N
gười được một mẩu, thân hình thì mảnh khảnh, tóc lại dài, nhìn kỹ, thằng nhóc trước mặt tôi trông như thể đang chuẩn bị ra sân trường để chơi với các bạn học. Trông cậu ta hết sức bình thường, thậm chí có cảm giác là chưa đủ tuổi để chơi bóng! Nhưng đừng có trông mặt mà bắt hình dong! Cậu nhóc này là một tay thứ thiệt đấy. Cậu ta ở đâu là ở đấy bừng sáng. Mỗi khi có bóng, cậu ta trở nên sống động hẳn lên, những pha chạm bóng đều mượt như nhung và đôi chân thoăn thoắt như nhảy múa trên những cú tắc từ hậu vệ đối thủ. Cậu ta đá tiền đạo cánh phải trong đội hình Barcelona đã bị chúng tôi đánh bại trên đường tiến tới Moscow. Ngay từ lúc ấy, tôi đã hiểu vì sao cậu ta lại gây ra nhiều ồn ào đến vậy. Tôi đang nói về Lionel Messi.
Với trái bóng trong chân, cậu ta sắc bén như một mũi dao - tôi chưa từng thấy ai sắc bén hơn - và cậu ta có thể đổi hướng chỉ trong một tích tắc. Có một vài tình huống tôi cứ ngỡ là mình đã chặn được Messi rồi, nhưng roẹt một cái, cậu ta biến mất. “Bắt cậu ta dùng chân phải, cậu ta chỉ chơi được có mỗi chân trái thôi,” người ta thường nói thế. “Mỗi chân trái” thôi đã đủ chết rồi. Cách cậu ta xử lý bóng trong phạm vi hẹp thật sự khó tin, và nói chung là đừng mơ lấy bóng trong chân cậu ta. Chúng tôi giữ được sạch lưới trong cả hai trận bán kết với Barcelona trên đường tới Moscow. Chúng tôi thắng, nhưng rồi Messi sẽ trở lại để ám ảnh chúng tôi.
Trở lại chuẩn bị cho mùa giải mới với tư cách nhà vô địch nước Anh và châu Âu là một trải nghiệm tuyệt vời, nhưng để chứng minh mình là những người xuất sắc nhất, chúng tôi cần phải làm được điều đó một lần nữa. Có một số đội bóng sau khi giành được một danh hiệu đã cho phép mình được thả lỏng một chút; họ mân mê chiếc huy chương, đắm chìm trong những lời tán tụng, hay tham gia những cuộc phỏng vấn vui vẻ trên những chiếc sofa mềm mại. Rồi đánh mất sự sắc bén. Chúng tôi thì không. Nhất là khi sếp vẫn còn đó. Sir Alex tỏ ra khát khao hơn bao giờ hết, ông ngay lập tức thách thức chúng tôi. Chúng tôi có thể vô địch ba năm liên tiếp không? Chúng tôi có thể làm điều chưa ai làm được là bảo vệ được chức vô địch Champions League không? Tôi cũng tự thách thức bản thân mình: Ngươi có sẵn sàng tiếp tục thúc đẩy bản thân không? Có. Ngươi có phải là kẻ ngay sau khi chinh phục xong đỉnh Everest có thể lập tức leo lại từ đầu không? Có. Ngươi có dễ thỏa mãn không? Không. Câu hỏi cuối cùng là mấu chốt. Chúng tôi có giành được cái gì thì cũng không bao giờ là đủ.
Ở United, tôi học được cách trở nên tàn nhẫn khi chiến thắng, đồng thời sẵn sàng hy sinh tất cả mọi thứ trên đời để có thể trở thành người giỏi nhất. Tháng 6 là quãng thời gian duy nhất chúng tôi cho phép mình nghỉ ngơi. Nhưng tôi cũng chỉ nghỉ ngơi hoàn toàn được trong một tuần là tối đa. Sau đó, tôi bắt đầu lảm nhảm với Lisa những câu kiểu như, “Anh phải vào phòng gym đây”, “Anh không thể ăn món đó”, hay “Anh đã nuông chiều bản thân quá mức rồi”. Đó là câu chuyện của hè 2008. Nhưng đó cũng có thể là câu chuyện của bất kỳ mùa hè nào. Là cầu thủ hay là huấn luyện viên thì tôi đều bị thôi thúc bởi khát khao chiến thắng cùng với United. Tôi không thể ngừng suy nghĩ về điều đó. Và người ta cũng không ngừng hỏi tôi về nó. Từ sân trường, siêu thị tới trạm xăng, tôi có thể bị hỏi về United ở bất kỳ đâu và vào bất kỳ thời điểm nào. Luôn luôn như thế. Tôi có thể đi ra ngoài ăn tối với Lisa nhưng đầu óc lại nghĩ về buổi tập ngày hôm sau. Hoàn toàn không có lối thoát. Nhưng tôi tự hào về sự tận tâm của mình và hoàn toàn không hề có một chút hối tiếc nào. Khoảnh khắc bạn bước qua cánh cổng câu lạc bộ vào ngày đầu tiên của tháng 7 cũng là lúc bạn bắt đầu bước vào một guồng quay sẽ không chậm lại cho tới cuối tháng 5. Tôi không tìm kiếm sự cảm thông, bởi vì tôi đang được làm công việc mà tôi yêu thích và nhận lại được nhiều phần thưởng từ nó, nhưng là cầu thủ thì ta phải chấp nhận sự thật cuộc sống của ta không còn là của ta trong vòng ít nhất là mười một tháng trong năm. Thật điên rồ. Nỗi sợ về nhì và cảm giác xấu hổ theo sau không bao giờ thực sự rời bỏ tôi. Sau một thời gian, tôi nhận ra thứ thúc đẩy tôi không ngừng tiến lên không phải là khát khao thành công mà là nỗi sợ hãi thất bại.
Ở United, chúng tôi không có cơ hội nhẩn nha, bởi vì chỉ sau có bốn ngày tập luyện là chúng tôi đã phải chơi trận đầu tiên rồi. Chúng tôi chưa thực sự sẵn sàng trong trận đấu với Aberdeen vào ngày 12 tháng 7 năm 2008, nên chỉ sau có 20 phút, tất cả đều như những kẻ chết rồi. Sau trận đấu ở Pittodrie, chúng tôi nhanh chóng gói ghém đồ đạc để đi tour, lần này là tới châu Phi, chính xác là Nigeria, xứ sở của những điều điên rồ. Chúng tôi chỉ ghé qua thủ đô Abuja một thời gian ngắn, nhưng rồi ai cũng thấy thế là quá dài. Ai đó đã trả cho United một khoản tiền kha khá để có thể đưa chúng tôi tới Abuja. Từ Cape Town, máy bay chở chúng tôi hạ cánh vào lúc 3 giờ sáng của ngày sẽ diễn ra trận giao hữu với nhà vô địch FA Cup, Portsmouth. “Kéo rèm lại và tắt hết đèn đi,” nhân viên an ninh hét lên khi chúng tôi lên xe buýt để về khách sạn ở Abuja; họ sợ chúng tôi bị mai phục. Khi tới khách sạn, những gì chúng tôi chứng kiến là sự hỗn loạn toàn tập: cổ động viên có mặt ở khắp mọi nơi, người thì lang thang trong hành lang, kẻ thì lẻn vào thang máy - họ muốn gặp chúng tôi tới phát cuồng. Chúng tôi cố gắng chợp mắt vài tiếng cho lại sức. Một vài người sau đó quyết định xuống đi bộ quanh vườn khách sạn tìm chút thư thái, nhưng hóa ra chẳng thư thái chút nào khi mà đâu đâu cũng thấy cảnh sát vũ trang nằm bò lổn nhổn. Khi chúng tôi bước qua bể bơi, có một người đàn ông là nhân viên khách sạn giơ máy lên chụp. Chúng tôi không thấy có vấn đề gì cả, chuyện đó vẫn xảy ra suốt, nhưng rõ ràng với các nhân viên an ninh thì đó là một vấn đề lớn. Một trong số họ lao tới và giật chiếc máy ảnh khỏi tay người đàn ông.
“Ô, có chuyện gì vậy?” Tôi hét lên. Họ tóm lấy anh ta, thụi lấy thụi để vào sườn, và sau đó lôi anh ta ra phía sau khách sạn. “Này, chuyện gì vậy? Chỉ là một bức ảnh thôi mà,” tôi cố hét với theo. Chúng tôi không bao giờ gặp lại người đàn ông kia nữa. Chúng tôi không tin nổi vào mắt mình.
Chiều hôm đó, xe chở chúng tôi tới sân vận động quốc gia. Khi xe sắp tới sân, tôi thấy trên một bãi cỏ có khoảng hai mươi đứa trẻ đang ngồi chờ chúng tôi. Khi chúng tôi tới gần hơn, tôi mới để ý là chân của bọn trẻ bị cuộn vào phía dưới người, và tất cả di chuyển lên xuống ngọn đồi hoàn toàn bằng tay, nhưng chúng di chuyển rất nhanh. Kinh hãi hơn, sau đó chúng tôi được nghe rằng một số ông bố bà mẹ ở Nigeria đã đập gãy chân con cái của họ để sau này họ có thể gửi chúng ra ngoài ăn xin. Có thể nào điều kinh khủng đó lại là sự thật không nhỉ? Thật hay không thì bọn trẻ cũng có mặt ở khắp mọi nơi, và tất cả đều di chuyển bằng tay. Thật buồn khi nhìn thấy cảnh tượng đó.
Ở Abuja, chúng tôi giống như bị mắc kẹt trong một bộ phim kinh dị. Không có nhiều cổ động viên trên các khán đài vì giá vé quá cao. Một số người cố gắng xô vào, nhưng cảnh sát đã đẩy lùi họ bằng hơi cay. Dưới sân, những con ruồi đen khổng lồ không ngừng oanh tạc chúng tôi. Chúng tôi một mắt nhìn bóng, mắt kia để ý bọn sâu bọ đang lao tới. Thắng trận 2-1, chúng tôi cố gắng rời sân vận động càng nhanh càng tốt, vượt qua những đứa trẻ tàn tật đáng thương kia và phóng như bay ra sân bay.
Cả chuyến đi chỉ kéo dài tổng cộng 16 giờ, nhưng dư âm của nó thì còn lâu mới hết. Tôi nôn mửa trong suốt một tuần liền, nhưng vẫn chưa là gì so với một số cầu thủ khác. Họ bệnh tới mức United quyết định gửi mẫu nôn tới một số trường đại học, và, tôi không đùa đâu, họ tìm thấy phân khỉ và phân chuột trong đó. Các giáo sư nói rằng họ chưa từng thấy điều gì tương tự như vậy trước đây. Thế nên tôi chẳng có gì vui vẻ khi nhớ về Abuja, và tôi đoán chắc là các cầu thủ khác cũng thế. Đấy là kiểu đồ lưu niệm mà bạn không bao giờ muốn mang về sau những tour thi đấu nước ngoài. Chuyến đi tới Nhật Bản dự Club World Cup vào tháng 12 năm đó vui vẻ hơn nhiều. United có mặt với tư cách nhà vô địch châu Âu. Dù ở Anh giải đấu này không được chú ý nhiều, tôi vẫn cảm thấy rất háo hức. Với tôi, đó là một cơ hội tuyệt vời để chúng tôi giành thêm một danh hiệu nữa. Có bao nhiêu lần bạn được đứng trước cơ hội trở thành nhà vô địch thế giới? Nên nhớ là để được tham dự, trước hết bạn phải vô địch Champions League cái đã.
Trước khi tới Nhật Bản, chúng tôi sẽ có trận đấu với Spurs ở Lane vào ngày 13 tháng 12; trận tiếp theo của chúng tôi ở Premier League là trận đấu trên sân của Stoke vào ngày Lễ tặng quà. Các nhà khoa học thể thao ở Carrington nghiên cứu về jet lag để xem chúng tôi nên thức thêm bao lâu trong trận đấu với Spurs. Chúng tôi có nên ngủ ngay lập tức sau khi trận đấu kết thúc không? Hay cứ thế thức? Hay điều chỉnh theo sự chênh lệch thời gian? Kết luận của các chuyên gia là “thức”, thế nên chúng tôi có cơ hội xõa xuyên đêm ở London. Ai cũng háo hức với liệu pháp chống jet lag mới. Cả đội đổ bộ vào một casino cùng với sếp để kiếm gì đó ăn nhẹ, sau đó một số người tiếp tục kéo nhau tới hộp đêm Movida. Khi Tony Strudwick và Steve McNally, bác sĩ của đội, cố gắng đánh thức chúng tôi dậy vào sáng hôm sau, một nửa đội vẫn chưa về khách sạn! Chúng tôi cuối cùng cũng lên máy bay, và được các nhà khoa học thể thao phát cho mỗi người một bộ đèn mini có thiết kế như tai nghe để chúng tôi nhét vào tai. Họ giải thích là bằng cách đó, não bộ sẽ được “cấp” ánh sáng liên tục, cơ thể sẽ bị đánh lừa và nghĩ rằng thời điểm đó đang là ban ngày, trong khi thực tế là ban đêm. Kế hoạch phức tạp này không thực sự hiệu quả. Họ phải yêu cầu tắt hết đèn trên máy bay vào một số giờ nhất định, và cho chúng tôi uống nhiều loại nước khác nhau để giúp cho tôi dễ ngủ hơn. Lý tưởng nhất là cơ thể chúng tôi đạt tới tình trạng nửa này nửa kia, một nửa ở Tokyo và một nửa theo giờ Manchester. Chúng tôi không thể chuyển hẳn sang giờ Nhật Bản được, bởi nếu như vậy thì sẽ trở thành miếng mồi ngon cho Stoke trong trận đấu sẽ diễn ra hai ngày sau khi chúng tôi trở lại. Trên chuyến bay, tôi để ý thấy Dimitar Berbatov, người vừa mới tới từ Spurs, lúc nào cũng mang một chiếc mặt nạ lớn. Rõ ràng anh ấy không muốn dính phải bất kỳ cái gì phát ra từ hệ thống điều hòa nhiệt độ. Sau khi nhận phòng khách sạn ở Yokohama, Berba vào phòng và nằm lì trong đó suốt cả tuần. Thế là các đầu bếp phải mang đồ ăn lên tận phòng, đúng hơn là để ở bên ngoài cửa, cho anh. Berba là người duy nhất bị ốm trong suốt cả chuyến đi. Các cầu thủ khác cứ lấy đó làm trò cười. Mặc kệ Berba, chúng tôi hướng sự tập trung vào giải đấu. Jet lag quả là một vấn đề lớn. Cả bọn ở lì trong phòng games chơi bi-a cho tới tận 5 giờ sáng, bởi vì đồng hồ sinh học của ai nấy đều chạy loạn hết cả lên. Tôi cố bò lên xe buýt tới sân tập mà cảm thấy như mình chết rồi. Tất cả mọi người đều ngủ ngon lành trên ghế. Khi tới sân, như thể có cái gì đó trong mình vừa được kích hoạt, tôi lại thấy ổn. Nhưng lúc buổi tập kết thúc, tôi trở lại là một xác sống.
Tôi không thường xuyên bị sếp xạc - tạ ơn Chúa vì điều đó bởi ông là người có thể bóc sơn trên một bức tường cách xa tới cả trăm thước - nhưng ở Yokohama, tôi đã dính đòn. Sau hiệp một trận chung kết với đội bóng Ecuador, Liga de Quito, tôi nghĩ là mình đã chơi tốt. Nhưng trong giờ nghỉ, khi vào phòng thay đồ, Sir Alex đã sẵn sàng để nhảy dựng lên rồi. Ông vốn rất hay để ý tới cách tôi chuyền bóng. Ông thường gào lên: “Chuyền lên, chuyền lên đi.” Khi sếp mà đã ấn tượng với điều gì, thì nó sẽ nằm trong đầu ông mãi mãi. Trong hiệp đầu tiên, mọi đường chuyền của tôi đều là những đường chuyền hướng lên phía trên, duy có một lần tôi xoay người và chuyền về cho Rio. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ đường chuyền đó. Không phải là tôi thụ động, mà đơn giản vì đó là lựa chọn tối ưu, và ý định của tôi lúc đó cũng chỉ là chuyền cho Rio rồi nhận nó lại và tiếp tục phát triển lên phía trước. Nhưng ngay khi Sir Alex nhìn thấy đường chuyền đó, ông lập tức nổi điên, và tôi có thể nghe được tiếng ông gào lên bên ngoài đường biên, “Khốn kiếp, cậu đếch biết chuyền quả bóng lên phía trên là như thế nào à.”
Tôi bật lại ngay, “Đếch cái gì cơ?” Tất nhiên là tôi hét vu vơ, chứ không dám bật thẳng lại sếp, tôi đâu có đủ gan mà làm thế. Hai phút sau, trọng tài Ravshan Irmatov nổi còi kết thúc hiệp một, và tôi biết điều gì đang chờ đợi mình ở phía trước. Ngay khi tôi vừa bước chân vào phòng thay đồ, sếp đã nã một tràng: “Sao cậu không thể chuyền mẹ nó quả bóng lên phía trên như tôi bảo hả?” Mỗi khi ông ấy như thế, thì tốt nhất là bạn nên ngồi yên chịu trận, để cho ông xả bớt cơn điên đi. Nhìn bề ngoài, tôi rất bình tĩnh, gật lấy gật để sau mỗi câu nói của sếp, không tỏ vẻ gì là khó chịu. Nhưng trong lòng, tôi cũng muốn nổi điên, tôi tự nói với mình: “Mình phải chuyền tới bốn mươi quả lên phía trước, nhưng ông ấy lại chọn đúng quả mình chuyền về để chửi.” Nhưng sếp lúc đó gay gắt tới mức tôi không dám lên tiếng tự bảo vệ mình. “Khổ thân, sếp hơi khắt khe quá, nhỉ?” - ai đó nói trên đường chúng tôi trở lại sân đấu.
Sếp không thay tôi ra, đó là điều mà ông hiếm khi làm, bởi vì ông luôn muốn cho các cầu thủ của mình thêm một cơ hội. Tôi đồ rằng ông cố tình gây sự để giữ cho tôi không bị mất tập trung. Vida nhận thẻ đỏ rời sân ngay đầu hiệp hai, nhưng chúng tôi vẫn trụ vững, và cuối cùng có được chiến thắng 1-0 nhờ bàn thắng mà Rooney ghi được sau một đường chuyền của tôi cho Ronaldo - một đường chuyền lên phía trước. Kiểu của đội bóng là thế, cứ phải làm cho mọi việc trở nên khó khăn hơn thì mới được. Không được ồn ào như ở Moscow, nhưng việc trở thành nhà vô địch thế giới vẫn tạo ra những cảm xúc đặc biệt. Tôi cũng rất ấn tượng với các cổ động viên. Họ có mặt khắp nơi ở Yokohama, và đó là một điều hết sức đáng trân trọng bởi thời điểm giải đấu diễn ra đã cận kề Giáng sinh và chi phí cho một chuyến đi tới Nhật Bản là không hề rẻ.
Tối hôm đó, tôi và Rio Ferdinand ngồi trong quầy bar cùng với huấn luyện viên của chúng tôi là René Meulensteen. Cả ba cùng uống với nhau một cốc rượu, nhìn ngắm Yokohama qua cửa sổ, để cho cảm xúc tự tìm về. “Này các anh, chúng tôi là những nhà vô địch thế giới đấy!” Quầy bar khá yên tĩnh, không ai tới quấy rầy nên chúng tôi có thể thoải mái nhấm nháp dư vị của chiến thắng. Có thêm danh hiệu “Vô địch thế giới” đặt cạnh tên mình là điều gì đó rất đặc biệt. Nhưng chúng tôi không có thời gian để tự thỏa mãn, để tự ngưỡng mộ bản thân, vì phải nhanh nhanh chóng chóng trở lại nước Anh.
Gặp Stoke trên sân của họ luôn là một trong những trận đấu khó khăn nhất của mùa giải, nên chúng tôi chuẩn bị cho trận đấu cũng nghiêm túc và kỹ càng không kém gì cho trận chung kết. Tévez ghi một bàn thắng muộn. Nhiệm vụ hoàn thành! Đó là trận thứ sáu liên tiếp ở Premier League Edwin giữ sạch lưới; thủ thành tuyệt vời người Hà Lan của chúng tôi sau đó tiếp tục kéo dài thời gian giữ sạch lưới lên thành 1.311 phút, một kỷ lục thế giới. Ban tổ chức Premier League tặng cho Edwin một phần thưởng, nhưng về phần chúng tôi thì không có gì, không tri ân, không lễ lạt rình rang, chỉ có một cái gật đầu theo kiểu như muốn nói, “Làm tốt đấy.” Edwin là người được lên trang nhất, nhưng tôi thấy rằng cũng cần phải nhắc tới những người chơi ở hàng hậu vệ như Rio, Vida và Jonny Evans. Cả tôi nữa, tôi là người chơi ở ngay phía trên hàng phòng ngự. Thế nên, việc ngăn không cho đối phương ghi bàn là niềm tự hào chung của tất cả chúng tôi. Edwin là thủ môn, trách nhiệm của anh là lớn nhất, nên giải thưởng dành cho anh là xứng đáng. Nhưng nói rằng đó là phần thưởng của tất cả mọi người cũng không sai. Dẫu sao thì trong phòng thay đồ, mọi người cũng không lấy đó làm chuyện quan trọng. “Đó là lý do chúng ta có mặt ở đây,” Gary Neville luôn nói như thế.
Và dù thế nào thì cầu thủ chúng tôi cũng không cần tới khi có kỷ lục ấy mới biết Edwin giá trị như thế nào với United. Không hiểu thế nào mà anh lại ở Fulham tới tận bốn năm, như thế là quá lâu với một thủ môn ở đẳng cấp của anh. Anh sở hữu nhiều điểm mạnh tới mức tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Khả năng chuyền bóng của Edwin là có một không hai, anh có thể chuyền bằng chân trái, chân phải, chân nào cũng rất chuẩn. Tôi cho là điều này không có gì bất ngờ bởi anh trưởng thành từ lò đào tạo của Ajax, nơi người ta rất chú trọng tới kỹ năng chuyền và phân phối bóng. Không chỉ kiểm soát tốt vòng cấm, Edwin còn rất giỏi trong việc chỉ huy hàng phòng ngự; vào trận, anh hò hét liên hồi để đảm bảo cầu thủ chúng tôi đứng đúng vị trí mà anh muốn. Edwin khá ồn ào, nhưng những chỉ dẫn của anh luôn rất rõ ràng và súc tích. Chúng tôi không cần phải quay lại nhìn anh, chỉ cần nghe anh hét trong các buổi tập, tất cả sẽ trở thành bản năng, và khi vào trận, lúc việc nghe được lời anh nói không còn dễ dàng nữa, chúng tôi cứ theo bản năng mà hành động. Nhưng dù thế nào thì một khi Edwin đã hét lên rồi, tôi cứ thế mà làm theo. Ferdinand cũng vậy. Trong các buổi tập, trước khi ai đó tung ra một cú sút, Edwin sẽ hét lên “trái” hay “phải” để tôi di chuyển về phía tương ứng, be góc sút vào hướng đó, đảm bảo rằng Edwin chỉ phải bảo vệ một nửa khung thành thôi. Nói đơn giản thì anh điều khiển tôi như điều khiển một tấm khiên vậy. Tất nhiên là khi đó, anh buộc phải đánh cược, bởi vì có khả năng là trái bóng sẽ đi xuyên qua hai chân của tôi. Nhưng dựa trên thực tế mà đánh giá thì chiến thuật này hiệu quả tới khó tin. Edwin là thủ môn duy nhất mà tôi biết thực hiện chiến thuật đó. Nhưng anh làm được như thế là bởi anh quá thông minh, mà thành công của anh trong vai trò Giám đốc Điều hành ở Ajax là một minh chứng.
Sự tập trung của chúng tôi nhanh chóng chuyển sang Champions League. Vào tháng 2, chúng tôi hành quân tới San Siro, lần này là để gặp Inter Milan. Đó là một đối thủ đẳng cấp với những tên tuổi lớn như Javier Zanetti, Dejan Stanković, Adriano, Zlatan Ibrahimovićh, và cả Mario Balotelli nữa. Chúng tôi chỉ có được một trận hòa 0-0, nhưng về mặt tinh thần thì ai cũng có cảm giác đó là một thắng lợi. Bản thân tôi khi nghĩ về trận đấu ấy luôn cảm thấy tự hào và hài lòng, đó có thể là một trong những trận đấu hay nhất của tôi trong màu áo United.
Về khả năng khai thác các nguồn lực và hoạch định chiến lược thì Sir Alex là bậc thầy. Trước trận chung kết Cúp Liên đoàn với Spurs vào tháng 3, ông kéo tôi, Rooney, Berbatov và Fletcher sang một góc trong phòng thay đồ ở Wembley thông báo rằng, “Hôm nay tôi sẽ cho các cậu được nghỉ ngơi.” Tôi đã lờ mờ đoán được điều này khi thấy ông để Darron Gibson chơi ở vị trí của tôi trong phần lớn các trận đấu Cúp, và bởi vì tôi đã đá chính trong trận đấu ở San Siro năm ngày trước, nhưng dù vậy tôi vẫn cảm thấy có chút khó chịu. Chẳng ai muốn bỏ lỡ cơ hội góp mặt trong một trận chung kết như thế cả. Nhưng rồi trận đấu cũng phải diễn ra, và khi hai đội phải kéo nhau tới loạt penalty, tôi tiến tới sát rìa khu vực kỹ thuật, đứng cạnh Edwin và Rooney để cổ vũ cho các cầu thủ trên sân. Ben Foster và huấn luyện viên thủ môn của chúng tôi là Eric Steele có clip về thói quen đá penalty của các cầu thủ Spurs trong một chiếc iPod, nên trước khi loạt đấu súng bắt đầu, Foster lấy chiếc iPod ra để “ôn lại bài”. Anh rõ ràng đã biết trước Jamie O’Hara sẽ sút về đâu, nên đổ người về bên trái và cản phá được cú sút. Anh suýt chút nữa thì cản được cú đá của Niko Kranjčar, và ngay cả trong pha đá hỏng của David Bentley thì anh cũng đổ người đúng hướng. Trong buổi họp báo sau trận, Foster có đề cập đến chi tiết cái iPod. Lẽ ra anh nên giữ im lặng, bởi vì sau đó, FIFA đã quyết định cấm tiệt việc mang iPod vào sân. Dẫu vậy, những gì mà Eric và Ben đã làm càng cho thấy ở United chúng tôi chú ý nhiều thế nào tới các tiểu tiết.
Chúng tôi trở về bằng tàu. Ai đó hờ hững đặt chiếc Cúp mà chúng tôi vừa giành được lên bàn. Có cảm giác như thể chúng tôi đang trở về nhà sau một trận đấu bình thường ở London, mọi thứ diễn ra một cách đều đều, chẳng có chút phấn khích nào. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu, bởi dù sao thì đó cũng chỉ là Cúp Liên đoàn, và chúng tôi thì vẫn đang ở trong giai đoạn giữa mùa giải. Cũng không hẳn là mọi người trên tàu quá dửng dưng với thắng lợi, nhưng rõ ràng tất cả đều ý thức được rằng phía trước vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Chúng tôi đánh bại Inter trên sân nhà, sau đó vượt qua tiếp Porto để “hẹn hò” với Arsenal ở bán kết. Trước khi trận lượt đi bắt đầu, chúng tôi xem lại trận đấu điên rồ giữa họ với Liverpool trước đó. Thời điểm ấy, chúng tôi và Liverpool đang cạnh tranh quyết liệt cho chức vô địch Premier League; vì đối thủ là Liverpool, áp lực lớn hơn nhiều, nên chúng tôi cũng phải tập trung hơn nữa. Sếp và Rafa Benítez đang trong một cuộc chiến tâm lý căng thẳng, nhưng Benítez có vẻ như đã hết chịu nổi khi trong buổi họp báo gần đây đã xổ ra một tràng “sự thật” gì gì đó. Nhưng cũng vì vậy trận đấu giữa Liverpool với Arsenal có ý nghĩa rất lớn. Hôm đó chúng tôi đang ở Lowry - chúng tôi sẽ ngủ lại đó trong đêm trước ngày diễn ra trận đấu với Portsmouth. Sau bữa tối, cả bọn chen chúc nhau vào phòng massage. Phòng massage giống như một tụ điểm vậy. Trừ một vài người đang được trị liệu, một vài người khác loanh quanh chả làm gì cụ thể, số còn lại dán mắt vào màn hình để theo dõi trận đấu. Đó là một trận đấu điên rồ, có tiềm năng trở thành một trong những trận đấu kinh điển. Chúng tôi thì ai nấy đều như thể đang có mặt trực tiếp trên sân để cổ vũ cho đội bóng của mình. Đêm đó chúng tôi ủng hộ Arsenal 100%! Đó là lần duy nhất trong đời tôi làm thế! Trận đấu cởi mở một cách khó tin. Và khi Andrei Arshavin ghi bàn thắng thứ tư của riêng anh để nâng tỷ số lên 4-3 cho Arsenal ở phút 90, chúng tôi gần như phát cuồng. Lúc đó tôi đang nằm trên bàn massage, khi bóng vào lưới, tôi bật dậy như có lò xo và lao xuống đất, khiến cho chiếc giường văng sang một góc. Những chiếc giường massage cũng chịu chung số phận khi bị ném khắp phòng. Những cầu thủ không có mặt trong phòng massage cũng phát cuồng, họ lao ra khỏi phòng, vừa chạy dọc hành lang vừa hò hét ầm ĩ - cứ như thể là chúng tôi vừa vô địch Premier League vậy! Edwin cũng nhảy tưng tưng dọc hành lang. Tôi thì không hiểu làm thế nào mà lại có mặt trong phòng tắm của một trong các căn phòng. Điên hết cỡ. Chỉ tới khi lắng xuống một chút, chúng tôi mới nhận ra là Yossi Benayoun đã gỡ hòa 4-4 cho Liverpool, nhưng không sao, họ vẫn đã để mất điểm. Không còn gì tuyệt vời hơn một trận đấu điên rồ kết thúc có lợi cho mình.
Đó chắc chắn là trận đấu hay nhất của Arshavin trong màu áo Arsenal. Nhưng anh sẽ không thể dự Champions League cùng Arsenal, do đã ra sân trong màu áo của Zenit St Petersburg trước đó. Chúng tôi giành chiến thắng trong trận lượt đi ở Old Trafford nhờ bàn thắng của John O’Shea. Sheasy là một chàng trai tuyệt vời, nhưng anh không nhận được sự tôn trọng xứng đáng ở bên ngoài United, ngoại trừ ở Ireland, nơi anh là một huyền thoại. Năm đó, Sheasy đá hậu vệ phải trong hầu như tất cả các trận đấu, và anh đã thể hiện rất tuyệt. Nhưng không chỉ có hậu vệ phải, Sheasy sẵn sàng chơi ở bất kỳ vị trí nào mà đội bóng yêu cầu, dù là tiền vệ, hậu vệ trái hay trung vệ. Anh hiểu việc chơi bóng cho United có ý nghĩa như thế nào, cần phải làm gì để giành chiến thắng, và nên hành động thế nào cho đúng. Bên ngoài sân, anh cũng là một hình mẫu về sự chuyên nghiệp. Tôi có thể hiểu tại sao Sir Alex lại giữ Sheasy ở United tới 12 năm, đơn giản là vì ông không bao giờ phải lo lắng về anh, không bao giờ phải trông chừng anh. Sếp biết rằng bất cứ khi nào ông cần tới Sheasy thì anh luôn sẵn sàng.
Chúng tôi thắng trận lượt về 3-1, nhưng niềm vui giành quyền vào chơi trận chung kết không được trọn vẹn vì một quyết định tệ hại của trọng tài ở Emirates đã khiến Fletch bị treo giò trong trận đấu ở Rome. Darren Fletch và Cesc Fàbregas cùng đuổi theo trái bóng vào vòng cấm, Fletch tranh chấp hoàn toàn hợp lệ, và còn chạm được vào bóng trước. Tất cả chúng tôi đều không thể tin nổi vào mắt mình khi ông trọng tài, tên là Roberto Rosetti, đuổi Fletch khỏi sân và cho Arsenal được hưởng một quả penalty chỉ vì pha tranh chấp đó. Chúng tôi gần như van xin Rosetti. Trận đấu an bài rồi. Chúng tôi kiểu gì chả đi tiếp. Làm ơn đừng đuổi anh ấy! Tôi cảm thấy bực mình thay cho Fletch. Quyết định của Rosetti vừa tàn nhẫn vừa không công bằng, nhưng đáng tiếc là UEFA không cho phép chúng tôi kháng án, dù ai cũng có thể thấy là Rosetti đã phạm phải một sai lầm lớn. Roy Keane và Paul Scholes từng bị treo giò trong trận chung kết Champions League năm 1999, và sau một thập kỷ, lịch sử đang lặp lại với Darren Fletch. Fletch đón nhận án phạt một cách điềm tĩnh, nhưng tôi thì thấy suy sụp, cả cho anh lẫn cho chúng tôi, bởi vì anh đóng một vai rò rất quan trọng trong hành trình tới Rome của chúng tôi. Fletch, Anderson và tôi là ba tiền vệ trung tâm trong sơ đồ 4-5-1 mà chúng tôi đã sử dụng một vài lần trong mùa giải đó, nên trước Barcelona, không có Fletch chắc chắn sẽ là một mất mát lớn. Chúng tôi đã có một màn trình diễn như trong sách giáo khoa ở trận bán kết, với những pha phản công sắc lẹm khiến Arsenal không biết đường nào mà chống đỡ, đặc biệt trong bàn thắng thứ ba của Ronaldo. Nhưng trong phòng thay đồ, bầu không khí vẫn cứ chùng hết cả lại. Chúng tôi sẽ phải chơi trận chung kết mà không có Fletch. Tôi biết là khi người thế vào vị trí của Fletch là Giggs, thì đội bóng sẽ không yếu đi, nhưng vẫn cảm thấy tiếc cho Fletch. Có thể chúng ta phấn đấu cả đời chỉ vì một cơ hội được góp mặt trong trận chung kết, nhưng với Fletch, khi cơ hội ấy tới, thì anh lại bị gạt ra rìa.
Đêm đó chúng tôi quyết định nghỉ lại London. Nhờ thế mà khi trở lại khách sạn Landmark, chúng tôi có cơ hội hiếm hoi được tận hưởng một chút yên bình khi lịch thi đấu điên rồ bớt... điên rồ đi, để chúng tôi được dừng lại thở và thư giãn chút xíu. Tôi, Giggsy, Scholesy và Rio uống với nhau và với Bryan Robson vài cốc bia ở quầy bar. “Mình vào được nhóm hay ghê,” tôi nghĩ. Một vinh dự thì đúng hơn! Robbo là một huyền thoại.
Tôi nhớ là tôi từng nói chuyện với Steve Bruce về Robbo, và ông nói rằng “Robbo đi trước những người khác cả dặm. Chẳng có điều gì mà ông ấy không thể làm được cả. Ông ấy có thể chạy lên chạy xuống cả ngày. Đã giỏi lại còn gấu, ông ấy lúc nào cũng khiến những kẻ khác sợ chết khiếp.” Nev thì luôn luôn nói với tôi: “Robbo là cầu thủ hay nhất mà tôi từng được chơi bóng cùng.” Cả Giggsy lẫn Scholesy cũng đều xem Robbo là niềm cảm hứng của mình. Giggsy kể cho tôi câu chuyện về một trong những trận đấu đầu tiên anh chơi tiền vệ trái. Ngày đó, chuyện các cầu thủ miệt thị nhau trên sân vẫn rất phổ biến, nên không có gì lạ khi Giggs liên tục phải nhận những lời khó nghe từ hậu vệ phải của đối thủ, kiểu như “Mày thử rê qua tao xem, tao sẽ cho mày gãy giò.” Robbo thấy thế, nói với Giggsy, “Này nhóc, đổi vị trí khoảng 10 phút đi. Nhóc vào chơi ở trung lộ nhé!” Khi gã hậu vệ kia có bóng, Robbo phóng cả người vào và tặng cho hắn ta một cú trời giáng. Robbo đứng dậy, lạnh lùng phủi bụi, nhận thẻ vàng từ trọng tài và hét lên với Giggsy, “Giờ thì nhóc có thể trở lại vị trí của mình được rồi đấy.” Giggsy không nghe thêm một từ nào từ gã hậu vệ kia trong suốt phần còn lại của trận đấu. Robbo luôn ra mặt để bảo vệ những cầu thủ trẻ, và đó là một phần trong truyền thống được truyền lại qua nhiều thế hệ ở Manchester United. Khi một cầu thủ trẻ được góp mặt trong đội hình đội Một, thì đó chính là niềm tự hào chung của tất cả các thành viên trong câu lạc bộ. Tháng 4 năm đó, Kiko Macheda vào sân từ băng ghế dự bị và ghi bàn thắng quyết định trong các trận đấu với Aston Villa và Sunderland. Tất cả chúng tôi đều tin rằng một ngôi sao lớn đang hình thành. “Cậu ta là người dứt điểm giỏi nhất câu lạc bộ,” Sir Alex nói với chúng tôi. Sếp đặt rất nhiều hy vọng vào Kiko, nhưng rồi cậu ta đã đi chệch hướng, một điều thật sự đáng buồn. Cũng như Kiko, Marcus Rashford cũng có một khởi đầu rất ấn tượng. Nhưng Marcus vẫn giữ được mình và tiếp tục phát triển, trong khi Kiko thì để cho cơ hội trôi tuột đi. Tài năng cũng quan trọng đấy, nhưng không có nỗ lực thì chẳng là gì cả. Để có thể tồn tại được ở United, cần nhất là sự tận tâm.
Tháng 5, chúng tôi bị Wigan cầm hòa 1-1 khi trận đấu chỉ còn 4 phút nữa là kết thúc. Rồi, ở một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của sự nghiệp, tôi ghi được bàn thắng, vẫn bằng chân trái. Tôi lao tới ăn mừng như điên trước khu vực khán đài có các cổ động viên của chúng tôi. Wazza chạy theo sau, và cuối cùng đu cả người lên vai tôi. Ở thời điểm ấy của mùa giải, mọi thứ đều căng như dây đàn. Mỗi bàn thắng, mỗi chiến thắng do đó đều mang những ý nghĩa to lớn hơn. Đội chúng tôi có tất cả, không chỉ là vấn đề tài năng, mà còn là cách chúng tôi chiến đấu vì nhau. Chúng tôi không bao giờ chịu bỏ cuộc, và điều đó lại một lần nữa được thể hiện trong trận đấu với Wigan. Đội bóng được sinh ra để ghi những bàn thắng muộn, và tin tôi đi, đó chính là cách tuyệt vời nhất để thắng một trận đấu! Động lực để chúng chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng không bao giờ là nỗi sợ hãi đối với sếp, mà là một niềm tin son sắt rằng chúng tôi có thể lật ngược được thế cờ. Khi trận đấu trôi dần về những phút cuối, chúng tôi không ai bảo ai đều nhìn nhau, như thể muốn nói, “Tới lúc rồi.” Chúng tôi sẽ tự chuyển sang một chế độ khác, tấn công đối phương không ngừng nghỉ, thực hiện vô số những pha chồng biên và tung ra không biết bao nhiêu là quả tạt tầm thấp. Tôi không nghĩ là người ngoài thực sự hiểu được tại sao chúng tôi lại làm thế, và làm thế bằng cách nào. Treo bóng vào vòng cấm không bao giờ là lựa chọn của United, bởi vì cách đó không thể làm khó được các hậu vệ của đối phương; tất cả bọn họ đều đã ở sẵn những vị trí tốt chỉ chờ trái bóng xuất hiện. Một trung vệ sẽ tranh chấp những quả bóng bổng, và phần còn lại bu vào trong các tình huống bóng hai. Quá dễ đoán. Sếp không bao giờ yêu cầu chúng tôi phải nhồi bóng, ngay cả khi trọng tài đã đưa sẵn còi lên môi. “Luân chuyển trái bóng liên tục xung quanh vòng cấm, khiến cho bọn họ mệt nhoài, rồi cơ hội sẽ tới,” sếp thường nói. Tôi thường nhìn vào Giggsy, Scholesy, Ronnie và Wazza, và thấy rằng họ không bao giờ rối loạn. Họ chỉ cố gắng duy trì áp lực bằng cách chuyền bóng và di chuyển không ngừng, khiến cho đối phương kiệt sức bằng cách không ngừng đặt ra những câu hỏi bắt họ phải trả lời. Trông thì rất hỗn loạn, nhưng đó là một sự hỗn loạn có tổ chức và được kiểm soát. Trong mùa giải đầu tiên, tôi học được rất nhiều từ việc quan sát và nói chuyện với Solskjaer, người đã ghi được không biết bao nhiêu bàn thắng ở phút cuối nhờ vào việc luôn giữ được một cái đầu tỉnh táo. Bão tố có kinh khủng đến mấy thì anh vẫn luôn điềm tĩnh. Giggsy cũng vậy. Ngay cả khi chuẩn bị tung ra quả tạt cuối cùng, biết rằng nó là cơ hội duy nhất còn lại để chúng tôi có thể làm được một cái gì đó trong trận đấu, Giggsy vẫn có thừa độ điềm tĩnh để thực hiện quả tạt ấy một cách chuẩn xác, đẹp mắt và hiệu quả nhất có thể. Sếp chẳng bao giờ ngại việc tung một lúc bốn tiền đạo vào sân. Đó thậm chí còn có thể xem là triết lý của ông - tung càng nhiều cây săn bàn vào sân càng tốt trong 10 phút cuối trận. Không quan trọng người nào chơi ở đâu, cứ phải làm sao có đủ Rooney, Ronaldo, Tévez, Solskjaer, Giggs, Scholes và Saha trên sân cái đã. Tôi nhớ trong trận đấu với Derby County vào tháng 3 năm 2008, khi chúng tôi phải rượt đuổi tỷ số, Sir Alex đã ném cả tôi lẫn Saha vào chơi tiền đạo bên cạnh Ronnie và Wazza, ngoài ra cả Giggsy cũng được chỉ đạo xâm nhập vòng cấm thường xuyên. Chúng tôi tấn công và tấn công không ngừng, cho tới khi Ronnie tung cú volley quyết định. Thắng lợi ấy là minh chứng cho sự thiên tài của sếp.
Những buổi tập căng thẳng của Sir Alex cũng mang lại cho chúng tôi khả năng trụ lại được cho tới những giây cuối cùng của trận đấu, và tới thời điểm đó thì không một kẻ nào có thể đọ được với chúng tôi về mặt thể lực. Người ta nói về những bàn thắng muộn của chúng tôi nhiều tới mức đối thủ cũng thấy sợ những bàn thắng ấy, và tôi luôn có thể nhận ra nỗi sợ hãi trong mắt họ. Họ càng sợ, chúng tôi lại càng dễ dàng xử lý. Villa có vẻ là đội bị ám ảnh nhiều nhất, và tôi nhớ là Ole, Ronnie, Kiko và Chicharito đều từng ghi được những bàn thắng muộn vào lưới của đội bóng này.
Tôi ngưỡng mộ sâu sắc sự kiên cường của các đồng đội, và chính sự kiên cường ấy đã mang về cho United danh hiệu Premier League thứ ba liên tiếp sau trận hòa với Arsenal vào ngày 16 tháng 5 năm 2009. Một trận đấu nhọc nhằn và để lại hậu quả nặng nề: tôi bị rạn xương ngón cái sau một pha tắc bóng. Trong trận đấu tôi không cảm thấy đau đớn gì lắm, bởi vì còn phải dồn sức bảo vệ cho kết quả hòa mà chúng tôi đang tìm kiếm. Tôi còn dùng đầu phá được bóng sau những quả đá phạt của Fàbregas và Robin van Persie. Cuối cùng thì chúng tôi cũng làm được. Màn ăn mừng bắt đầu, nhưng cũng kết thúc rất nhanh chóng, vì chúng tôi còn phải chuẩn bị cho một sự kiện trọng đại khác. Khi lượng adrenaline tụt xuống, tôi mới bắt đầu cảm nhận được mức độ nghiêm trọng của chấn thương vừa gặp phải với ngón chân của mình, và đau đớn nhận ra tôi sẽ không thể nào tập luyện bình thường trước trận chung kết Champions League sẽ diễn ra sau đó mười một ngày được. Ba ngày trước trận chung kết, tôi thử ra sân tập để xem liều thuốc giảm đau vừa được tiêm vào người có hiệu quả hay không. Chỉ vừa đủ để vượt qua bài test. Tôi chỉ dám rón rén bước lên chiếc máy bay sẽ chở chúng tôi tới Rome cho trận đấu với Barcelona. Chúng tôi đặt phòng ở một khách sạn gần quảng trường Piazza della Repubblica, nhưng đó chắc chắn không phải là một lựa chọn tốt. Chúng tôi phải ăn trong khu tầng hầm, và khi đồ ăn theo thang kéo xuống được tới nơi thì đã nguội lạnh rồi. Ngón cái của tôi còn rất đau, nên tôi ngồi ngoài trong buổi tập thử sân ở Stadio Olimpico. Nhưng tôi tự nhủ rằng không gì có thể ngăn mình ra sân từ đầu trong trận đấu sẽ diễn ra vào tối hôm sau. Sau tất cả, thì đây là một trận chung kết Champions League. Những gì xảy ra ở Moscow chỉ càng khiến cho tôi thêm chờ đợi khoảnh khắc này ở Rome. Một tiếng trước trận chung kết, tôi nhờ bác sĩ tiêm cho một mũi giảm đau nữa, rồi cố nhét cái ngón chân như đang bị đông cứng vào giày. Mũi tiêm đã phát huy tác dụng. Ngón chân tôi vẫn chưa được 100%, nhưng không sao, tôi từng ra sân khi trên người vẫn còn những chấn thương nhiều lần rồi.
Tôi chỉ tập trung vào trận đấu, không hề bị sao nhãng bởi bàn chân hay không khí trên sân, ngay cả khi Andrea Bocelli cất lên bài hát chủ đề trong phim Gladiator (Võ sĩ giác đấu). Tôi lo lắng nhiều hơn về cái nóng, bởi tôi thích chơi bóng trong điều kiện thời tiết mát mẻ hơn. Dẫu vậy tôi vẫn hết sức tự tin. Chúng tôi chưa phải chịu thêm một thất bại nào từ sau trận bán kết với Milan cách nay hai mùa giải. Một năm trước, chúng tôi còn đánh bại Barcelona qua hai lượt trận. Chúng tôi đều tin rằng trận chung kết này sẽ là trận đấu của chúng tôi. “Các anh đủ sức ‘ăn’ Barcelona,” người ta bảo thế. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào kế hoạch của sếp, dồn lên gây sức ép với Barcelona ngay từ đầu và tạo được nhiều cơ hội nguy hiểm. Ngay đầu trận, Ji đã có một cú sút khiến đối phương phải phá bóng ngay trên vạch vôi, và Ronnie thì bắt đầu gây ra cho họ đủ thứ phiền toái. Rồi Pep Guardiola có một điều chỉnh. Messi xuất phát ở vị trí tiền đạo phải nhưng vào trận lại đổi chỗ với Samuel Eto’o để chơi như một số 9. Nhưng không phải là kiểu số 9 điển hình. Anh ta liên tục lùi xuống hàng tiền vệ, khiến Vida và Rio không biết kèm ai, trong khi chúng tôi thì bị thua thiệt về quân số trong cuộc chiến ở hàng tiền vệ, vốn đã rất khó khăn khi đối thủ có Xavi, Sergio Busquets và Andrés Iniesta. Đó là kiểu của Barcelona - họ cố gắng tạo ra lợi thế về quân số ở khu vực trung tuyến bằng cách bổ sung một hay hai cầu thủ nữa ở khu vực xung quanh trái bóng và khiến cho mọi chuyện trở nên thật khó khăn. Barcelona chia nhỏ sân đấu ra thành các khu vực, và tập trung chơi bóng ở những khu vực nào mà họ có nhiều cầu thủ hơn. Đó là cách họ kiểm soát trận đấu. Sir Alex đã cảnh báo trước cho chúng tôi rằng cái gọi là “ma trận chuyền bóng” của Barcelona có thể khiến cho chúng tôi cảm thấy hoa mắt chóng mặt, và tôi nhanh chóng nhận ra điều ông muốn nói là gì. Xavi, Busquets, Iniesta và Messi cứ chuyền bóng qua lại mãi, không cho chúng tôi cơ hội lại gần trái bóng, khiến chúng tôi mệt nhoài. Tôi có một pha đánh đầu thiếu dứt khoát, rồi bóng tới chân của Iniesta, người nhanh chóng chuyền lên cho Messi. Barcelona luôn chuyển trạng thái rất nhanh. Tôi áp sát được Messi nhưng vẫn không thể ngăn anh ta chuyền trả lại cho Iniesta, người sau đó đã dẫn bóng vượt qua cả tôi lẫn Anderson. Iniesta vẩy quá bóng xuống cho Eto’o, người đã đánh bại Vida bằng một cú ngoặt bóng. Tôi chuồi hết cả người vào, nhưng chỉ đủ gần Eto’o để chứng kiến khoảnh khắc anh ta ghi bàn.
Trong những tuần câm lặng tiếp theo, pha bóng ấy không ngừng quay lại ám ảnh tôi. Tôi không làm cách nào gạt được nó ra khỏi đầu. Nghe có vẻ cường điệu, nhưng đúng là tôi không bao giờ thực sự vượt qua được nó. Ký ức về việc để thua một bàn dễ dàng như thế lúc nào cũng lởn vởn trong đầu tôi. Để mất bóng vào chân bất kỳ đội bóng nào cũng là việc nguy hiểm, để mất bóng vào chân Barcelona thì đúng là tự sát.
Tôi vẫn chưa quên một tình huống trong hiệp một, khi Messi lấy bóng ngay trước mũi Vidić, Wazza và tôi rồi cứ thế thoát đi, không cho chúng tôi một cơ hội chạm vào anh ta. Với một cầu thủ cao như tôi, theo kèm một cầu thủ có trọng tâm thấp như Messi là điều không hề dễ dàng. Một vài cầu thủ có tốc độ, một số khác có trí thông minh bóng đá, số khác nữa thì có những cú chạm bóng mềm mại. Messi là độc nhất vô nhị, bởi vì anh ta sở hữu cả ba phẩm chất ấy. Anh ta còn dũng cảm nữa. Bởi với cách chơi đó, Messi sẽ thường xuyên phải chịu những cú đá từ đối thủ, điều vẫn thường xảy ra với Ronaldo. Ronnie luôn bật dậy rất nhanh và sau mỗi lần như thế lại càng thêm quyết tâm, và Messi cũng thế. Đó là dấu hiệu của những cầu thủ vĩ đại: Họ luôn trở lại với nhiều khát khao hơn, nhiều quyết tâm hơn, cho dù đã phải nhận bao nhiêu cú đá. Cách chơi bóng của Messi là điều mà không ai có thể dạy được. Messi đã hoàn thiện và phát triển các kỹ năng của mình, đúng thế, nhưng bạn có huấn luyện một cầu thủ kiểu gì và trong bao lâu thì anh ta cũng không thể làm được những gì Messi vẫn làm. Đơn giản, anh ta là một thiên tài. Đã thế lại còn cứng đầu nữa. Tôi thích so sánh anh ta với Giggsy khi Giggsy đá ở vị trí tiền vệ trung tâm. Giggsy có thể để mất bóng hai hay ba lần gì đó, nhưng điều đáng nói là anh cứng đầu và tự tin vào khả năng của bản thân tới mức anh sẽ tiếp tục lặp lại những gì anh đã làm cho tới được thì thôi. Và thường thì nó hiệu quả. Tương tự như thế, nếu Messi trong các nỗ lực rê bóng hay phối hợp 1-2 với đồng đội có bị chặn lại thì ngay trong lần có bóng tiếp theo, anh ta sẽ làm lại một lần nữa, và cứ thế. Những cầu thủ ở trình độ thấp hơn thường chọn giải pháp an toàn nếu nỗ lực đầu tiên không thành công, nhưng Messi thì không như thế. Anh ta lúc nào cũng vững chí và bền gan. Xavi, Iniesta và Busquets đều rất hay, nhưng Messi mới là người nâng Barcelona lên một tầm vóc mới. Tôi còn phải nhiều lần lao vào tranh chấp với Messi, bởi vì bóng không ngừng tìm tới chân của anh ta, và mỗi lần như thế là một lần Messi thể hiện được sự thiên tài của mình. Bạn phòng ngự kiểu gì với một cầu thủ có thể đồng thời đánh bại hai cầu thủ đối phương chỉ trong một cái chớp mắt? Chẳng có kiểu gì cả. Bạn có thể chọn chiến thuật một kèm một với anh ta, nhưng điều đó chẳng mảy may khiến anh ta lúng túng. Bạn lại không thể phạm lỗi, bởi vì anh ta luôn nhận được sự hỗ trợ từ các đồng đội. Chúng ta đang nói về một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử.
Tôi đã được nghe không ít cuộc tranh cãi về việc Ronaldo hay Messi, ai xuất sắc hơn. Nhưng việc lựa chọn không bao giờ là dễ dàng, bởi mỗi người đều có những điểm mạnh riêng. Tôi là đồng đội của Ronnie nên đã được tận mắt chứng kiến sự đa dạng trong bộ kỹ năng của anh. Với Messi thì điều dễ đoán duy nhất ở anh ta chính là sự khó lường. Có những lúc tôi tới được rất gần anh ta, đến mức nghĩ là mình sắp lấy được bóng tới nơi, thì xoẹt một cái, anh ta lại lướt đi, để lại tôi với một cú tắc vào không khí. Trong khoảng 5m đầu tiên, tốc độ của Messi là có một không hai. Và vũ khí nguy hiểm nhất của anh ta chính là những pha chuyển hướng. Chân của anh ta ngắn nhưng rất nhanh, chúng có thể tiếp đất liên tục trong thời gian chân của tôi vẫn còn ở trên không. Khi tôi đặt được chân xuống đất để chuẩn bị đổi hướng, Messi đã kịp tiến thêm được hai bước, và thường là đã chuyển sang hướng khác rồi. Sự khác biệt của Messi không chỉ đến từ những gì mà anh ta có thể làm được với bóng, mà còn đến từ sự thông minh của anh ta nữa. Messi luôn chuyền bóng một cách có chủ đích, không ngừng đặt ra cho chúng tôi những câu hỏi. Một vài cầu thủ có kỹ thuật thiên bẩm, cứ ném bóng cho họ là họ sẽ biết cần phải làm gì để thoát đi, và bạn có thể tạo ra những đoạn video ấn tượng khó tin từ những kỹ xảo của họ. Messi không đảo chân hay sa đà vào những kỹ xảo kiểu đó. Lối chơi của anh là rất trực diện, anh rê bóng bằng tốc độ và có chủ đích. Khi nhìn vào Messi, tôi thấy một người không chỉ là một tay rê dắt xuất sắc, không chỉ là một người chuyền bóng tuyệt vời, và không chỉ là một cỗ máy săn bàn thượng thặng. Messi làm được hết tất cả những việc đó. Nhưng khiến cho anh ta hiệu quả tới vậy, đáng sợ tới vậy, là việc anh ta có thể nhìn được toàn cảnh bức tranh sân bóng ở tốc độ chậm. Ngay cả khi đang phải xử lý bóng ở tốc độ cao nhất, Messi vẫn có thể nhìn rõ bức tranh ấy. Thiên tài là ở chỗ đó. Anh ta ý thức được hết tất cả những gì đang diễn ra xung quanh mình, và nhờ thế luôn đưa ra được những lựa chọn chính xác, chẳng hạn nên bấm bóng qua đầu hàng thủ đối phương hay tiếp tục đi bóng. Ở tốc độ ấy, những người khác có thể chỉ thấy những bóng người mờ ảo, riêng với Messi thì mọi hình ảnh vẫn hết sức sắc nét. Chơi bóng chống lại Messi đem tới cho tôi một trải nghiệm lạ lùng, bởi vì thường thì tôi sẽ thấy ghét những cầu thủ mà tôi vừa phải đối mặt, nhưng với Messi thì khác. Tôi chỉ có thể tôn trọng anh ta.
Được chơi bóng bên cạnh những đồng đội có trình độ tương đương và chung phong cách khiến cho Messi càng trở nên đáng sợ hơn. Chúng tôi có thể áp dụng chiến thuật một kèm một với anh ta ở Rome không? Sếp sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện đó, ngay cả khi Fletch có thể ra sân. “Chúng ta có thể ghi bàn,” Sir Alex nói với chúng tôi trước giờ bóng lăn. Ông muốn chúng tôi chiếm tiên cơ, thay vì chơi cẩn trọng và quá chú ý tới các cá nhân bên phía đối thủ, vốn cũng chưa bao giờ là phong cách của ông. Ông muốn Ronnie chơi ở hàng tiền đạo để giải phóng anh khỏi nhiệm vụ phòng ngự, trao cho anh một vai trò tự do để anh có thể tấn công vào bất kỳ khu vực nào mà anh mong muốn. Nhưng chúng tôi đã không cung cấp đủ bóng cho Ronnie. Rooney chấp nhận hy sinh và chơi ở bên cánh trái. Nhưng trận đấu nhanh chóng tuột xa khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi. Busquets là trung tâm trong lối chơi của Barcelona. Những gì anh ta làm sẽ chẳng mấy khi được vào các clip highlight hay thu hút người xem trên YouTube, nhưng tôi luôn cảm thấy chúng thực sự đặc biệt. Mỗi khi Busquets bị áp sát, chỉ bằng một chạm thôi, anh ta sẽ đẩy được quả bóng tới vị trí khác và khiến áp lực tiêu tán. Cầu thủ chơi ở vị trí mỏ neo của Barcelona có một khả năng tài tình trong việc nắm bắt những gì đang xảy ra xung quanh anh ta. Và điều khiến cho Busquets trở nên thực sự đặc biệt là niềm tin của anh ta vào năng lực bản thân để có thể chơi theo cách đó - một chạm, chuyền, di chuyển, nhận lại bóng, chuyền và di chuyển. Busquets không mấy khi rê dắt, anh ta chạm bóng nhiều nhất cũng chỉ ba lần, nhưng anh ta chính là nhân tố quan trọng nhất để vòng quay của Barcelona cứ quay mãi mà không bị ngắt quãng. Anh ta khiến cho mọi thứ trở nên thật đơn giản.
Ngay cả khi sếp có những điều chỉnh trong giờ nghỉ, tung Tévez vào thay Anderson và kéo Giggsy xuống chơi bên cạnh tôi, chúng tôi vẫn không thể làm cách nào lấy được bóng trong chân Barcelona. Với phần lớn cầu thủ mà tôi từng đối mặt trong suốt cả sự nghiệp của mình, nếu tôi áp sát, họ sẽ chuyền bóng ra biên cho các hậu vệ cánh, hoặc chuyền vượt qua tôi lên phía trên cho trung phong của họ. Nhưng Iniesta và Xavi thì cứ chuyền bóng qua lại cho nhau mãi, có khi tới sáu hay bảy đường chuyền gì đó, như thể họ là những người sở hữu trái bóng và đang cùng nhau chơi trò của riêng họ vậy. Bởi vì các cầu thủ Barcelona luôn chơi rất gần nhau, nên khi một người mất bóng, họ luôn có ba hay bốn cầu thủ đứng ở gần khu vực đó để sẵn sàng đoạt lại. Trong những dịp hiếm hoi tôi có bóng, các cầu thủ Barcelona xúm vào quanh tôi như một đàn ong bắp cày; cùng một lúc, có năm hay sáu cầu thủ của họ ập vào gây sức ép với tôi. Đá với Barcelona thì đến thời gian thở cũng chả có. Họ kiểm soát hoàn toàn trận chung kết. Và khi trận đấu còn 20 phút, Messi bật cao đánh đầu ghi bàn. Mọi chuyện coi như khép lại.
Chưa bao giờ mà sau một trận đấu tôi cảm thấy tồi tệ đến thế. Tôi hoàn toàn suy sụp về mặt tinh thần, vừa thất vọng vừa tức giận với những gì tôi và cả đội bóng đã thể hiện. Chúng tôi đã không còn là chính mình ở Rome. Quãng thời gian chờ đợi để nhận những chiếc huy chương cho kẻ thất bại thật dài và đau đớn. Tôi chỉ muốn biến thật nhanh khỏi Stadio Olimpico. Chúng tôi đứng chẳng theo hàng lối gì cả. Sir Alex đứng đầu, sau tới Giggys, Scholesy và Wazza, trong khi tôi thì đứng cùng với Rio. Rio nói gì đó với tôi, nhưng tôi chẳng có tâm trạng nào mà nghe cả. Chúng tôi đã chơi ổn định một cách đáng kinh ngạc trong suốt hai năm qua, nhưng cuối cùng thì kỷ lục 25 trận bất bại ở Champions League đã bị chặn đứng theo cách không thể tồi tệ hơn, bởi một màn trình diễn không thể tệ hại hơn, ở Rome. Nỗi đau từ ngón chân bị rạn của tôi chẳng thấm vào đâu so với nỗi đau thất bại và thi đấu dưới sức. Tôi đứng đó như ngây dại, mắt nhìn vào khoảng không vô định, trong lòng ngổn ngang những câu hỏi tại sao? Tất cả những gì mà tôi đã làm trong trận đấu cứ lần lượt xuất hiện lại trong đầu như những thước phim quay chậm. Tôi tự giày vò bản thân mình, tâm trạng càng lúc càng trở nên tồi tệ, và cuối cùng rơi vào trạng thái trầm cảm.
Sau khi phải nhận chiếc huy chương mà bản thân chẳng muốn nhận, tôi nhanh nhanh chóng chóng rút về phòng thay đồ. Tôi không muốn nói chuyện với bất kỳ ai. Tôi quăng mình lên ghế, hai tay ôm lấy đầu. Sếp đương nhiên là giận dữ, ông quát mắng không trừ một cầu thủ nào. “Các anh tự nhìn lại mình đi, xem các anh có đủ khả năng chơi bóng ở trình độ này không,” ông nói. Quên Moscow đi. Chúng tôi là Manchester United, và ở đây, sự kỳ vọng là không có điểm dừng. “Các anh vừa để một cơ hội tuyệt vời trôi qua tay,” ông nói tiếp. Lời của sếp cũng chính là những gì mà tôi đang cảm thấy. Sau khi ông dừng lại, tôi không ngừng tự hỏi: Mình có đủ giỏi hay không?
Chúng tôi lầm lũi trở lại Piazza della Repubblica, ở đó người ta đã chuẩn bị một bữa tiệc cho tất cả các gia đình cũng như các nhân viên trong quầy bar trên sân thượng. Đó không thực sự là một bữa tiệc. Nó giống một đám tang hơn. Dù cho Lisa, mẹ, bố và Graeme đã nói đủ điều để kéo suy nghĩ của tôi ra xa trận đấu, tôi vẫn không thể nào ngừng nghĩ về trận chung kết. Tôi ngồi đó trong yên lặng. Chẳng có gì để nói cả. Khi đêm về khuya, hơi bia khiến cho tôi hoạt bát hơn chút xíu, nhưng khi thức dậy vào buổi sáng hôm sau, cơn đau đầu vẫn còn nguyên đó. Cảm giác như tôi vừa bị xe buýt tông phải vậy. Chưa bao giờ tinh thần của tôi xuống thấp đến thế.
Tôi rời khỏi Rome nhưng Rome không bao giờ chịu rời khỏi tôi. Trở về nhà, tôi ngồi một mình trong vườn và không nói chuyện với bất kỳ ai. Tôi không thể. Tôi đã hoàn toàn tê liệt. Một vài người bạn trong đó có Bradley, người cũng có mặt ở Rome, gọi điện hỏi thăm sau trận chung kết, nhưng tôi chẳng muốn nhắc gì tới trận đấu, tôi chẳng muốn nói về bất kỳ điều gì thì đúng hơn. Tôi ra vườn với Louise và cứ ngồi thừ ra đó trong khi con bé chơi quanh quẩn bên cạnh. Tôi hầu như không nhúc nhích. Tôi rút lui khỏi đội tuyển Anh trước trận đấu với Kazakhstan vì vấn đề với ngón chân cái. Fabio Capello vẫn yêu cầu tôi lên tập trung với toàn đội và sau đó chụp X-quang. Chỗ gãy nơi ngón cái của tôi vẫn còn nguyên. Capello không vui vì tôi không thông báo với ông trước trận chung kết. Và tất nhiên là Sir Alex cũng không cho tôi tiết lộ chấn thương của mình với bất kỳ ai, vì ông không tin là họ có thể giữ cho thông tin không bị lọt ra ngoài. Ông không muốn Barcelona biết rằng tôi đang có vấn đề. Capello khó chịu ra mặt. Tôi rời khỏi đại bản doanh của đội tuyển ngay trong ngày và lập tức phóng như bay về nhà.
Tôi chỉ muốn được ở một mình và chơi với Louise, có thể bởi vì con bé là người duy nhất không xem trận đấu và cũng còn quá nhỏ để có thể hiểu được chuyện gì vừa xảy ra. Mắt tôi vẫn quan sát Louise trong khi con bé bò quanh chân mình, nhưng đầu óc thì ở cách xa cả ngàn dặm, với duy nhất một câu hỏi: Tại sao? Tôi nghĩ về những đường chuyền của tôi ở Rome. Tôi đã thử tung ra ba hay bốn đường chuyền dài gì đó. Một đường chuyền chéo sân tốt, đưa bóng tới vị trí của Rooney trong hiệp một. Một đường khác cũng ổn, nhưng nảy lên hơi cao so với tầm khống chế của Ronaldo. Ngoài ra còn vài đường chuyền khác cho Ronaldo và Rooney bị thừa lực. Đường chuyền cho Ronnie chỉ hơi sai một tí xíu, nhưng trong những trận đấu như thế thì chỉ sai một ly cũng đủ đi một dặm. Rồi một suy nghĩ lóe lên: Phải chăng là vì ngón chân bị gãy? Không thể nào, đấy là một lời bào chữa vớ vẩn. Đàn ông một chút đi nào, Michael!
Đầu của tôi bị bủa vây bởi biết bao nhiêu câu hỏi, nhưng tôi không tìm được câu trả lời nào. Tôi cảm thấy cô đơn quá. Gia đình vẫn ủng hộ và yêu thương tôi vô điều kiện, nhưng không ai có thể giúp được gì cho tôi. Tôi phải tự mình chiến đấu để vượt qua những cơn trầm cảm trong suốt một thời gian dài. Tôi cũng nghĩ về Ronaldo. Rome chính là trận đấu cuối cùng của Ronnie cho chúng tôi. Số phận dường như đã định sẵn anh sẽ là người của Real Madrid từ rất lâu rồi. Nhưng sau đêm Moscow, anh vẫn ở lại. Dường như giữa anh và sếp đã có một thỏa thuận ngầm, kiểu “Hãy cho chúng tôi thêm một năm, và chúng tôi sẽ không cản đường của cậu nữa.” Trong cái năm “dôi ra” ấy, Ronnie tiếp tục thể hiện một phong độ khó tin, nên không ai mảy may nghĩ rằng anh vẫn đang có kế hoạch rời United. Cách mà Ronnie, sếp và cả câu lạc bộ xử lý tình huống cho thấy đẳng cấp. Manchester United giữ kín hoàn toàn thông tin Ronnie sẽ ra đi, và ngay cả tôi cũng chỉ có thể biết chắc chắn sau trận chung kết với Barcelona. Tôi cảm thấy tiếc nuối khi Ronnie ra đi, nhưng cũng như tất cả những thành viên khác của đội bóng, tôi trân trọng những gì Cristiano Ronaldo đã làm cho Manchester United. Vả lại, nơi anh đến là Real, một đội bóng vĩ đại, và đội bóng cũng thu được một khoản kha khá từ việc bán anh.
Sau khi Ronnie ra đi, sếp đề nghị tôi nhận lại số áo của anh. Ông gọi tôi và Michael Owen vào văn phòng. “Cậu có thể lấy số 7 nếu cậu thích,” ông nói với tôi. Số 7 là một số áo vĩ đại ở Manchester United. Best! Robbo! Cantona! Becks! Ronnie! Nếu bạn nhìn lại danh sách những cầu thủ từng mang trên người số áo này, bạn sẽ biết nó có ý nghĩa lớn lao thế nào. Nhưng cũng như với chiếc áo số 16 và mối liên hệ với Keane, tôi không bận tâm lắm tới chuyện áo xống. Rồi Owen nói, “Tôi sẽ nhận nó!”
“Cứ thế đi!” - tôi nói. Bóng đá là thế mà, đúng không? Chuyện gì cũng có thể trôi qua rất nhanh. Nhưng riêng chuyện ở Rome thì không.
Chúng tôi đi nghỉ ở Mallorca vài tuần, với hy vọng biển xanh cát trắng nắng vàng có thể giúp tôi hồi phục được thể lực sau một mùa giải dài và căng thẳng. Nhưng quan trọng hơn, chúng tôi hy vọng tôi có thể hồi phục được về mặt tinh thần sau cú sốc ở Rome. Louise lúc đó mới được 15 tháng tuổi và bắt đầu tập đi, nên tôi dành phần lớn thời gian trong ngày chơi trò đuổi bắt với con bé. Chỉ thế thôi mà cũng mệt nhoài đấy! Dù tôi dành phần lớn thời gian với Lou và Lisa, tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới vẫn lại là Rome. Tôi không cách nào xua nó đi được. Những lúc Lou ngủ, tôi lại nằm thừ ra đó như một kẻ mất hồn. Lisa kiên trì một cách đáng kinh ngạc. Cô ấy biết rõ là tôi đang vật vã khổ sở, nhưng chưa bao giờ bảo tôi phải làm thế này hay thế kia. Lisa để yên cho tôi tự chiến đấu với vấn đề của mình. Cả hai chúng tôi đều hy vọng rằng mùa giải mới sẽ giúp tôi thoát khỏi cơn trầm cảm.