• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tự truyện Michael Carrick - Giữa những lằn ranh
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 24
  • Sau

9Munich và Moscow

T

hời khắc cùng các đồng đội đứng ở vòng tròn trung tâm, tôi thấy ruột mình quặn thắt lại. Thật khó mà miêu tả cảm giác trong tôi lúc ấy như thế nào, chỉ có thể nói rằng nó là một sự pha trộn, chẳng lấy gì làm thú vị, giữa cảm giác căng thẳng, lo lắng, sợ hãi và phấn khích. Tôi đã xem đội tuyển Anh đá luân lưu không ít lần trên truyền hình, và mỗi lần như thế, tôi đều thấy khá căng thẳng. Nhưng lúc này đây, tôi đang đứng giữa một màn đấu súng thực sự, cảm giác tệ hơn thế gấp mười lần. Tôi biết những gì đang lơ lửng phía trước: trách nhiệm, vinh dự lớn được trở thành những nhà vô địch châu Âu, và có thể là cơ hội chỉ tới một lần trong đời. Không ngôn từ nào có thể diễn tả được cảm xúc lúc ấy. Trời mưa như trút, không khí thì căng thẳng đến bức bối, nhưng tôi gần như không để tâm. Sức mạnh của sự tập trung thật ghê gớm. Tôi đã nghe Lisa nói nhiều về Moscow, về thời tiết và không khí nơi đây, cũng như việc ở Moscow trời tối muộn hơn. Nhưng tôi hoàn toàn không có chút ý niệm nào về những điều đó. Lúc ấy tôi như đang ở trong cái bong bóng nhỏ của riêng mình. Tất cả những gì tôi nghĩ tới là giành chức vô địch.

Thời gian chờ đợi cho tới khi loạt penalty bắt đầu tưởng như kéo dài vô tận. Tôi thường thấy khó chịu khi có ai đó rút các tấm nẹp bảo vệ ống đồng ra hay tuột tất xuống. Những hành động như thế có thể tạo ra những tác động không tốt tới tiềm thức của chúng ta, theo kiểu “trận đấu xong rồi, ta thấy mệt mỏi rồi”. Tôi muốn duy trì được trạng thái tâm lý như thể khi trận đấu vẫn còn đang diễn ra. Giữ mới khó, chứ để đánh mất sự tập trung và sự sắc bén trong tinh thần là điều rất dễ. Có thể trong các cuộc đấu súng, những chi tiết nhỏ nhặt như thế không có nhiều ý nghĩa lắm, nhưng nghĩ về chúng vẫn là cách để tôi đảm bảo rằng mình sẽ không bỏ sót bất cứ điều gì. Tôi đang ở trong lãnh địa của mình. Tôi không tìm kiếm sự ủng hộ từ gia đình, cũng chẳng nghĩ tới hậu quả. Tất cả những gì tôi nghĩ là tôi sẽ thực hiện quả penalty này như thế nào. Đấy thực ra là tất cả những gì mà tôi kiểm soát được.

Khi Carlos Tévez bước lên thực hiện quả đá của mình, một phần tôi theo dõi anh, một phần - mà là phần lớn, tôi nghĩ, “Tiếp theo là mình, tiếp theo là mình, tiếp theo là mình. Tập trung, tập trung, tập trung nào!” Tôi phải chiến đấu rất hăng để giữ cho đầu óc không đi chệch hướng. Tévez giúp chúng tôi có được một khởi đầu thuận lợi, nhưng sau đó Michael Ballack cũng thực hiện thành công quả đá của anh ta, như mọi người Đức vẫn thế, và bây giờ thì ánh đèn sân khấu đã chiếu thẳng vào tôi. Không còn cơ hội quay đầu nữa. Tôi rảo chân đi từ vạch giữa sân tới khu cầu môn, nhặt quả bóng lên và đặt nó vào chấm 11m. Càng có ít thời gian để nghĩ thì càng tốt. Kỳ lạ làm sao, cả đầu óc lẫn bụng dạ của tôi đều ổn, không còn trong tình trạng nhộn nhạo nữa. Thay vào đó, tim tôi như muốn văng ra khỏi lồng ngực. Có Chúa mới biết nhịp tim của tôi lúc ấy là bao nhiêu. Tôi cảm thấy bản thân đang mất khả năng điều khiển chính cơ thể của mình. Tôi đặt trái bóng xuống một cách cẩn thận, đảm bảo nó sẽ đứng yên, và kiểm tra xem phần cỏ mà tôi sẽ đặt chân trụ xuống có bằng phẳng hay không, rồi bước lùi lại. Trong khi đang lùi, tôi không hề rời mắt khỏi bóng dù chỉ trong một tích tắc, nhưng khi tới đúng vị trí đã định, tôi vô thức liếc nhìn Petr Čech. Thủ môn của Chelsea trông quá đồ sộ, thế nên tôi nhanh chóng chuyển mắt về lại trái bóng và cố gắng không suy nghĩ lan man. Tập trung, chỉ cần tập trung thôi. Tôi dừng lại, hít một hơi thật sâu. Xung quanh lặng ngắt. Không có âm thanh nào khác ngoài tiếng trống tim tôi đập thình thịch. Lúc này đây, cả thế giới của tôi bỗng chốc thu bé lại chỉ còn giữa tôi với Čech. Tôi từng đối đầu với anh ta trên chấm 11m ở Community Shield và giành chiến thắng. Mình có nên sút lại vào hướng cũ không? Čech đang nghĩ gì nhỉ? Anh ta có nghĩ là mình sẽ thay đổi hướng sút không? Tôi biết là anh ta cũng đang suy nghĩ lung lắm. Nhưng tôi thấy mình mạnh mẽ, vì tôi tin vào kỹ thuật của bản thân. Đó là giá trị của những năm tháng chơi bóng trong sân vườn ở Howdon, rèn luyện ở Boyza và tự hoàn thiện mình với các huấn luyện viên đội trẻ West Ham. Chỉ còn lại tôi với trái bóng thôi. Lúc này đây, tôi thậm chí còn không nghĩ tới Čech.

Tôi cố gắng làm cho mọi chuyện trở nên đơn giản. Tất cả những gì tôi cần làm là chuyền trái bóng thật căng vào góc, một đường chuyền mà tôi đã thực hiện hàng nghìn lần trước đó. Cứ vờ như là mình đang ở trên sân tập và chẳng phải chịu chút áp lực nào cả. Quên hết mọi thứ khác đi, chỉ thư giãn và tự tin. Ý nghĩ đánh lừa thủ môn đột nhiên len lỏi vào đầu óc tôi đúng thời điểm tôi chuẩn bị chạy đà. Nhưng nó cũng qua đi nhanh như khi xuất hiện. Ý nghĩ cuối cùng trong tôi là: Tin tưởng chính mình, thực hiện gọn gàng, đơn giản, dùng má, tiếp xúc bóng chuẩn. Đó là bài tủ của tôi, mà tôi thường vận tới mỗi khi cảm thấy thoải mái và tự tin nhất. Tiếng còi vang lên, tôi chuẩn bị cho cú đá mà tôi biết rằng sẽ gắn chặt với tôi trong cả phần đời còn lại, thậm chí còn có thể là cú đá định danh tôi.

* * *

Bất kỳ ai có may mắn được liên quan tới Manchester United đều có nghĩa vụ giữ cho những ký ức về những người con áo Đỏ đi trước sống mãi. Tôi không cố gắng tỏ ra sến sẩm hay làm quá mọi chuyện, đó thực sự là những gì mà bạn sẽ cảm thấy nếu bạn ở United. Như bất kỳ ai từng phải lòng đội bóng, tôi tận tâm trân quý di sản của Busby Babes[1]. Đó cũng là điều mà đội bóng nói chung, sếp, ban huấn luyện và tất cả các cổ động viên chờ đợi ở tôi. Tôi đã được nghe bố kể nhiều về Babes. Tôi hiểu về họ nhiều hơn từ những câu chuyện được khắc trên tường của đường hầm Munich. Đó là nơi tôi đọc được về thảm kịch đã cướp đi mạng sống của 23 con người đang trên hành trình trở lại Manchester sau một trận đấu Cúp C1 ở Belgrade. Tôi cũng có thể dễ dàng nhìn thấy chiếc đồng hồ ở trên khu khán đài K, trên ghi “Ngày 6 tháng 2 năm 1958” và “Munich”. Trong phòng thay đồ ở Carrington có treo một bức ảnh ảnh đen trắng của Babes. Ở bất kỳ đâu tại United, bạn cũng có thể dễ dàng cảm nhận được tầm vóc và di sản của họ; họ vẫn là nhịp đập của câu lạc bộ.

[1] Những đứa trẻ của Busby, biệt danh của Man United trong thập niên 1950 dưới thời huấn luyện viên Matt Busby - ND.

Bước vào mùa giải 2007-08 đó, cả đội biết rằng có hai ngày sẽ là những sự kiện ngập tràn cảm xúc: Ngày kỷ niệm 50 năm thảm họa Munich và 40 năm chiến thắng ở Cúp C1 của Sir Matt. Tôi thực sự cảm thấy rằng định mệnh đang đưa đường chỉ lối cho chúng tôi đến với chức vô địch châu Âu. “Chúng ta sẽ vô địch Champions League mùa này,” tôi nói với Tony Strudwick trong giai đoạn tập huấn trước mùa. Bỗng dưng tôi có cảm giác rằng thời khắc của chúng tôi đang tới. Chúng tôi nằm cùng bảng với Sporting Lisbon, Roma và Dynamo Kiev, và đã có một khởi đầu rất mạnh mẽ khi thắng cả năm trận đầu tiên trước khi hòa trên sân của Roma. Bên trong câu lạc bộ, mọi người đã bắt đầu nói, một cách kín đáo thôi, về việc chúng tôi sẽ không thể cưỡng lại được tiếng gọi của lịch sử. Sếp thường nói về Sir Matt và triết lý đã giúp định hình đội bóng của ông. “Chúng ta là Manchester United, chúng ta có nghĩa vụ tạo điều kiện cho các cầu thủ trẻ,” sếp nói. Có thể thấy rõ Sir Alex tự hào đến thế nào khi có thể đi theo bước chân của Sir Matt, giống như thể việc tiếp nối truyền thống sử dụng cầu thủ trẻ và chơi bóng đá tấn công được tạo dựng từ thời Sir Matt là một đặc ân đối với ông vậy.

Trong tuần lễ kỷ niệm 50 năm thảm họa Munich, sếp mời Sir Bobby Charlton tới Carrington để nói chuyện về sự kiện bi thảm này. Sir Bobby là một tượng đài - một nhà vô địch World Cup (với đội tuyển Anh), nhà vô địch Cúp C1, Ngài Manchester United, một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá thế giới. Và bây giờ thì ông đang đứng đây, trước mặt chúng tôi, để nói về, bằng chính trải nghiệm của cá nhân ông, những gì đã xảy ra trong cái ngày bi kịch của năm 1958 ấy. Rõ ràng việc phải sống lại với những ký ức buồn đó khiến Sir Bobby xúc động sâu sắc. Trong 45 phút, một cách chậm rãi và buồn thương, ông kể lại những nỗ lực cất cánh bất thành trên đường băng ngập tuyết ở Munich, về lần thứ ba định mệnh, và về việc ông tỉnh dậy trong tình trạng vẫn bị mắc kẹt vào ghế ngồi ở bên ngoài chiếc máy bay. Ông nói về những người bạn mà ông đã mất. “Duncan Edwards là cầu thủ xuất sắc nhất mà tôi từng được chứng kiến,” ông nói với chúng tôi. Chúng tôi nghe ông nói trong sự im lặng tuyệt đối, cố gắng nuốt hết từng lời. Qua lời kể của Sir Bobby, sự kiện Munich trở nên sống động hơn và cũng bi thảm hơn, đặc biệt là với một số cầu thủ nước ngoài vốn không lớn lên cùng những câu chuyện về thảm họa ấy.

Ba ngày sau đó là trận Derby ở Old Trafford. Thật hợp lý làm sao, bởi vì đó là cơ hội để cả thành Manchester đứng bên nhau. Tôi lưu lại mọi khoảnh khắc của ngày hôm ấy. Các cầu thủ United ra sân với một chiếc áo đấu phiên bản năm 1958; trên áo không in bất kỳ logo nào, chỉ có số áo, nên trông nó thật tinh khôi và đẹp đẽ. Tôi ngồi dự bị trận ấy, nhưng vẫn cố nán lại đường hầm để chứng kiến khoảnh khắc các đồng đội bước ra sân, dắt theo tay một cô bé hay cậu bé mascot mặc những chiếc áo in tên của những người đã mất ở Munich. Tôi vẫn nhớ là cô bé cầm tay Ronaldo mặc chiếc áo có chữ WHALLEY, là để tôn vinh Bert Whalley, một trong những huấn luyện viên của Sir Matt và từng có thời gian chơi bóng cho United trước đó. Nhìn vào cái họ ấy, tôi nghĩ về những mất mát khủng khiếp mà gia đình và bạn bè của ông, cũng như United, phải chịu đựng, và tôi lại càng thấm thía hơn quy mô của thảm họa. Bước ra khỏi đường hầm, cả đội tiến thẳng về vòng tròn giữa sân, còn tôi thì tiến thẳng về băng ghế dự bị. Trong lúc bước đi dọc đường biên, tôi có thể đọc được tên của 23 nạn nhân xấu số trên những tấm biển lớn cùng với dòng chữ ĐỜI ĐỜI KHÔNG QUÊN. Tôi thấy nhiều cổ động viên giơ cao những chiếc khăn màu đỏ trắng, một số người còn mang theo ảnh của Busby Babes, và bất chợt thấy nổi da gà. Munich là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời của rất nhiều người, không ít trong số đó chưa được sinh ra, thậm chí cả bố mẹ của họ cũng chưa được sinh ra, ở thời điểm xảy ra thảm họa. Cũng giống như tôi, các cổ động viên cảm thấy có trách nhiệm lưu giữ và truyền lại những ký ức. Họ mang theo những banner trên ghi dòng chữ “Những Bông hoa của Manchester” hay “Chúng ta sẽ không bao giờ chết” cũng như mang hình ảnh của Busby Babes. Tất cả càng làm nổi bật thêm khí chất của Manchester United. Rất nhiều gia đình bắt đầu trở thành cổ động viên của Manchester United do bị tác động bởi làn sóng thương cảm dành cho đội bóng sau thảm họa Munich, và rồi tình cảm ấy trở thành truyền thống gia đình, được truyền từ thế hệ này tới thế hệ nọ. Ai mà có thể không xúc động trước câu chuyện về những chàng trai trẻ tài năng đang sống trong giấc mơ của đời mình thì bỗng một ngày, khi phía trước còn cả tương lai dài rộng, tai họa ập xuống.

Từ các khán đài dậy lên những tiếng vỗ tay không ngớt khi Sir Alex và huấn luyện viên của City, Sven-Göran Eriksson, đặt những vòng hoa xuống vòng tròn giữa sân. Sau tiếng còi của trọng tài là một phút mặc niệm, cả sân vận động chìm vào im lặng. Các cổ động viên của City hôm đó thật tuyệt vời, thật sự tuyệt vời. Họ kiêu hãnh giơ cao những chiếc khăn quàng màu xanh-trắng cho tới khi trọng tài ra dấu một phút mặc niệm đã kết thúc. Trận Derby này không còn là một trận đấu, mà ý nghĩa của nó không chỉ có bóng đá, không chỉ có sự kình địch. Nó lớn lao hơn thế rất nhiều. Các cổ động viên của City đã nhận ra được điều đó, và tôi rất trân trọng họ là vì vậy. Tôi vào sân và ghi được bàn thắng, nhưng đó là một bàn thắng vô nghĩa bởi nó không giúp chúng tôi tránh được một thất bại. Thú thực là chúng tôi đã để cho cảm xúc lấn át. Những gì đã diễn ra trong suốt cả tuần, và đặc biệt là ở thời điểm chuẩn bị cho trận đấu, đã khiến chúng tôi khô kiệt về mặt tinh thần, như sếp thừa nhận sau trận đấu.

Chúng tôi phải tới được Moscow, bây giờ thì đó đã như là một nhiệm vụ. Thế nên khi Champions League trở lại, chúng tôi đã chơi đầy quyết tâm để vượt qua Lyon rồi Roma trên đường tới Camp Nou chơi trận bán kết lượt đi với Barcelona. Chúng tôi biết rằng đấy là trận đấu mà chúng tôi không được phép phạm phải một sai lầm nào về mặt chiến thuật. Trước đó, chúng tôi không có thói quen dành nhiều thời gian cho chiến thuật. Đúng là các bài tập luôn được thiết kế cho một mục đích cụ thể, ví dụ khi tấn công thì thế nào, phòng ngự ra sao, đại loại thế, nhưng chúng tôi hiếm khi có những buổi tập thuần chiến thuật, theo kiểu cầm tay chỉ việc. Hai ngày trước trận lượt đi với Barcelona, chúng tôi ra sân tập luyện như bình thường, chơi trò ô vuông một lúc, rồi sau đó chuyển sang một bài tập ngắn về kiểm soát bóng. Rồi đột nhiên Carlos Queiroz đề nghị chúng tôi theo ông sang một sân tập khác thường được sử dụng cho những trận đấu tập quy mô nhỏ. Ở đó, ngay bên ngoài khu 16m50, hai tấm thảm gấp lớn màu xanh, loại dùng trong phòng gym, đã được trải sẵn. Những tấm thảm được đặt ngay sau lưng tôi và Scholesy, và ngay phía trước Rio và Wes, hai trung vệ của chúng tôi.

“Đừng để cho họ đặt chân lên những tấm thảm này, đó là khu vực mà Barcelona muốn chơi bóng, thế nên hãy làm mọi cách để chia cắt khu vực đó,” Carlos hướng dẫn. “Hãy dùng cả mạng sống của mình để bảo vệ những tấm thảm này.” Đấy chính là khu vực mà Barcelona muốn xâm nhập, từ đó sử dụng những pha phối hợp nhỏ, hay đập tường 1-2, để khoan thủng hàng thủ của chúng tôi. Chúng tôi cần phải củng cố được khu vực này, bảo vệ nó bằng cả mạng sống của mình, che chắn các góc sút, chặn trước các đường chuyền, buộc Barcelona phải đưa bóng ra hai biên. Barcelona có những cầu thủ nhỏ con, nhanh nhẹn và rất kỹ thuật - Lionel Messi, Andrés Iniesta, Xavi và Deco - những người chúng tôi biết là sẽ gây được nhiều tổn thương cho chúng tôi nếu họ có cơ hội chơi bóng ở những khu vực mà Carlos đặt những tấm thảm. Nếu chúng tôi chơi pressing sớm, thì Rio và Wes sẽ dâng lên chiếm lĩnh hai tấm thảm. Nếu bóng vượt qua tôi và Scholesy, chúng tôi sẽ lập tức lùi sâu để thu hẹp khoảng trống trên các tấm thảm. Barcelona không có cầu thủ nào đủ khả năng tận dụng những quả tạt, nên chúng tôi rất sẵn lòng mời họ đưa bóng ra biên. Những cầu thủ chạy cánh của chúng tôi - Rooney và Ji - được chỉ đạo phải bó sát vào trung lộ, cố tình để trống khu vực hành lang. Sau những buổi tập với những tấm thảm, chúng tôi tự tin mang theo kế hoạch của mình tới Camp Nou. Trong cả trận đấu, hình ảnh những tấm thảm màu xanh lúc nào cũng hiện lên trong đầu chúng tôi. Chúng tôi ra về với một trận hòa 0-0, điều quan trọng là giữ được sạch lưới. Kế hoạch mang tên tấm thảm của Carlos thoạt trông đơn giản nhưng rất hiệu quả. Trong trận lượt về, bầu không khí trên sân thật sự quá ấn tượng, khó có thể nói hết thành lời. Trận thắng Roma 7-1 cũng đặc biệt, nhưng lần này rất khác. Phần thưởng cho chúng tôi sẽ là một chỗ trong trận chung kết. Sau bàn thắng đẳng cấp thế giới của Scholesy, chúng tôi đã phải chịu một sức ép rất lớn, nhưng nhờ sự cổ vũ của các cổ động viên, chúng tôi đã có thể đứng vững. Dẫu vậy, 10 phút cuối trận vẫn khiến tôi có cảm giác dài như một đời người. Sự căng thẳng lên tới mức khó có thể chịu đựng được. Nhưng cũng bởi thế, cảm xúc khi hồi còi chung cuộc vang lên sẽ là thứ mà tôi không bao giờ có thể quên. Chúng tôi đã vào chung kết.

Hình ảnh Sir Bobby rưng rưng xúc động trong buổi nói chuyện ở Carrington khiến cho chuyến đi tới Moscow để đối đầu với Chelsea của chúng tôi có thêm cả màu sắc lịch sử. Chung kết Champions League là một sự kiện trọng đại, nhưng với chúng tôi, trận đấu này còn mang thêm những tầng ý nghĩa khác. Cá nhân tôi còn được thôi thúc bởi cảm giác tức giận vì thất bại trước Chelsea ở chung kết FA Cup một năm trước; món nợ ấy tôi muốn trả một lần cho xong. Không đời nào tôi để cho mình chịu thêm một món nợ nữa sau trận chung kết này. Tôi trưởng thành bên cạnh Cole và Lampard ở West Ham, và biết rõ John Terry cũng như Ashley Cole sau những lần tập trung với đội tuyển Anh, nhưng những dịp như thế này không có chỗ cho tình bạn. Tôi hoàn toàn “bơ” họ lúc ở trong đường hầm. Khi các võ sĩ quyền anh phải so găng với những người bạn của mình, họ chỉ đơn giản là đi vào sàn đấu và đấm bằng tất cả khả năng của mình. Tôi cũng có cảm giác như thế. Tôi biết Lamps từ năm 14 tuổi và luôn dành cho anh sự tôn trọng đặc biệt. Chính vì thế tôi luôn muốn đánh bại anh, và có lẽ ngược lại cũng thế. Nhưng tôi sẽ không bao giờ cố tình làm anh đau, không bao giờ. Nếu cần phải tranh chấp bóng, tôi sẽ lao vào với tất cả sức bình sinh, nhưng chắc chắn đó là một pha vào bóng đúng luật, không bao giờ nguy hiểm hay mang tính trả đũa. Coley là một trong những người bạn tốt nhất của tôi trong những năm tháng tuổi trẻ, nhưng trong những ngày diễn ra trận đấu, đối với anh tôi chỉ có sự lạnh lùng. Tôi luôn luôn bắt tay cầu thủ đối phương sau trận đấu và dành cho họ những lời xã giao, kiểu “Đá hay lắm” hay “Chúc mọi việc tốt lành”. Nhưng tất cả luôn chỉ dừng lại ở những trao đổi ngắn như thế thôi. Tôi rất ghét nhìn thấy cảnh các cầu thủ của những đội bóng đối địch trò chuyện vui vẻ trong đường hầm hay khi đang bước ra sân. Có những lúc chúng ta cần phải phũ, nhất là trong trận chung kết, nơi thất bại không bao giờ là một lựa chọn.

Những trận đấu với Chelsea thường rất nặng về thể lực, nên tôi đã lường trước được chuyện trận đấu sắp tới sẽ như một cuộc chiến. Ngay cả khi Ronaldo đánh đầu đưa chúng tôi vượt lên dẫn trước, tôi vẫn tin rằng họ sẽ không bao giờ dễ dàng chấp nhận thất bại. Chelsea không phải là đội bóng được nhớ tới bởi lối chơi đẹp, nhưng trong đội hình của họ có những cầu thủ tài năng như Frank Lampard hay Didier Drogba, những người có thể biến các trận đấu thành một cuộc đua thể lực khốc liệt. Trong trận chung kết, tôi dành phần lớn thời gian chỉ để bắt kịp những pha di chuyển của Lampard. Mỗi khi trái bóng được triển khai lên phía trên, Lampard lại biến mất, và tôi lại cuống cuồng đuổi theo. “Theo sát Lampard. Chặn anh ta lại,” là những chỉ đạo từ sếp. Trong những lúc đuổi theo Lampard, tôi thường cố gắng tựa người vào anh để khiến anh mất thăng bằng. Bởi Lampard là người mà tôi được phân công theo kèm, nên khi anh thoát đi và ghi bàn thắng gỡ hòa ngay trước giờ nghỉ, tôi đã tự trách mình rất nhiều. Khi quyết định đứng lại ở khu chữ D, tôi không nghĩ là trái bóng có thể tìm đến được gần vị trí của Lampard. Nhưng nó lại đập vào vai của Vidić rồi đổi hướng, khiến Edwin bị trượt chân, và Lamps đã ập vào rất nhanh. Thực ra thì rất khó trách tôi vì bàn thua đó, nhưng dù sao Lamps cũng là người mà tôi phải theo kèm, nên tôi thấy có lỗi. Đấy là một pha bóng đặc trưng của Lamps, chỉ cần một lần để sổng anh trong vòng cấm là đủ để ta phải trả giá. Cho tới thời điểm đó thì chúng tôi đã chơi rất tốt và có thể đã dẫn trước hai, có thể là ba bàn. Bàn thua vì thế đến rất không đúng lúc, ngay trước khi bước vào giờ nghỉ. Trong phòng thay đồ, sếp tỏ ra bình tĩnh, ông chỉ động viên chúng tôi trở lại ngoài kia và bắt đầu lại từ đầu. Chúng tôi biết rằng Chelsea sẽ lại tấn công, đặc biệt là với Drogba, người rất nhanh và khỏe, thường chúng tôi phải cần tới hai hậu vệ để có thể ngăn chặn được anh ta. Vidić chọn giải pháp chơi quyết liệt và thường xuyên sử dụng sức mạnh khi áp sát. Có vẻ điều đó khiến Drogba ức chế; trong một pha lộn xộn, bỗng dưng anh ta tát thẳng vào mặt Vidić và thế là phải nhận thẻ đỏ. Drogba là một trong những chuyên gia đá penalty của Chelsea, nên việc anh ta phải rời sân, nhất là khi hiệp phụ chỉ còn 5 phút nữa thì kết thúc, là một điều thật lạ lùng, thậm chí điên rồ.

Tôi bắt đầu nghĩ về loạt đá penalty từ khi trận đấu bước vào những phút cuối. Tôi biết tôi sẽ đá. Tôi tự nhủ: “Đây sẽ là bài test để xem mày mạnh mẽ tới đâu. Liệu mày có vượt qua được không? Mày có đủ gan lì hay không?” Tôi chắc chắn sẽ rất hối tiếc nếu nói rằng “Tôi không làm được” và đẩy trách nhiệm sang cho người khác. Đó là điều mà tôi sẽ không bao giờ làm. Lý do tôi tới United là đây, là để trở thành người giỏi nhất. Thế nên, khi sếp đi một vòng để hỏi xem những ai muốn nhận trách nhiệm đá penalty, tôi xung phong đá quả thứ hai hoặc thứ ba. Chúng tôi thống nhất là tôi sẽ đá quả thứ hai, và từ giây phút ấy, tôi tập trung toàn bộ sức mạnh tinh thần để sẵn sàng cho thách thức mới. Thật là khủng khiếp. Chỉ mới nghĩ tới chuyện sẽ phải đá một quả penalty là đã đủ chết khiếp rồi. Tôi đang bước vào một vùng đất lạnh lẽo và đáng sợ. Những gì xảy ra trong vài phút tiếp theo ở Moscow sẽ theo tôi đến suốt đời.

Sau khi Carlos và Ballack ghi bàn, là tới lượt tôi. “Mình sẽ giả vờ đá sang phải, nhưng sẽ sút thật mạnh sang trái,” tôi nghĩ. Tới lúc đó thì tôi không còn nghĩ gì tới kỹ thuật, hay là mình sẽ thực hiện quả đá như thế nào. Tại sao lại phải nghĩ? Bao nhiêu năm tháng tập luyện chăm chỉ để làm gì? May mắn làm sao, khi trái bóng vừa rời khỏi chân, tôi thấy Čech đổ người sang hướng khác. Bóng nằm gọn trong lưới. Wow! Cảm giác lúc ấy thật khó tả, vừa nhẹ nhõm, vừa thỏa mãn. Tôi đã thử thách bản thân. Tôi đã tự hỏi liệu mình có thể làm được không khi đứng trên lằn ranh sinh - tử. Tôi làm được!

Tôi hướng về phía các cổ động viên của United và ăn mừng bằng cách nắm chặt hai tay, vừa giật tay lên xuống vừa hét, cố gắng giải phóng hết tất cả những căng thẳng đã không ngừng tích tụ cho tới thời điểm trái bóng bay vào lưới. Trong khi đi bộ về phía các đồng đội đang chờ ở vòng tròn giữa sân, tôi cũng hướng về phía Lisa và bố mẹ trên khán đài, giơ cao bàn tay nắm chặt, ý nói, “Mọi chuyện ổn rồi, không có gì phải lo lắng cả.” Tôi biết họ cảm thấy như thế nào. Họ chắc chắn là phải thấy căng thẳng hơn tôi, và có lẽ đã nghĩ tới điều tồi tệ nhất. Khi tới được vòng tròn giữa sân, tôi hít một hơi thật sâu. Khi thở ra, tôi mới thực sự ý thức rõ được điều gì vừa xảy ra.

Pha bóng quan trọng nhất trong đời tôi đã kết thúc. Tôi biết bây giờ tôi chỉ còn có thể đặt niềm tin vào những đồng đội còn lại. Tất cả những gì tôi có thể làm là động viên những đồng đội sẽ đá sau tôi từ vạch giữa sân. Juliano Belletti cân bằng tỷ số 2-2, và giờ tới lượt của Ronaldo. Những loạt penalty thật là tàn nhẫn. Ronnie là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của chúng tôi, đã ghi không biết bao nhiêu bàn thắng từ chấm 11m trong cả mùa giải trước đó, và chưa bao giờ thiếu tự tin, ấy thế nhưng anh lại sút hỏng. Anh suy sụp thấy rõ, và trong đầu anh lúc ấy hẳn phải xuất hiện cả nghìn luồng suy nghĩ. Những chuyện như thế vẫn xảy ra. Tôi từng đá hỏng một quả penalty trong trận đấu ở Burnley. Tôi cũng từng đá hỏng một quả khác trong trận đấu ở vòng bốn Cúp Liên đoàn với Boro. Nên tôi cũng chẳng tự nhận mình là chuyên gia đá pen được. Penalty là chuyện may rủi, nên không ai trách Ronnie, và dù sao thì trận đấu cũng chưa kết thúc. Hargreaves gỡ hòa 3-3, Ashley Cole đưa Chelsea vượt lên dẫn trước, rồi Nani lại gỡ hòa 4-4. Giờ là thời khắc quyết định. John Terry là người nắm giữ mọi hy vọng của chúng tôi. Nếu anh ghi bàn, chúng tôi thua. Tôi chưa bỏ sót một quả penalty nào ở trận này, nhưng có cảm giác là may mắn đã không đứng về phía chúng tôi. Tôi cần phải làm một cái gì đó khác đi, nên tôi quyết định không nhìn quả cuối. Khi Terry bước lên, Rio tiến lại gần tôi và ra dấu cho Edwin ngả người về phía bên phải. Tôi tự cuộn mình trong một tấm chăn tưởng tượng. Tôi vòng cánh tay trái quàng qua vai của Rio, cánh tay phải qua vai của Vidić, mắt thì dán chặt xuống mặt cỏ sũng nước, chờ đợi những phản ứng sau cú đá của Terry. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn trống rỗng, chỉ biết đứng đó mà chẳng thể làm gì. Mỗi giây dài như cả phút. nhưng rồi cả Rio lẫn Vida đều đột ngột bật hết cả lên. Từ trên khán đài, các cổ động viên của chúng tôi gầm lên một tiếng kinh thiên động địa. Nghĩa là chỉ có thể xảy ra một khả năng. John Terry đã đá trượt. Tôi không biết chuyện xảy ra như thế nào. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là chúng tôi lại có được một con đường sống. Đùng một cái, chúng tôi đi thẳng từ cõi chết tới chỗ có thể giành chiến thắng chỉ trong vài tích tắc. Sau này khi biết được chuyện gì đã xảy ra, tôi cảm thấy tiếc cho John Terry, bởi vì anh bị trượt chân trụ trước khi sút. Nhưng lúc ấy thì không có chỗ cho sự cảm thông.

Đấu súng bình thường vốn đã căng thẳng, tới loạt “cái chết bất ngờ” thì thực sự là như tra tấn. Thêm một quả penalty là thêm một phần khổ ải. Tới bây giờ, tôi càng nghĩ càng thấy nhẹ nhõm vì đã thực hiện xong quả đá của mình từ sớm. Cảm giác khi chờ đợi cú đá tiếp theo thật là khủng khiếp. Anderson đang bước lên. Ando đã phải chịu những chấn thương khủng khiếp, nhưng đấy là một chàng trai trẻ rất tài năng. Sếp rất yêu quý cậu ta, thường cho cậu ta ra sân ở những trận đấu lớn, như trận với Liverpool của Steven Gerrard ở Anfield hồi tháng 12. Ando đã vượt qua được bài test đó, và chắc chắn là hôm nay cậu ta cũng sẽ làm được điều tương tự, phải không? Ando vốn không biết sợ hãi, và giờ hơn lúc nào hết, cậu ta cần phải thể hiện được điều đó khi đối mặt với Čech. Tôi không dám nhìn. Sau này xem lại trên DVD, tôi mới thấy là Ando thực hiện quả đá của mình như thể trên đời này chẳng có gì khiến cậu ta phải bận tâm, cứ thế sút thẳng trái bóng vào khung thành.

Salomon Kalou ghi bàn đẩy áp lực về phía chúng tôi, nhưng ngay sau đó Giggsy đã lạnh lùng “trả” nó lại cho Chelsea. Nicolas Anelka bước lên. Tôi lại vòng tay qua vai các đồng đội, và lại cắm mặt xuống đất. Một lần nữa, thời gian lại nặng nề trôi qua. Tới lúc chưa? Thêm một giây. Rồi một giây nữa. Tôi vẫn dán mắt vào mặt cỏ. Đột nhiên, Rio và Vida cùng gầm lên rồi lao về phía trước như một mũi tên. Tôi bị bỏ lại một mình ở đó, tay vẫn dang ra nhưng cứ lơ lửng vì không có chỗ dựa. Khi tôi nhìn lên thì họ đã chạy cách xa tôi được gần 5m. Tôi lao theo ngay lập tức, vừa chạy vừa giơ hai tay lên trời, miệng thì không ngừng gào thét như điên như dại. Tôi cố gắng chạy càng nhanh càng tốt tới chỗ của Van der Sar. Khoảnh khắc ấy, tôi hoàn toàn mất kiểm soát. Mọi thứ xung quanh nhòe đi trong phút chốc, trước khi sự phấn khích và những cảm xúc khác xâm chiếm. Ngay cả vào lúc này, mỗi khi xem lại khoảnh khắc Van der Sar cản phá cú đá penalty của Anelka, tôi vẫn thấy phấn khích như thể chuyện mới vừa xảy ra hôm qua, dù cho đã một thập kỷ trôi qua. Tôi không phải kiểu thích treo ảnh kỷ niệm ở nhà, nhưng Moscow là một sự kiện đặc biệt. John Peters, người phụ trách chụp ảnh của câu lạc bộ, tặng tôi một tấm rất đẹp. Trong ảnh, tôi đang đứng ở vòng tròn giữa sân, đầu cúi xuống. Thế rồi, bang, chúng tôi trở thành những nhà vô địch. Tôi vẫn đang treo bức ảnh đó trên tường. Cũng như bức ảnh, ký ức và những cảm xúc ở Moscow sẽ không bao giờ phai mờ. Tôi nhớ Luzhniki lúc đó ồn ào một cách khủng khiếp, với đủ thứ âm thanh hỗn độn, nhưng trong khi chúng tôi đang chạy về phía Edwin, tôi bỗng thấy xung quanh mình im ắng một cách kỳ quái. Tôi cảm giác giống như đang ở trong một cảnh phim, xung quanh mọi thứ rất hỗn loạn, nhưng tất cả đều diễn ra ở tốc độ quay chậm. Khi tôi chạy cật lực về phía Edwin, tất cả những thành viên còn lại của đội, các cầu thủ dự bị, các huấn luyện viên, cả các nhân viên hậu cần nữa, cũng đều lao về phía đó, thế nên vào lúc tôi chạy được tới nơi thì đã có sẵn một núi người đang phát điên rồi. Chúng tôi nhảy lên người nhau, hét vào mặt nhau, còn tôi thì vừa gào lên vừa cố gắng ôm càng nhiều đồng đội của mình càng tốt - chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy tuyệt vời như vậy. Mọi người chạy tứ tán, ai ai cũng ngập tràn trong cảm xúc. Chỉ nhìn ngắm niềm vui và cảm giác hạnh phúc trên mặt mọi người cũng đủ thấy đặc biệt rồi. Chúng tôi là những nhà vô địch châu Âu! Wow! Sau khoảng một phút hoặc hơn không còn kiểm soát nổi mình, đột nhiên tôi thấy như đâm vào một bức tường gạch. Hai tiếng nỗ lực tột cùng, cảm giác nhẹ nhõm khi đá xong quả penalty của mình và niềm vui chiến thắng, tất cả quyện lại làm một và tông vào tôi như một bức tường trên đường chạy marathon. Cơn dâng trào adrenaline đột ngột lắng xuống và tôi thấy hụt hẫng. Tôi chẳng còn lại gì.

Tôi đi về phía mẹ, bố và Lisa, đáng lẽ phải rất vui thì tôi lại thấy mình như một kẻ chết rồi, về mặt tinh thần. Tôi đã bị đánh sụm.

Tôi không biết là mình nên cười, khóc hay gục xuống nữa. Tôi kiệt quệ, cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi chưa từng khóc trên sân, nhưng hôm đó và lúc đó, tôi đã khóc như một đứa trẻ. Tràn ngập đầu óc tôi là những suy nghĩ về hành trình mà tôi đã phải trải qua, bắt đầu từ Wallsend, cũng như những hy sinh của tất cả những người đã và đang đến bên cuộc đời tôi, không có họ, hôm nay tôi đã không thể có mặt ở đây, ở cái nơi đặc biệt này. Tôi thấy mẹ, bố và Lisa nhảy nhót tưng bừng trên khán đài, hạnh phúc tới phát cuồng. Thật tiếc là Graeme không thể có mặt ở đó, nhưng tôi nghĩ tới nó, tới những năm tháng chúng tôi chơi bóng trong vườn nhà với nhau. Tôi cũng nghĩ về những ngày bố và ông nội thay nhau đưa tôi tới Boyza, nơi bắt đầu của cuộc hành trình tới Moscow này. Tôi hy vọng là từ trên cao, ông có thể thấy tôi hôm nay, bởi vì chiến thắng của tôi cũng chính là chiến thắng của ông.

Khi không khí dịu đi, tôi dành ít phút đi vòng quanh để chia vui với đội ngũ nhân viên hậu cầu, mặt ai nấy đều như một cuốn phim. Quá trình chuẩn bị cho lễ nâng cúp như thể kéo dài cả thế kỷ. Nhưng dần dần các cầu thủ cũng tụ lại ở chân cầu thang dẫn tới nơi để chiếc cúp vô địch. Sir Bobby đã có mặt ở đó, ông bắt tay tôi và nói: “Làm tốt lắm, xin chúc mừng, cậu đã là nhà vô địch châu Âu rồi đó.” Lại thêm một khoảnh khắc lịch sử kỳ diệu nữa cho đội bóng của ông, và tôi có thấy trong mắt ông ánh lên niềm tự hào. Điều đó khiến cho thành tựu của chúng tôi càng trở nên đặc biệt hơn nữa. Đứng bên cạnh Rio Ferdinand, tôi chờ đợi một cái gật đầu để bắt đầu bước lên các bậc thang. “Chúng ta làm được rồi!” Tôi nói với anh, vừa nói vừa cười lớn. Tôi vẫn không thể tin được đó là sự thật. Đứng bên Rio càng khiến cho tôi thêm hạnh phúc; anh là một người bạn lớn đã luôn ở bên từ lúc tôi còn là một cậu nhóc 14 tuổi chập chững bước chân vào West Ham.

Khi chúng tôi kết thúc màn ăn mừng chức vô địch trên sân, ở Moscow đã rất muộn rồi, khoảng 1 hay 2 giờ sáng gì đó. Sân bóng trở thành một sân khấu, khi cơn mưa nặng hạt đã góp phần tạo nên những hình ảnh đẹp đẽ và không bao giờ có thể quên. Đối với tôi, một trong những thú vui khi giành một chiếc cúp nào đó là trở lại phòng thay đồ - nơi trú ẩn - để tiếp tục ăn mừng với các đồng đội, cả những người ngang ngang tuổi như Rio, Fletch, Sheasy, Wes, Wazza; rồi Ronnie, Tévez, Evra, Vidić, Nani; lẫn những người lớn tuổi hơn như Giggsy, Scholesy và Van der Sar. Sự thân thiết giữa chúng tôi là bất chấp tuổi tác.

Tôi nhìn một vòng quanh phòng thay đồ và cảm thấy hạnh phúc. Không hề có xung đột giữa những người trẻ với những người già, giữa những người Anh với những người ngoại quốc, hay giữa những người có sở thích khác nhau. Chỉ có chúng tôi, những người anh em được gắn kết với nhau bởi niềm đam mê chinh phục các danh hiệu với Manchester United. Chúng tôi đã chiến đấu bên nhau trong cả mùa giải, và giờ là thời khắc để ngồi xuống, trao cho nhau những cái gật đầu thể hiện sự trân trọng với những gì mà chúng tôi đã đạt được, và nhìn lại tất cả những gì mà chúng tôi đã phải trải qua để có được những thành quả ấy. Chúng tôi xếp thành vòng tròn, nhảy múa và ca hát. Chỉ đơn giản thế thôi, không màu mè, không có thêm ai hay cái gì khác, chỉ có chúng tôi. Được thấy niềm vui trên gương mặt của các nhân viên, của các đầu bếp, các bác sĩ, những người phụ trách trang phục, các chuyên gia massage cũng là một điều tuyệt vời. Họ không nhận được nhiều sự chú ý, nhưng họ là những người đã luôn ở bên chúng tôi mỗi ngày ngay từ đầu, và phần lớn trong số họ là những cổ động viên cứng của Quỷ đỏ. Có thể làm được gì đó cho họ khiến chúng tôi cảm thấy hết sức hài lòng. Tôi có thể thấy rõ việc United lại trở thành niềm tự hào của châu Âu đối với họ có ý nghĩa lớn lao thế nào.

Trong bữa tối sau đó ở khách sạn, Giggsy được mời lên sân khấu nhận phần thưởng là một chiếc đồng hồ vì đã vượt qua được kỷ lục về số lần ra sân của Sir Bobby. Đêm ấy không phải để ngủ, đương nhiên là vậy, và thế là sáng hôm sau, tất cả chúng tôi đều đi thẳng tới sân bay từ... quầy bar. Tôi thì chỉ muốn đêm đó kéo dài mãi mãi. Thông báo chuyến bay sẽ bị trễ tới năm tiếng như sét đánh ngang tai. Chúng tôi chẳng biết làm gì khác ngoài việc ngồi đó chờ đợi, đầu thì ong lên nhưng vẫn cứ phải cười. Cuối cùng, vào lúc 9 giờ 30 tối, máy bay của chúng tôi cũng hạ cánh xuống Manchester. Tôi vòng tay qua Owen và Vida khi chúng tôi cùng nhau bước xuống cầu thang ở đuôi máy bay. Vẫn có rất nhiều cổ động viên kiên trì chờ chúng tôi cho tới lúc ấy. Chúng tôi giơ cao chiếc cúp vô địch để họ có thể nhìn thấy, rồi trèo lên xe buýt. Cúp vô địch châu Âu đã trở lại Manchester. Tôi trèo lên tầng hai và ra phía đầu xe, rồi cùng Wazza và Ronnie giơ cao chiếc Cúp về phía các phóng viên ảnh. Suốt cả chặng đường tôi không ngừng cười một giây nào.

Xe dừng lại ở Carrington. Lúc đó Louise con gái tôi vẫn đang ở nhà, con bé mới được hai tháng rưỡi, nên tôi chỉ mong được nựng nó trong tay. Trong đội ai cũng như tôi, nên xuống xe là chúng tôi về thẳng nhà. Chỉ kịp chúc nhau mấy câu kiểu “nghỉ hè vui vẻ” rồi đường ai nấy đi.

Một trong những hối tiếc lớn nhất của tôi là chúng tôi chưa bao giờ diễu hành ở Manchester. Chính quyền và cảnh sát nói “không” sau khi xảy ra những rắc rối với các cổ động viên của Ranger trong trận chung kết UEFA Cup trên sân của City một tuần trước đó. Bây giờ nhìn lại, tôi lại càng thấy tiếc hơn. Chúng tôi đã vô địch Premier League và Champions League. Cớ gì mà thành phố lại không tổ chức ăn mừng? Đêm đó, tôi không nghĩ nhiều tới việc chúng tôi sẽ không được tham gia màn diễu hành. Ký ức về ngày hôm ấy cũng không còn rõ nữa, điều duy nhất mà tôi nhớ rõ là câu nói của Sir Alex khi chúng tôi bước xuống xe buýt ở Carrington.

“Cứ chuẩn bị thật tốt nhé, các chàng trai, mùa tới chúng ta phải vô địch Premier League đấy.”