh đất mà ông vừa chinh phục được. Rồi ông vỗ tay cảm ơn các cổ động viên, những người lúc đó như đang phát điên, một điều hoàn toàn dễ hiểu bởi chiến thắng ở Anfield là tất cả, ba điểm là tất cả, và có cảm giác như chúng tôi đã vô địch Premiership rồi. Chelsea, lúc đó đang đứng thứ hai, cần chúng tôi thất bại để có cơ hội vượt lên, nhưng lòng can đảm đã giúp chúng tôi vượt qua được thử thách khó khăn nhất. Chúng tôi đã tiến thêm được một bước dài nữa tới chức vô địch, và còn tuyệt vời hơn khi làm được điều đó ngay trong vườn nhà của kình địch.
Có một số trận thắng mang tầm vóc lớn lao hơn những trận thắng khác. Chứng kiến những gì mà chiến thắng đó mang lại cho các cận vệ già, cho sếp và đội ngũ nhân viên của câu lạc bộ, và tất nhiên là cho các cổ động viên khiến tôi càng thấu cảm được tầm vóc của nó. Tôi nhìn những cổ động viên tuyệt vời của mình mở hội trên Anfield Road mà cảm giác như mình đang là một người trong số họ. Tôi chỉ mới tới đây được chín tháng, nhưng United bây giờ đã trở thành tôn giáo của tôi rồi. Tôi nhìn Nev ăn mừng với các cổ động viên và tin rằng United chính là cuộc sống, là gia đình, là chiến hữu, là tất cả với anh ấy. Với tôi, Nev hiện thân cho United. Ngay từ lúc mới sinh ra anh đã muốn một mình chống lại cả thế giới, và chính thái độ thách thức ấy là điều tôi yêu quý nhất ở anh. Tôi chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tình yêu mà Nev dành cho United. Một trong những bức ảnh tôi quý nhất trong điện thoại là bức ảnh chụp tôi, Nev, Giggsy và Rio đứng trước các cổ động viên sau khi trận đấu ở Anfield nói trên kết thúc. Tôi xem đi xem lại bức ảnh ấy bao nhiêu lần vẫn không chán. Cảm xúc mà chúng tôi có khi đó thật đặc biệt. Nói về tình yêu với United thì chẳng ai bì được Nev, Giggsy và Scholesy. Nhưng những người còn lại bọn tôi cũng không hề ở quá xa phía sau họ. Solskjaer yêu đội bóng mãnh liệt, Sheasy cũng vậy, trong khi Wes thì đã gắn bó từ rất lâu. Fletch, Wazza và Rio cũng đều xem United là tình yêu lớn của cuộc đời. Alan Smith đến từ Leeds United - có thể xem như kẻ thù - nhưng vì anh được sinh ra ở Salford, nên tình cảm với Manchester United có vẻ được hình thành một cách hết sức tự nhiên. Patrice Evra và Ji-sung Park không có mối liên hệ nào với United trước đó, nhưng họ đều yêu nơi này một cách sâu sắc. Evra rất được các cầu thủ trẻ và cầu thủ nước ngoài tôn trọng, anh thường xuyên lôi những người như Anderson ra để chấn chỉnh, kéo họ trở lại đúng nơi đúng chỗ nếu thấy cần thiết. Anh là một cá tính lớn, lúc nào cũng sôi nổi. Ji chính là bạn thân nhất của anh. Bộ ba bạn bè lạ thường nhất trên thế giới là Patrice Evra, Ji-sung Park và Carlos Tévez - họ lúc nào cũng kè kè bên nhau, mỗi ngày đều chơi một chạm, hai chạm cùng nhau trên sân tập. Có Chúa mới biết họ giao tiếp với nhau bằng cách nào - một người thì tới từ Pháp, một người Hàn Quốc, người còn lại Argentina - nhưng họ cứ thích được ở gần nhau, và được ở United.
Chiến thắng ở Anfield đưa chúng tôi tiến gần hơn tới chức vô địch. Sau khi Ronaldo ghi bàn từ chấm 11m trong trận đấu với Manchester City vào ngày 5 tháng 5 năm 2007, Chelsea bị đặt vào thế phải đánh bại Arsenal ở Emirates trong trận đấu diễn ra vào ngày tiếp theo nếu không muốn chứng kiến chúng tôi lên ngôi sớm. Tôi chưa bao giờ ở gần chức vô địch đến thế, nên thực sự không biết phải làm gì. Cuối cùng tôi quyết định tới Carrington tập thả lỏng, sau đó trở về căn hộ của Lisa và tôi ở Alderley Edge. Lisa bận tham dự một bữa tiệc chỉ dành riêng cho các chị em, nên trong nhà chỉ còn Graeme và tôi. Tất nhiên là chúng tôi xem trận đấu của Chelsea. Trong một dịp quan trọng như vậy, khung cảnh phải thực sự phù hợp nên chúng tôi quyết định sắp xếp lại phòng khách một chút để có thể nằm vắt qua hai cái sofa, yên tâm không cần phải rời mắt khỏi màn hình. Trận đấu căng thẳng và kịch tính như phim hành động. Chelsea chỉ còn chơi với 10 người, Arsenal vượt lên dẫn trước 1-0, rồi Chelsea gỡ hòa khi trận đấu chỉ còn 20 phút. Trong khoảng 10 phút cuối trận, Graeme và tôi, trước đó còn bàn luận không ngừng về trận đấu, đều im như xác chết. Chúng tôi nằm im, nín thở, đến cả cựa mình cũng không dám. Rồi khi trọng tài nổi hồi còi chung cuộc, cả hai lập tức bật dậy, vỡ òa. Chúng tôi ôm nhau nhảy như điên. Dạ dày của tôi như cuộn lại, trong khi tim thì muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Chúng tôi nhảy điên quá, tới gần như làm thủng cả sàn nhà. Chỉ có Chúa mới biết người phụ nữ sống ở tầng dưới đang nghĩ cái gì. “Championes, championes, ole, ole, ole!!”, chúng tôi gào lên, như rồ như dại. Nhưng có điên đến mấy thì hai thằng đàn ông cũng không thể ôm nhau nhảy nhót được mãi, nên sau vài phút, chúng tôi dừng lại, nhìn nhau trong yên lặng, thở dốc, cố gắng trở lại bình thường.
“Wow, anh vừa thành nhà vô địch đấy! Em rất tự hào về anh!” -Graeme nói. Được chia sẻ những khoảnh khắc như thế với Graeme là điều thật tuyệt vời, vì nó hiểu được hết những hy sinh mà tôi đã phải trải qua. “Bây giờ chúng ta làm gì nhỉ?!” - tôi hỏi. Giành chức vô địch quốc gia là điều mà tôi luôn mong ước từ thời còn là cậu nhóc, nhưng khi có được nó rồi thì tôi lại không biết phải phản ứng như thế nào. May mắn làm sao, chúng tôi còn có Nev, một chuyên gia tổ chức tiệc tùng. Nev gọi cho chúng tôi và ra lệnh, “Tới ngay Living Room.” Chỉ 45 phút sau đó, chúng tôi đã có mặt trên phố, trong quán bar Living Room trên đường Deansgate, nơi các cầu thủ khác đều đã có mặt không thiếu một ai. Các nhân viên từ Học viện cũng như từ sân tập đều đã xuống phố, họ ùn ùn kéo vào, theo sau là Brian McClair, Giám đốc Học viện. Các huấn luyện viên đội Một đã được mời tới nhà của sếp, có lẽ đang ở trong phòng ăn, nơi rõ ràng là “văn minh” hơn. Nhưng tất cả những người còn lại thì đều kéo về Living Room. Bố của Nev, Big Nev, cũng tới cùng với những người bạn của ông. Ở đó cũng có cả bạn bè của Giggsy, tất cả đều là người Manchester, tất cả đều là fan cứng của Quỷ đỏ. Khi tất cả đều tề tựu đông đủ, cảnh tượng trở nên thật hỗn loạn. Big Nev, người khiến cho Nev trở nên trầm tĩnh lạ thường, quyết định đóng vai chủ trò. Ông đứng lên ghế, bất thình lình hô to “Shushhhhh”, rồi bắt nhịp một bài hát tập thể mới. Chúng tôi giẫm xuống sàn, đụng lên trần, nhảy nhót, hát hò như điên cho tới khi người đầm đìa mồ hôi và cuối cùng là kiệt sức. Tôi biết là chúng tôi sẽ có màn ăn mừng chức vô địch trước sự chứng kiến của mọi người, nhưng ăn mừng đích thực thì phải là bữa tiệc “kín” này, nơi cả đội cùng nhau “quẩy” hết sức như thể không có ngày mai. Chúng tôi đã cùng nhau đi qua trận chiến này, mỗi ngày trên sân tập đều nỗ lực hết mình, mỗi lần ra sân đều cố gắng hết sức, nên có thể cùng nhau nhâm nhi một cốc bia hay hát với nhau một bài cũng chính là một phần thưởng vậy.
Tôi đứng giữa Living Room, cố gắng thâu nạp hết tất cả những cảm xúc của ngày hôm nay. Tôi yêu đội United ấy, yêu cả những chân tình mà chúng tôi dành cho nhau. Tôi không bao giờ có ý thiếu tôn trọng những tập thể United khác trong quá khứ, nhưng tôi không nghĩ là từng có một tập thể nào gắn kết hơn chúng tôi năm đó. Chúng tôi gần như là anh em trong một gia đình. Tin tôi đi, tinh thần ấy là thứ không dễ kiếm, thế mà chúng tôi lại có rất nhiều, nhiều hơn bất kỳ đội bóng nào khác. Những ngày vui như thế chỉ như ánh chớp lóe lên trong cuộc đời, thật tiếc là tôi chỉ có thể lưu giữ chúng trong ký ức, bởi thời đó, chúng tôi đâu có nhiều smartphone như bây giờ. Tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để có thể được thấy lại một vài hình ảnh của ngày xưa, để từ đó có thể trở lại với quãng thời gian tươi đẹp ấy. Những bữa tiệc ấn tượng nhất là trong thời gian tôi mới ký hợp đồng, lúc đó, tất cả các cầu thủ đều thuộc lời của tất cả các bài hát. Những bữa tiệc Giáng sinh thì thường kết thúc trong quán rượu, nơi có cả ban nhạc biểu diễn nhạc sống. Chúng tôi sẽ bắt đầu với những bài hát “đàng hoàng”, nhưng chỉ sau khoảng nửa giờ thì cả bọn sẽ tự động chuyển qua hát các bài về United, từ “Yip Jaap Stam”, “Nicky Butt, Nicky Butt, Nicky, Nicky Butt”, “Oh, Keano’s fucking magic” (ma thuật của Keano), “We are the pride of all Europe” (Chúng ta là niềm tự hào của cả châu Âu), và cả những bài kinh điển như “Ooh, aah Cantona”. Chúng tôi sẽ đi quanh phòng và tặng cho mỗi người có mặt ở đó một bài hát. Điên rồ vậy đấy, nhưng đó chính là những kỷ niệm mà tôi nhớ nhất.
Tôi thường nói với Graeme về đội United ấy của tôi, và đêm đó, thật tuyệt vời khi em trai tôi có cơ hội được nhập bọn và tận mắt chứng kiến bầu không khí có một không hai mà tôi thường nói là như thế nào. Tôi vẫn nhớ rằng sau khi chúng tôi rời Living Room, Graeme có nói với tôi, không chính xác từng từ bởi tôi làm sao mà nhớ hết được sau một đêm rực rỡ như thế, một câu đại ý rằng: “Thật là một vinh dự quá lớn khi được mời đến đây đêm nay.” Graeme nói đúng, đó là một vinh dự.
Mùa giải đầu tiên cũng là lúc tình yêu của tôi với Champions League bắt đầu - đấy là một mối quan hệ mang tới cho tôi cả những cơn đau đầu lẫn những niềm hạnh phúc. Có đủ lý do để việc phải lòng Champions League trở nên thật tự nhiên và dễ dàng: những sân vận động đầy sắc màu, bản nhạc hiệu hào hùng lúc nào cũng khiến ta nổi da gà, việc được chơi bóng dưới ánh đèn, và trên hết là chất lượng của những cầu thủ cũng như những đội bóng mà chúng tôi phải đối mặt. Thật khó mà quên được âm thanh trên sân vận động Celtic Park tháng 11 năm đó. Khi nhạc hiệu của UEFA vừa dứt, tất cả các cổ động viên Celtic trên sân đồng loạt tạo nên một tiếng gầm lớn, gần như khiến cho ta phải rùng mình. Khi còn nhỏ tôi rất ngưỡng mộ Celtic, bởi vì bố là người Công giáo, ông theo rất sát Celtic và thường kể cho tôi nghe về những cổ động viên nhiệt thành của họ. Tôi từng chơi bóng ở Celtic Park trong màu áo West Ham trong một trận giao hữu trước mùa giải hồi 2.000. Hôm ấy Paolo Di Canio khiến chúng tôi cười ngất khi chạy ra và không ngừng gửi những nụ hôn gió cho các cổ động viên Celtic trên khán đài. Bầu không khí lúc ấy rất tuyệt, nhưng so với phản ứng của các cổ động viên khi Manchester United xuất hiện thì không đáng là gì. Hơn 60.000 người nêm chặt các khán đài, tất cả đều khao khát chiến thắng, khao khát được có mặt ở vòng knock-out. Khi quả đá phạt của Shunsuke Nakamura đưa bóng bay vào lưới, âm thanh được tạo ra dữ dội tới mức tôi gần như bị điếc, không nghe được cái gì trong một lúc.
Chúng tôi cuối cùng cũng qua được vòng bảng, và tới vòng tứ kết thì đụng Roma, tạo nên những trận đấu hết sức thú vị. Trận lượt đi diễn ra trên sân Olimpico, không khí nóng lên từ rất lâu trước khi trận đấu bắt đầu. Các cổ động viên của chúng tôi không ngừng được cảnh báo về nguy cơ bị các Ultra của đối phương phục kích, nhất là trên quãng đường đi bộ từ Ponte Duca D’Aosta tới sân. Nhưng cuối cùng thì chính chúng tôi mới là những người bị phục kích, trên sân, trong một buổi tối hết sức nhọc nhằn. Sir Alex đã cảnh báo về việc Roma khai thác hệ thống nhiều bóng (sử dụng cùng một lúc nhiều trái bóng để hạn chế thời gian “bóng chết”) một cách hết sức tài tình. “Để ý những quả đá phạt góc nhanh của họ,” sếp dặn đi dặn lại. “Họ đưa bóng vào cuộc nhanh lắm.” Chỉ sau vài phút bóng lăn, tôi đã có cảm giác là quy trình tuyển chọn các cậu bé nhặt bóng (ball boy) ở Roma bao gồm cả những bài thi chạy tốc độ cao. Mỗi khi Roma được hưởng một quả phạt góc, một cậu bé nhặt bóng sẽ chạy như bay tới, đặt trái bóng xuống gần cột cờ góc, Francesco Totti sẽ tới và quất bóng vào trong luôn. Họ chắc chắn phải tập đi tập lại bài này nhiều lần bởi vì quy trình ấy luôn được thực hiện hết sức mượt mà và đồng bộ. Chỉ 5 giây sau khi đi hết đường biên ngang, trái bóng đã trên đường bay vào vòng cấm của chúng tôi rồi. Trong mấy quả phạt góc đầu tiên mà Roma được hưởng, khu vực cấm địa của chúng tôi lúc nào cũng trong tình trạng hỗn loạn. Chúng tôi thực sự bị oanh tạc. Kiểu “Socom” phiên bản đời thực, thay lựu đạn bằng bóng! Từ một quả đá phạt góc nhanh như thế, Roma có được bàn thắng do công của Rodrigo Taddei. Vấn đề là, những cậu bé nhặt bóng của Roma chẳng bao giờ phản ứng nhanh đến vậy khi bóng là của chúng tôi. Chúng tôi mà “lỡ” được hưởng một quả ném biên hay phạt góc thì sẽ phải chờ bóng tới dài cả cổ. Dẫu vậy, tôi không vì thế mà đánh giá thấp Roma, họ thực sự dữ dội. Mọi đường lên bóng của họ đều qua chân Totti, người sẽ không đánh bại bạn bằng tốc độ, mà bằng nhãn quan và kỹ thuật. Roma có hẳn bài tấn công qua Totti - sau một đường chuyền lên của đồng đội, anh ta sẽ gẩy bóng - một chạm - sang hai bên cho các đồng đội, đặc biệt là hai cầu thủ chạy cánh, băng lên. Đêm ấy thật dài và nhọc nhằn. Scholesy bị đuổi khỏi sân sau hai pha phạm lỗi với Christian Wilhelmsson và Totti. Tôi đã nghe không biết bao nhiêu tranh cãi về những pha tắc bóng của Scholesy, nhưng tôi chưa bao giờ nghe sếp yêu cầu anh phải giảm độ quyết liệt xuống, như thể ông xem đấy là cái giá (không đáng kể) mà ông cần phải trả cho sự xuất chúng của Scholesy. Không còn Scholesy trên sân, tôi dành toàn bộ thời gian còn lại của trận đấu để bảo vệ cho hàng hậu vệ. Trên khán đài, các cổ động viên của chúng tôi bị cảnh sát Italia trấn áp rất nặng tay vào giờ nghỉ, cảnh tượng thực sự rất sốc. Dưới sân, chúng tôi thành công trong nhiệm vụ giữ cho mình toàn vẹn, khi chỉ thua có 1-2. Riêng tôi thì trở về với chiếc áo đấu của Totti. Những ngày ấy tôi vẫn còn năng đi sưu tập áo đấu, nhưng theo thời gian, tôi dần bỏ đi thói quen này.
Bàn thắng trên sân khách của Rooney có ý nghĩa vô cùng to lớn, chính nó đã giúp cho chúng tôi tin tưởng rằng mình có thể đảo ngược được thế cờ khi trở lại Old Trafford. Bây giờ tôi vẫn có chút sởn gai ốc với những gì đã xảy ra vào ngày 10 tháng 4 năm 2007 đó. Chúng tôi không có Scholesy, và trong mắt của nhiều chuyên gia thì chúng tôi cũng chẳng có chút cơ hội nào, nhưng chúng tôi có các cổ động viên của mình, và có Sir Alex, người biết làm thế nào để kích nổ quả bom trên các khán đài. “Xoạc bóng sớm hơn, tạt bóng sớm hơn, nhanh chóng băng lên phía trước, ném biên thật nhanh, sút bóng sớm hơn, làm sao cho các cổ động viên thật phấn khích vào,” Sir Alex nói với chúng tôi trước trận đấu. Ông biết rằng làm thế sẽ tiếp thêm năng lượng cho các cổ động viên, và tới lượt mình, họ sẽ tiếp thêm năng lượng cho chúng tôi. Ngay từ lúc đứng trong đường hầm, chúng tôi đã biết là các cổ động viên của mình đang bay lắm rồi, họ cùng nhau tạo nên những âm thanh dữ dội và biến sân bóng thành một pháo đài. Old Trafford đôi khi cũng hơi bị trầm quá, một điều hoàn toàn tự nhiên, nhưng không phải là trong những buổi tối “được ăn cả ngã về không” ở Cúp châu Âu như đêm nay. Có thể các cổ động viên của chúng tôi vẫn còn cảm thấy tức giận với cách đối xử thô bạo mà họ phải chịu đựng ở Rome, và muốn có sự đáp trả thích đáng với từng cú đòn và từng lời sỉ nhục. Có thể là họ cũng đã chứng kiến những rắc rối bên ngoài Old Trafford do những cổ động viên làm loạn của Roma gây ra. Có thể họ biết cầu thủ chúng tôi cần họ nhiều đến thế nào. Họ rõ ràng đã không để cho chúng tôi phải thất vọng. Với năng lượng là sự cổ vũ hết mình của họ, chúng tôi đã xé toạc Roma ra từng mảnh. Mọi thứ đều diễn ra với tốc độ chóng mặt. Chúng tôi dồn ép, rồi dồn ép, rồi dồn ép, theo đúng chỉ đạo của sếp và mong ước của các cổ động viên.
“Phải chiếm được thế thượng phong, phải tấn công phủ đầu họ,” Sir Alex dặn. Chúng tôi chơi bóng bằng tất cả năng lượng và tinh thần, làm sao có thể cản. Tự mỗi cầu thủ đều cảm thấy mình không thể bị đánh bại, và đương nhiên là trên tư cách một đội bóng, chúng tôi cũng không thể bị đánh bại. Chúng tôi chơi bóng với sự tự do và niềm tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra. Mỗi cầu thủ, mỗi cổ động viên đều dồn hết tâm trí vào trận đấu. Cảm giác về tinh thần tập thể mà chúng tôi tạo ra thật khó tin. Khi tất cả đều nghĩ là bầu không khí không thể tuyệt vời hơn, không thể ồn ào hơn được nữa, thì chúng tôi lại ghi thêm một bàn thắng, và thế là không khí lại trở nên tuyệt vời và ồn ào hơn một nấc. Quả là Thiên đường. Đó là buổi tối mà tôi thực sự cảm thấy mình thuộc về Old Trafford, cảm thấy tôi đã được chấp nhận là một thành viên của cộng đồng cổ động viên và cầu thủ đầy quyền lực này. Sau đường chuyền trả ngược vào trung lộ của Ronaldo, tôi đỡ bước một hơi lỗi, trái bóng nằm hơi sát chân. Nhưng tôi quan sát thấy thủ thành Doni của Roma đã lên hơi cao, nên quyết định sục bóng luôn. Với tư thế lúc đó, tôi không thể nào mà sút căng được, nên tôi chỉ có thể đánh bại Doni bằng cách tác động lên quỹ đạo bay của trái bóng. Tôi cần phải vẽ được một đường cong hoàn hảo, bởi vì tôi không thể lùi lại lấy đà nên không thể gia lực cho cú sút của mình. Trái bóng rời chân tôi, lượn một vòng qua đầu Doni và cả sân Old Trafford vỡ òa. Quả bom đã được kích nổ.
Đó là một trong những buổi tối vĩ đại nhất ở Old Trafford, và chắc chắn sẽ mãi mãi được lưu giữ trong tâm trí tôi. Chúng tôi tung ra hết đợt tấn công này tới đợt tấn công khác, ghi hết bàn này tới bàn khác, đầu tiên là Alan Smith, sau đó là Wazza, sau một pha phối hợp tuyệt vời giữa Giggsy và Ronaldo, và ngay trước giờ nghỉ là chính Ronnie. Tấn công không ngừng, di chuyển không ngừng, đúng như những gì mà sếp yêu cầu. “Đừng sợ mất bóng, cứ thoải mái, lúc nào cũng phải tích cực,” ông nói. Trận đó, chúng tôi ra sân với sơ đồ 4-2-3-1, với Smudger đá cắm, chơi ngay phía sau anh là Giggsy, Wazza và Ronnie ở hai cánh còn tôi và Fletch ở trung lộ. Sir Alex đã có một lựa chọn hoàn toàn chính xác. Wazza nâng tỷ số lên 5-0, nhưng các cổ động viên vẫn hô vang “tấn công, tấn công, tấn công”, như thể họ thực sự muốn Roma phải chịu cảnh khổ sở. Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc “tuân lệnh”, với một cú sút mà ta chỉ có thể thực hiện khi ở phong độ cao nhất đưa trái bóng găm vào góc lưới. Wazza chạy lại phía tôi và chúng tôi cùng nhau cười một cách vô thức, bởi thực sự đêm nay quá đặc biệt, mọi chuyện diễn ra như trong mơ.
Bàn thắng đầu tiên của tôi rất quan trọng, có thể nói là một trong những bàn thắng quan trọng nhất mà tôi từng ghi. Còn ở thời điểm tôi ghi bàn thứ hai, đó đã là bàn thắng thứ sáu của đội, và trận đấu coi như đã ngã ngũ. Chúng tôi đánh sụp đối thủ. Roma lúc đó hoàn toàn suy sụp. Họ thậm chí chẳng thèm ăn mừng bàn thắng sau cú volley của Daniele De Rossi. Sếp rút tôi ra khỏi sân, và các cổ động viên đứng hết cả dậy để dành cho tôi những tràng vỗ tay dài tán thưởng. Tới tận bây giờ tôi vẫn có thể nghe được những tiếng vỗ tay ấy, chúng giống như một sự công nhận dành cho tôi, một sự công nhận kéo dài và đầy cảm xúc. Tôi và Mick Phelan có một cuộc trao đổi nhanh khi tôi về tới chỗ ngồi của mình. “Không cho tôi làm một cú hat-trick à sếp?” - tôi đùa.
“Chúng tôi mất bao nhiêu tiền để mua cậu ấy nhỉ?” Mick hỏi lại. “Tôi nghĩ là cậu đã trả đủ rồi đấy!”
Patrice Evra khép lại một đêm hoàn hảo với bàn thắng ấn định tỷ số 7-1, mọi người chỉ chờ cho tới khi trọng tài nổi còi mãn cuộc để được sếp khen “Làm tốt lắm, các chàng trai!” Tối hôm đó, tôi được sếp vỗ nhẹ lên đầu, và kèm theo đó là lời khen, “Tuyệt vời!” Chúng tôi, gồm Lisa, tôi và bố mẹ thẳng tiến tới Wing, một nhà hàng Trung Quốc, để ăn cho xong bữa tối, vì sau đó bố mẹ còn phải lái xe trở lại Newcastle, điều mà hai người đã làm không biết bao nhiêu lần trong thời gian tôi chơi bóng ở Old Trafford. Chúng tôi vừa bước chân qua cửa nhà hàng, tất cả mọi người đang có mặt đều đứng dậy và vỗ tay chào đón tôi. Điều đó chứng tỏ việc chúng tôi thắng một cách có phong cách có ý nghĩa lớn thế nào với các cổ động viên. Ngay tới bây giờ vẫn còn nhiều cổ động viên khi thấy tôi trên đường sẽ chạy tới và nói rằng trận thắng Roma 7-1 ấy là một trong những buổi tối tuyệt vời nhất của họ.
Buồn thay, ngay trận đấu tiếp theo ở Old Trafford, trận bán kết lượt đi với AC Milan, chúng tôi lại để cho giấc mơ châu Âu của mình trở nên nhạt nhòa đi khi để Kaká lướt trên sân như một cơn gió, rất mượt mà, rất nhanh nhẹn, và ghi liền hai bàn. Tỷ số là 2-2 khi trận đấu còn 10 phút nữa, Giggsy nói với tôi, “Chúng ta sẽ có cơ hội, cứ tiếp tục tấn công đi. Chúng ta sẽ luôn luôn có cơ hội.” Đó chính xác là những gì chúng tôi luôn tin tưởng. Chúng tôi luôn luôn có cơ hội, và hoàn toàn không phải nhờ may mắn. Tôi đã nghe Giggsy nói thế không biết bao nhiêu lần, và thường thì anh đúng. Đúng vào phút cuối cùng, Giggsy chọc khe cho Rooney, người đã đánh bại Dida với một cú sút căng vào góc gần. Chúng tôi tới Italy, lòng tràn trề hy vọng. Tôi thực lòng yêu San Siro. Khi chúng tôi ra sân khởi động, phần lớn trong số 78.500 cổ động viên đã có mặt trên các khán đài, và có cảm giác như mỗi cổ động viên Milan đều đang huýt sáo phản đối chúng tôi. Bị nhiều người đến thế chửi bới mang lại cảm giác rất thú vị, thậm chí còn có thể nói là thỏa mãn. Nhưng đấy chỉ mới là màn khởi đầu thôi. Gennaro Gattuso phóng ra từ đường hầm và chạy hết tốc lực về một phía khán đài, rồi lại chạy về góc, cũng hết tốc lực, khiến cho San Siro như phát cuồng. Chắc chắn đó phải là một phần của nghi thức, bởi vì tôi thấy tất cả mọi người đều chờ đợi nó. Gattuso đã chơi với tinh thần như thế suốt cả buổi tối hôm ấy; anh ta chạy khắp mặt sân và dành phần lớn thời gian theo sát, cố gắng loại bỏ Ronaldo khỏi cuộc chơi. Ngay đầu trận Gattuso đã có một pha vào bóng dữ dội với Ronnie, nhưng trọng tài, một ông người Bỉ tên là Frank de Bleeckere, chỉ cho chúng tôi hưởng một quả phạt trong khi lẽ ra ít nhất phải rút thẻ vàng với Gattuso. Không lâu sau đó, Gattuso lại húc cho Ronnie văng vào biển quảng cáo. Tất cả mọi người, trừ trọng tài, đều biết Gattuso muốn gì đêm đó - anh ta muốn chặn Ronnie lại bằng mọi giá. Phải dành lời ngợi khen cho Gattuso, bởi anh ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Nhưng cũng phải nói rằng Milan thực sự đẳng cấp, nhất là Clarence Seedorf. Tôi biết Seedorf hay sau nhiều năm quan sát anh chơi bóng, nhưng, không nghĩ là anh hay đến thế, cho tới trước buổi tối ở Milan đó. Anh ở đẳng cấp cao hơn hẳn so với phần còn lại, sử dụng hai chân như một, không cho chúng tôi một chút cơ hội nào, và cuối cùng đội của anh thắng với tỷ số 3-0.
Bị loại khỏi cuộc chơi là một thực tế rất khó “tiêu hóa”, và đêm đó tôi gần như không ngủ được, những diễn biến của trận đấu cứ được tua đi tua lại trong đầu. Theo thời gian, tôi nhận ra đấy là một kiểu khổ ải mà tôi phải chịu đựng sau mỗi thất bại. Tại sao mình không chuyền quả đó? Tại sao mình không đứng ở vị trí đó? Tại sao mình lại không làm thế này, không làm thế kia? Tôi vốn không dễ ngủ sau các trận đấu, nên đương nhiên là tối hôm ấy tôi không thể nào ngủ nổi, cứ nhắm mắt là trong đầu lại hiện ra hình ảnh tất cả những nỗ lực của chúng tôi ở Cúp châu Âu trong suốt mùa giải vừa qua sụp đổ.
Trong những buổi tối như thế - khi ta rất gần mà lại rất xa trận chung kết - tất cả những gì ta muốn làm là trốn đi đâu đó. Những buổi tối tệ hại như buổi tối ở San Siro dạy chúng tôi nhiều điều hơn là những buổi tối thuận lợi như buổi tối ở Old Trafford trước Roma, bởi vì một mặt chúng khiến cho chúng tôi biết rằng mình phải tập trung và có sự chuẩn bị tốt hơn về tâm lý, mặt khác chúng khiến cho chúng tôi thêm quyết tâm trở lại. Trong đội chỉ có Giggs, Neville, Scholes và Van der Sar là thực sự có kinh nghiệm ở Cúp châu Âu. Solskjaer nữa, nhưng lúc ấy anh đang trong những ngày tháng cuối cùng ở United rồi. Ngoài ra còn có Evra, người đã vào tới trận chung kết hồi 2004 với Monaco. Những người còn lại, gồm tôi, Ronaldo, Rooney, Fletcher và Vida thì hoàn toàn chưa từng vươn tới trình độ này, nên tất cả chúng tôi đều phải học. Để học tốt thì đôi khi trước hết phải chịu đựng một chút đau đớn. Việc chúng tôi phải dừng bước tác động rất mạnh tới tinh thần của Sir Alex, bởi Champions League chính là một tình yêu lớn của ông. Giải vô địch quốc gia vẫn là số một, bởi vì nó chứng tỏ cho tất cả mọi người thấy rằng United là đội bóng số một nước Anh. Nhưng Cúp châu Âu là một phần thưởng quý giá mà ai cũng muốn chinh phục. Ở thời điểm đó, United mới chỉ hai lần vô địch Cúp châu Âu, vào các năm 1968 và 1999, và điều đó khiến Sir Alex cảm thấy day dứt.
“Lẽ ra Manchester United phải giành được nhiều Cúp châu Âu hơn. Nhìn xem, Real Madrid có chín chiếc Cúp. Bayern có bốn. Ajax có bốn.” Ông nhắc đi nhắc lại điều này không biết bao nhiêu lần. Sau đó chúng tôi lại phải chịu thêm một thất bại đau đớn khác, trước Chelsea, trong trận chung kết FA Cup. Tôi nhớ là trong khi rời Wembley, tôi đã thề rằng mình sẽ trở lại mạnh mẽ hơn nữa. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn không đồng ý với suy nghĩ rằng trong các trận chung kết, điều quan trọng nhất là “tận hưởng khoảnh khắc đó”, bởi đơn giản là tôi không thể nào mà “tận hưởng” được thất bại bất chấp xung quanh mọi thứ có tuyệt vời đến thế nào. Tôi chẳng thu được gì sau trận đấu với Chelsea ấy, chỉ có sự trống rỗng. Tôi đưa cho Graeme chiếc huy chương thất bại của mình ngay khi vừa thấy nó. Tôi không muốn ở gần chiếc huy chương ấy. Với tôi, hoặc là thắng, hoặc là chẳng có gì cả. Khi còn nhỏ, Graeme và tôi hay nói về FA Cup. “Woa, ước gì một ngày nào đó được chơi một trận chung kết FA Cup!” Nó thường nói như thế, và mỗi lúc như vậy, tôi lại cười, nhưng trong lòng thì âm thầm mơ về ngày đó. Một khi đã tới được đó rồi, điều duy nhất có ý nghĩa là chiến thắng. Đó là một trận đấu căng thẳng, rất nóng. Rồi Didier Drogba ghi bàn, Chelsea thắng, chúng tôi thua. Thế thôi. Điều chúng tôi cần làm bây giờ là liếm vết thương của mình và tiếp tục tiến lên càng sớm càng tốt. Tôi thậm chí còn ghét phải nhớ lại ngày đó, nhưng vẫn phải làm vì ghi nhớ những thời khắc khổ đau cũng là điều rất quan trọng. Thất bại định hình chúng ta, thúc đẩy chúng ta. Tôi biết là nhìn bề ngoài, tôi có vẻ điềm đạm theo kiểu một nhà chuyên nghiệp thực thụ, nhưng tin tôi đi, tôi cũng dễ lộn ruột với những thất bại lắm. Chúng luôn khiến tôi bị tổn thương sâu sắc. Ta không thể cho phép mình chấp nhận thất bại được. Ta chỉ có thể nhìn vào thất bại để thêm quyết tâm không lặp lại những sai lầm.
Thất bại trước Chelsea đã khiến cho niềm hứng khởi có được sau chức vô địch quốc gia tan biến; tôi bị kéo tuột trở lại mặt đất. Sếp thì không ngừng hô hào, “Năm sau, năm sau.” Với Sir Alex thì giai đoạn tập huấn là cực kỳ quan trọng, đó là lúc chúng tôi chuẩn bị cho một mùa đi săn danh hiệu mới và tất cả đều phải làm việc thực sự nghiêm túc. Tôi thường nghe những đàn anh giàu kinh nghiệm nói với nhau rằng, “Chúng ta cần phải chơi hay hơn nữa.” United là thế, không bao giờ chịu đứng yên: nỗ lực hơn, xuất sắc hơn, chiến đấu dữ dội hơn. Trong một mùa hè mà lẽ ra tôi được ăn mừng chức vô địch quốc gia, tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới lại là thất bại ở FA Cup. Tôi lúc nào cũng cảm thấy ngứa ngáy, chỉ muốn mùa giải mới bắt đầu ngay lập tức để chúng tôi có thể sửa sai luôn. Tôi “nhiễm” cái tính ấy từ các đồng đội của mình, sau khi đã nhận ra nó chính là lý do United giành được nhiều danh hiệu đến vậy. Những chàng trai này thực sự khác biệt. Rất giỏi, đương nhiên, nhưng chính khát khao mới là yếu tố quyết định tạo nên tính cách vô địch của họ.
Mùa hè năm đó Lisa và tôi kết hôn. Tôi cầu hôn cô ấy từ mùa thu năm trước. Gần như là thế. Tôi sắp xếp một buổi đi xem ballet vào sinh nhật của Lisa. Cô ấy chưa bao giờ đi xem một vở ballet nào và không ngừng nói về điều đó. Tôi mua vé xem vở Hồ thiên nga ở nhà hát Coliseum tại London, đặt phòng ở khách sạn St Martin’s Lane Hotel, và chỉ khi tới khách sạn thì chúng tôi mới kiểm tra lại vé. Chúng tôi bị nhầm tháng, vở Hồ thiên nga vẫn chưa được công diễn! Tôi tới cầu cứu người điều hành tour của khách sạn, và tất cả những gì chúng tôi có thể có cho buổi tối hôm ấy là vé của vở nhạc kịch Mary Poppins ở Nhà hát Hoàng tử Edward. Trang phục duy nhất mà tôi mang theo là một bộ suit màu nâu dành để đi xem ballet (tôi muốn ăn vận cho đúng điệu). Thế nên tôi mặc bộ ấy vào. Lisa cũng diện một bộ váy rất đẹp. Để xem vở Mary Poppins thì rõ ràng là chúng tôi đã ăn vận hơi nghiêm túc quá! Nhưng show diễn thực sự rất tuyệt vời, chúng tôi còn mua một chiếc xe kéo nhỏ về làm quà lưu niệm. Theo kế hoạch thì trong thời gian chúng tôi đang ở nhà hát, nhân viên khách sạn sẽ đặt hoa và nến vào trong phòng như yêu cầu trước đó của tôi. Không bao giờ có chuyện tôi hỏi cưới Lisa ở giữa chốn đông người, như ở một nhà hàng chẳng hạn, nên tôi “để dành” khoảnh khắc quan trọng nhất cho tới khi chúng tôi trở lại phòng khách sạn. Tôi cũng đã gọi champagne, một hành động không giống tôi cho lắm, nên tôi nghĩ là Lisa hơi bị bất ngờ một chút. Tôi thì không thấy căng thẳng chút nào. Tôi chỉ liên tục kiểm tra túi áo của mình để chắc chắn là chiếc nhẫn vẫn còn đó. Vào đúng thời điểm, tôi quỳ xuống giữa phòng và nói lời cầu hôn với cô ấy. Cô ấy khóc. Mọi chuyện thật tuyệt vời. Chúng tôi gọi cho bố mẹ của mình ngay sau đó. Điều hối tiếc duy nhất của tôi là đã không gọi cho bố Lisa để xin phép cưới con gái ông. Tôi vẫn không hiểu vì sao tôi lại không làm thế. Chúng tôi làm lễ cưới trong một nhà thờ ở Leicestershire; nếu có thể, tôi sẵn sàng tổ chức lại một đám cưới như thế nữa ngay ngày mai. Đó là cuối tuần hạnh phúc nhất trong đời tôi. Từ thứ Sáu tới Chủ nhật, chúng tôi không khi nào dứt nụ cười, và cũng chẳng bao giờ rời nhau nửa bước. Thật sự là hoàn hảo. Chúng tôi đi nghỉ tuần trăng mật ở Bora Bora, và sau đó dành thêm bốn ngày du ngoạn ở Vegas, loay hoay thế nào mà cuối cùng chúng tôi lại đụng mặt vợ chồng nhà Rooney, Wayne và Colleen!
Kỳ tập huấn trước mùa đầu tiên với United đã mở mắt cho tôi về độ nổi tiếng trên toàn thế giới của đội bóng. Khi tôi đi tour Hàn Quốc cùng với Spurs vào năm 2005, không khí rất trầm lắng, chúng tôi hầu như chẳng bị ai làm phiền. Khi tôi tới Viễn Đông với United vào năm 2007, mọi chuyện thật điên rồ. Chúng tôi thi đấu với Urawa Red Diamonds, FC Seoul, Shenzhen FC và Guangzhou Pharmaceutical trong một hành trình có thể nói là sự kết hợp giữa một chuyến lưu diễn xiếc và một cuộc chạy đua marathon. Những tour du đấu kiểu này tàn phá thể lực khủng khiếp. Lịch trình kinh điển là di chuyển, tập luyện, tập luyện, thi đấu, di chuyển, tập luyện, tập luyện, thi đấu.
Kiệt sức vì những chuyến đi, các trận đấu và tình trạng chênh lệch múi giờ, chúng tôi vẫn phải lết vào sân và nuốt trọn giáo án khốc liệt trong các buổi tập. Ban huấn luyện không phải tập luyện hay thi đấu, nhưng lúc nào cũng yêu cầu rất cao, nên cầu thủ chúng tôi cảm thấy rất ấm ức. Sau khoảng hai tuần, ai nấy đều trở nên cáu kỉnh, dễ dàng to tiếng với nhau vì những chuyện chẳng đâu vào đâu. Jet lag[1] và xếp/dỡ đồ là hai “hằng số” trong các chuyến đi tour. Ngoài ra cũng phải tính thêm cả sự hâm mộ thái quá mà các cổ động viên bản địa dành cho Manchester United. Khi chúng tôi bay tới Seoul, hàng nghìn cổ động viên đã vây kín sân bay Incheon. Tôi đọc được ở đâu đó là có khoảng 27 triệu người Hàn Quốc yêu mến Manchester United, trong khi dân số của nước này chỉ khoảng 50 triệu. Người Hàn Quốc sử dụng các loại thẻ tín dụng của United và ăn trong các nhà hàng theo phong cách United ở Seoul. Bên ngoài khách sạn, hàng trăm cổ động viên hát “Glory, glory, Man United” không ngừng. Khung cảnh ấy khiến chúng tôi vừa thích thú vừa có cảm giác có cái gì đó không bình thường cho lắm. Ngay cả cơn mưa cũng không ngăn được họ đến theo dõi buổi tập của chúng tôi vào ngày tiếp theo, lần này cũng phải có đến hàng nghìn người.
[1] Tình trạng mệt mỏi sau chuyến bay do chênh lệch múi giờ - ND.
Trong các tour du đấu ngày nay, chúng tôi phải hoàn thành rất nhiều nhiệm vụ do những đối tác thương mại đặt ra, nhưng trong chuyến đi hồi 2007 ấy, chúng tôi chủ yếu tham gia các hoạt động của Quỹ Manchester United và UNICEF. Tôi cùng Patrice Evra và Darron Gibson tới thăm trại trẻ mồ côi Young Suk Sco Bo Rin và chơi bóng với các em bé ở đó. Cũng trong chuyến đi tới châu Á ấy, chúng tôi đã tới thăm một số nhà an dưỡng cuối đời[2] theo chương trình của UNICEF. Đó là những chuyến đi đã có tác động rất sâu sắc tới tôi, khiến tôi thực sự thấy bối rối. Sự nghiệp chơi bóng của tôi xoay quanh sức khỏe, sự mạnh mẽ và cảm giác bất bại, thế nhưng ở đây, ở những chỗ tôi tới, tôi chỉ toàn gặp những người đang chờ chết. Tôi cảm thấy mình trở nên nhỏ bé và yếu đuối vì không thể làm được gì để giúp đỡ họ, không bất cứ điều gì. Những đứa trẻ mà tôi gặp đã phải trải qua không biết bao nhiêu đau đớn, có những em mà thời gian sống chỉ còn được tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ. Tôi cảm thấy mình thực sự bất lực. Nhưng trong lúc đó, bọn trẻ lại rất vui khi được gặp chúng tôi. Là cầu thủ chuyên nghiệp, chúng tôi được bảo vệ trong những điều kiện tốt nhất, được dạy phải hành động như thế nào, phải mạnh mẽ ra sao. Rồi đột nhiên chúng tôi tới một trại mồ côi, một nhà an dưỡng cuối đời, một trường khiếm thị hay một khu tập trung trong đó toàn các bệnh nhân HIV/AIDS. Cảm giác an toàn hoàn toàn biến mất, chúng tôi đứng đó mà thấy mình thật dễ tổn thương. Trở lại tập luyện sau những chuyến đi như thế là điều hết sức khó khăn, gần như là không thể, bởi vì tôi không sao quên được những nỗi thống khổ mà tôi chứng kiến trong nhà an dưỡng.
[2] Nơi săn sóc những người bệnh ở vào giai đoạn cuối cùng của cuộc đời - ND.
Có một định kiến là đội bóng tự tách biệt mình với thế giới thực và không quan tâm tới những hoàn cảnh khó khăn như thế. Không đúng! United thực sự quan tâm. Tôi biết rất nhiều người ở câu lạc bộ, và ở Quỹ, đã sử dụng sức mạnh của United để giúp đỡ, thậm chí cứu giúp, những người cô thế. Chúng tôi chỉ không khoe khoang về việc đó thôi. Bây giờ tôi nhắc tới điều đó vào lúc này là bởi Câu lạc bộ Bóng đá Manchester United có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với tôi và tôi muốn mọi người biết rằng câu lạc bộ đã đóng góp rất nhiều cho cộng đồng cả ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Những chuyến đi như trong tour châu Á đó, hay những lần tới thăm các bệnh viện vào dịp Giáng sinh, cũng dạy cho những cầu thủ trẻ cách nói chuyện với những người đang ở vào hoàn cảnh khó khăn. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng dù có đi bao nhiêu chuyến thì tôi cũng không thấy chuyện đó dễ dàng hơn một chút nào. Mỗi lần rời khỏi một trại mồ côi, bệnh viện hay viện an dưỡng là một lần tôi cảm thấy xót xa vô cùng cho tình cảnh của những đứa trẻ mà tôi đã gặp. Bây giờ có con rồi, cảm xúc ấy trong tôi lại càng mãnh liệt hơn. Tôi nghĩ về tình cảm giữa những ông bố với đứa con bị bệnh của mình, và biết mình sẽ suy sụp thế nào nếu đó là Lou hay Jacey.
Trở lại với bóng đá sau những dịp như thế là rất khó khăn, nhưng tôi phải thể hiện được sự chuyên nghiệp của mình. Một ngày sau chuyến đi tới trại trẻ mồ côi, chúng tôi thi đấu với FC Seoul trên sân vận động World Cup. 60.000 cổ động viên Hàn Quốc đã tới và nêm kín các khán đài, phần đa trong số đó muốn được nhìn thấy Ji, dù họ biết rằng anh sẽ không thi đấu. Thế mới biết họ cuồng Ji tới mức nào. Ji vừa trải qua một ca phẫu thuật đầu gối, nhưng anh không muốn bỏ lỡ chuyến đi trở lại quê nhà. Ngoài ra, tôi chắc là những nhà tổ chức cũng muốn Ji có mặt, thậm chí còn yêu cầu chuyện đó. Trước giờ giao bóng, một chiếc camera quét dọc đội hình của chúng tôi. Khi camera tập trung vào Wayne Rooney, trên các khán đài rộ lên những tiếng ồ lớn. Tới Cristiano Ronaldo, tiếng ồ lại càng lớn hơn. Và tới Ji-sung Park thì cả sân vận động như muốn nổ tung. Nói thật là dù rất yêu quý Ji, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng anh sẽ được chào đón nhiều hơn Ronnie. Nhưng sau vụ đó thì tôi nhận ra ở Hàn Quốc, Ji chẳng khác nào Chúa trời. Ji chỉ cười trừ khi nghe tôi nói thế. Ở Old Trafford, Ji vẫn thường được nhắc tới với sự trìu mến. Nếu bạn chọn ra những cầu thủ giỏi nhất từ những tập hợp United mạnh nhất, có lẽ là bạn sẽ không chọn Ji. Nhưng anh thực sự là một đồng đội trong mơ. Anh lúc nào cũng cần cù, nhiệt tình, cũng rất thông minh, rất hợp lý trong cách chơi. Những pha di chuyển, chạm bóng và xoay xở của Ji đều như được lấy ra từ sách giáo khoa.
Từ quê nhà của Ji chúng tôi bay sang Trung Quốc. Khi xe chở đội dừng lại bên ngoài khách sạn ở Quảng Châu, người ta đã dành cho chúng tôi một sự tiếp đón ngoài sức tưởng tượng. Người Trung Quốc choàng lên cổ chúng tôi những vòng hoa rực rỡ, các vũ công đi những bước nhảy sôi động, và hai bên, các vệ sĩ đã phải nỗ lực hết sức để ngăn khoảng 500 cổ động viên và phóng viên truyền hình chen lên khi chúng tôi bước vào khách sạn trên những bậc thang khổng lồ. Chứng kiến các cổ động viên chờ đợi hàng tiếng đồng hồ và sau đó bật khóc ngon lành khi chúng tôi xuất hiện khiến ta nhận ra United có thể tác động như thế nào tới cuộc sống của biết bao con người ở mọi ngóc ngách của thế giới. Thú thực là tới bây giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn hiểu được tại sao người ta lại như thế. Không khí ở buổi tập trên sân Olympic Guangdong trong ngày tiếp theo cũng chẳng khác mấy. Một vài trong số khoảng hơn một nghìn cổ động viên tới xem chúng tôi tập đã chạy hẳn vào sân để có thể được ở gần chúng tôi.
Trở lại sau những chuyến đi như thế, chúng tôi ai cũng mệt nhoài, và thường thì tôi sẽ bị ốm trong vài ngày. Đi tour là điều bắt buộc vì lý do kinh tế, nhưng những chuyến đi vắt sức như vậy rõ ràng là không giúp cho chúng tôi khởi đầu mùa giải trong tình trạng sảng khoái hơn. Chúng tôi hòa trận tranh Community Shield với Chelsea và cả trận khai màn Premier League với Reading. Trong buổi sáng trước trận đấu tiếp theo, gặp Portsmouth, sếp nhất quyết yêu cầu tôi tới ngồi ăn sáng cùng bàn với ông ở khách sạn. “So với mùa trước thì phong độ của cậu tụt sâu quá,” Sir Alex nói. “Cả tôi lẫn Carlos đều nhận thấy như thế.”
Tôi ngơ ngác, như kiểu muốn hỏi “Thật thế ư?” Đấy là điều mà tôi không ngờ tới.
“Đúng vậy,” sếp nói thêm, “cậu không được tự hạ thấp tiêu chuẩn của mình đâu đấy.”
Tôi không biết là ông thực sự tin rằng phong độ của tôi đã đi xuống, hay ông đang chơi trò khích tướng, kiểu “Mình sẽ quẳng cho hắn một quả bom nhỏ để hắn không thể đứng yên được.” Dù là thế nào thì Sir Alex cũng đã gửi tới tôi một thông điệp, rằng phải nỗ lực hơn nữa, không bao giờ được phép thỏa mãn. Tôi đoán là sếp cảm thấy tôi có nguy cơ mắc phải hội chứng mùa thứ hai, nên mới nghĩ là “Mình phải đánh động hắn ta một chút, để chắc chắn là hắn không sao nhãng.” Và tôi phản ứng. Sir Alex là một thiên tài trong lĩnh vực quản trị con người.
Tháng 1 năm đó, sếp kéo tất cả chúng tôi tới một trại tập huấn giữa mùa để làm mới lại cả đầu óc lẫn cơ thể của chúng tôi. Bởi sức hút của United là quá lớn, chúng tôi nhận được lời mời từ mọi nơi, tới toàn những sự kiện đặc biệt. Năm đó, chúng tôi bay tới Riyadh để tham gia trận đấu tri ân cầu thủ nổi tiếng nhất của Saudi Arabia, Sami Al-Jaber. Ở đó chúng tôi tham gia rất nhiều hoạt động xã hội, như là gặp gỡ các thành viên Hoàng tộc, và còn được mời tới tham quan một trong những cung điện của Hoàng tử Abdullah. Evra và Rooney cũng tham gia màn múa kiếm truyền thống của Saudi Arabia, chỉ có điều là phải thay kiếm bằng dao. Vị Hoàng tử dẫn chúng tôi đi thăm thú một vòng quanh cung điện, xuyên qua vườn, và ra tận phía sau, nơi có một sa mạc như trải dài tới vô tận. Giggsy nhảy lên lưng một con lạc đà và phóng về phía sa mạc. Rồi một tùy tùng của Hoàng tử bất ngờ hỏi, “Có ai muốn làm một chuyến quad-bike[3] không nhỉ?” Có, có, có.Cả đội nhao nhao trả lời. Ban huấn luyện của United hoảng hồn và bảo nhau, “Chúng ta không thể để cho họ lên mấy cái quad-bike được.” Quá muộn rồi. Chúng tôi nhảy hết lên những chiếc xe quad và phóng như bay vào sa mạc trong cái nóng như thiêu như đốt. Chúng tôi chạy zig zag qua những cồn cát lớn, một số người còn cố lao lên đỉnh. Tôi nhìn thấy Tony Strudwick phóng lên đỉnh của một cồn cát, và ngay sau đó là một tiếng thét kinh hoàng “Aaaaaaaaargh.” Khi tôi phóng tới nơi, Strudders đang lồm cồm bò dậy. Anh húc phải một khối bê tông dùng để đánh dấu trên sa mạc, và nằm nhèo một đống. “Không sao, tôi ổn, tôi ổn,” Strudders không ngừng nói, cố gắng làm giảm mức độ trầm trọng của sự việc. Tôi thì chảy cả nước mắt vì cười. Chiếc xe quad bị hư hỏng nặng nhưng vẫn hoạt động được nên Strudders lái nó về lại cung điện, trong đầu chỉ mong không có ai nhìn thấy những vết lõm trên xe. Khi bước lên xe buýt rồi anh ta vẫn luôn miệng nói “Tôi không sao, tôi không sao.” Nhưng khi anh cố kéo chiếc quần gió xuống thì thấy không được. Chiếc quần bị mắc lại do máu rỉ ra từ vết thương lớn trên chân anh đã bết hết cả lại. Tôi không có ý gì với Strudders, nhưng đúng là lúc đó tôi đã nghĩ, “Chuyện này có thể xảy ra với bất kỳ cầu thủ nào.”
[3] Xe bốn bánh, để đi trên địa hình phức tạp - ND.
Ngay cả những trận đấu vô nghĩa như trận đấu với đội bóng của Al-Jaber, Al-Hilal ở sân King Fahd vào ngày hôm sau cũng giúp tôi có thêm một cơ hội chứng kiến sự vĩ đại của Sir Alex, và hiểu hơn tại sao cái đội United này luôn giàu tính chiến đấu đến vậy. Trước hơn 65.000 người có mặt để tri ân Al-Jaber, chúng tôi lẽ ra đã phải có một trận hòa khi được hưởng một quả penalty ở phút cuối. Danny Welbeck dừng lại một chút trong khi chạy đà và cố gắng thực hiện một cú bấm bóng vào giữa khung thành. Nhưng động tác của anh không tốt, nên bóng đi vọt xà. Thái độ chủ quan và có phần thiếu nghiêm túc đó của Welbeck đã khiến sếp nổi đóa. Welbz vẫn còn là một cậu bé, mới có 17 tuổi thôi, nhưng sếp vẫn xạc cho cậu ta một bài đâu ra đấy. Tôi chỉ có thể trợn mắt lên mà nhìn Sir Alex tổng sỉ vả Welbz. Không có chút giả dối hay cố tình làm quá nào trong cơn giận của sếp. Không ai quan tâm tới trận đấu. Nhưng với Sir Alex thì đó là vấn đề nguyên tắc. Vì Welbz vẫn chỉ là một cậu bé, nên khi tung cậu ta vào sân thay cho Anderson trong hiệp hai, sếp muốn cậu ta thể hiện được sự nghiêm túc.
Ngay cả các cổ động viên của United cũng thi thoảng được sếp “nhắc nhở”. Tôi vẫn còn nhớ nội dung tiêu đề của các bài báo sau khi chúng tôi đánh bại Birmingham City ở Old Trafford trong trận đấu diễn ra vào tháng 1, vì Sir Alex đã miêu tả bầu không khí trên sân là “như trong một đám ma”. Tôi hiểu sếp muốn nói gì. Không khí ở trên các khán đài thường khá nhạt nhẽo trong những trận đấu không đủ quan trọng hay với những đối thủ không đủ mạnh để các cổ động viên của United có thể cảm thấy có hứng thú. Nếu chúng tôi thi đấu với Liverpool City hay một trận đấu quan trọng ở Cúp châu Âu thì không khí tự nhiên sẽ sôi động ngay. Những trận đấu với các đối thủ ta hay gọi là yếu hơn cũng nhiều thách thức hơn với các cầu thủ chúng tôi bởi vì tôi phải thú nhận là với những đối thủ đó, tôi không được kích thích bởi dòng adrenaline vẫn thường chảy rần rần trong các trận đấu lớn. Tôi biết rằng trách nhiệm của mình là phải vượt qua tình trạng đó, rằng tôi không thể cứ chờ đợi các cổ động viên làm cho mình máu lửa hơn, nhưng thực sự thì cảm xúc của các cổ động viên là rất quan trọng. Tôi sẽ cố tìm ra một lý do nào đó để tự thấy những trận đấu này quan trọng, qua đó tăng cường sự tập trung, hoặc tự thách thức bản thân làm được một số điều nhất định trong trận đấu để không rơi vào tình trạng sao nhãng.
Tôi cảm thấy như là định mệnh khi chúng tôi chính thức đăng quang chức vô địch Premier League trên sân JJB vào ngày 11 tháng 5 năm 2008, ngày Giggsy cân bằng kỷ lục chơi 758 trận trong màu áo United của Sir Bobby Charlton trước sự chứng kiến của chính Sir Bobby. Bàn thắng của Giggsy thể hiện được hết tính cách United. Sau khi có được bàn mở tỷ số, chúng tôi vẫn tiếp tục tấn công không ngừng nghỉ để tìm kiếm bàn thắng an bài trận đấu thay vì cố gắng bảo vệ lợi thế dẫn bàn. Tôi tham gia ba lần vào pha bóng dẫn tới bàn thắng của Giggs, ngoài ra còn có cả Carlos Tévez và Owen Hargreaves nữa. Cuối cùng, Wazza tung ra một cú chọc khe cho Giggsy ghi bàn trước sự chứng kiến của các cổ động viên ở khu khán đài Bắc (North Stand). Quá nhiều người muốn có mặt vào ngày hôm đó, nên cho tới nay, đó vẫn là trận đấu giữ kỷ lục về số khán giả tới sân JJB (25.133 người). Giggsy trượt dài trên mặt cỏ, tôi là người đầu tiên chạy tới chia vui với anh, và sau đó có thêm một cổ động viên nữa không biết từ đâu chạy xuống nhập bọn. Sir Alex thì chạy dọc đường biên trong chiếc áo trắng sũng mồ hôi, hai tay giơ lên trời, miệng cười tươi, trước khi quay sang ôm lấy Carlos Queiroz và Mick Phelan. Đó là một trong những màn ăn mừng tuyệt vời nhất của ông, tôi nghĩ thế. 11 phút cuối cùng của trận đấu là một bữa tiệc, nhưng bởi vì chúng tôi là United, nên chúng tôi vẫn tiếp tục tấn công không ngừng nghỉ. Khi hồi còi chung cuộc vang lên, tôi lại nhìn về phía khu kỹ thuật và thấy Sir Bobby đứng đó, trong đường hầm với bộ vest lịch lãm và một phong thái điềm đạm thường thấy, bất chấp xung quanh mọi thứ như muốn nổ tung. Tất cả các cầu thủ đều lao nhanh về vòng tròn giữa sân, Vida nhảy lên lưng tôi, rồi chúng tôi xếp thành vòng tròn, hò hét, ăn mừng như điên. Chúng tôi đều biết rằng bảo vệ được chức vô địch Premier League là điều vô cùng khó khăn, nhưng cuối cùng chúng tôi đã làm được, đúng như lời hứa trong kỳ tập huấn trước mùa. Bản thân tôi cũng không ngừng tự thúc đẩy bản thân bằng cách tự hỏi mình những câu hỏi như, Liệu mình có đủ mạnh mẽ để có thể làm điều đó một lần nữa? Liệu mình có đủ động lực không? Hay là mình sẽ nghĩ rằng vô địch một lần là quá tuyệt vời, chẳng cần phải cố gắng thêm nữa? Không bao giờ có chuyện đó. Bằng cách đối mặt với tất cả những hoài nghi về chính mình, tôi đã trả lời được những câu hỏi đó. Khi tất cả đã qua đi, cảm giác thật tuyệt vời, rất thỏa mãn.
Các ông chủ người Mỹ của United, gia đình Glazer, cũng có mặt trên sân JJB hôm đó. Họ đi vào phòng thay đồ lúc cuối trận, bắt tay tất cả mọi người và trò chuyện với một vài cầu thủ cũng như một vài thành viên trong ban huấn luyện. Trước khi tới United, tôi đã biết hết những chuyện ồn ào xung quanh vụ gia đình Glazer mua lại United, một thương vụ đình đám và khiến không ít cổ động viên United cảm thấy tức giận. Nhưng tôi nghĩ gia đình Glazer là những ông chủ tuyệt vời. Thực sự không thể đòi hỏi gì hơn. Họ cấp tiền cho đội bóng tăng cường lực lượng và không bao giờ đòi hỏi can thiệp. Tôi từng chứng kiến rất nhiều ông chủ của các đội bóng khác chọn đội hình ra sân theo ý mình, tôi cũng từng nghe rất nhiều ông chủ khác nói về các cầu thủ hay huấn luyện viên của họ, nhưng tôi chưa bao giờ thấy gia đình Glazer xuất hiện và nói gì đó liên quan tới United. Họ để cho mọi người được tiếp tục với công việc của mình, một điều thực sự rất đáng hoan nghênh. Sếp cũng không ít lần công khai phát biểu rằng với ông họ là những ông chủ tuyệt vời. Bạn hẳn đã được nghe những câu chuyện kinh khủng trong bóng đá khi người ta thâu tóm một đội bóng rồi gần như hủy hoại đội bóng đó, nên gia đình Glazer cần được ghi nhận một cách xứng đáng sau tất cả những gì mà họ đã làm. Tôi hay nghe người ta nói rằng các đội bóng Anh thì nên được sở hữu bởi những người Anh, nhưng thực tế những ngày đó đã quá xa rồi. Nếu muốn Premier League có thể lớn mạnh được như hiện tại, sự xuất hiện của những ông chủ ngoại quốc là thực tế không thể cưỡng lại. United đã có những bước tiến mạnh mẽ cả trong lẫn ngoài sân cỏ dưới sự điều hành của gia đình Glazer.
Sáu ngày sau khi giành chức vô địch, tôi ký hợp đồng mới có thời hạn bốn năm. United còn hơn cả những gì mà tôi mơ ước, ở đó, tôi được sống trong sự phấn khích, niềm tự hào, được giành các danh hiệu và đối mặt với những thách thức. Và bốn ngày sau đó chính là thách thức lớn nhất trong sự nghiệp của tôi: Moscow.