• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tự truyện Michael Carrick - Giữa những lằn ranh
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 24
  • Sau

11Wembley

B

ị trầm cảm chỉ vì một trận bóng đá, nghe thật khó tin đúng không? Sự thật là tôi đã rơi vào một nơi cực kỳ tăm tối. So sánh bóng đá với cái chết nghe có vẻ là một sự cường điệu điên rồ, nhưng đúng đấy, tôi thực sự cảm thấy mình chết dần chết mòn sau khi trở về từ Rome. Chỉ mới sáu tháng trước đây thôi, chúng tôi còn đang được vinh danh là đội bóng xuất sắc nhất thế giới, thế mà lúc này đây, tôi lại đang tự hành hạ bản thân với những câu hỏi về lý do chúng tôi chỉ về nhì ở châu Âu. Tất cả những gì mà chúng tôi đã làm để tới được Rome với tôi lúc này chẳng có chút giá trị nào.

Tôi đang bay cao - ba chức vô địch Premier League, cùng một chức vô địch Champions League - thì đột nhiên rớt bịch xuống đất. Tôi yếu đuối, ngây thơ và đầy bất an tới mức bắt đầu nghĩ rằng, Những cầu thủ hàng đầu sẽ không để thua trong những trận chung kết Champions League. Nếu tôi mà hay đến thế thì tại sao chúng tôi lại thua? Khi nhìn lại mớ hỗn độn trong đầu óc tôi lúc đó, tôi thấy thật sự điên rồ, bởi vì dù thế nào thì Manchester United vẫn vô địch Premier League và giành Cúp Liên đoàn trong năm 2009. Thế nhưng với tôi, tất cả đều vô nghĩa. Rome đã hoàn toàn đánh bại tôi.

Tôi không bao giờ nhắc lại chuyện ở Rome với sếp. Tôi không thể, nó đau đớn quá. Ngay cả lúc này, sau gần một thập kỷ, Rome vẫn còn phủ một áng mây đen trong lòng tôi. Tôi trở lại chuẩn bị cho mùa giải, nhưng làm cách nào cũng không thể vượt qua được cơn trầm cảm. 2009-10 chính là mùa giải tệ hại nhất của tôi trong màu áo United. Tôi đã đánh mất sự sắc bén. Cả cái đầu lẫn con tim tôi lúc nào cũng trĩu nặng, nhưng cơ thể còn nặng nề hơn. Mọi chuyện trở nên thật khó khăn. Sir Alex để tôi ngồi trên khán đài trong trận đấu khai màn Premier League, trận thắng trước Birmingham. Nhưng trong trận đấu với Burnley sau đó, tôi được đá chính. Tôi đá hỏng một quả penalty, và chúng tôi để thua 0-1. Cảm giác như tôi đang trong một vết xe đổ, càng cố khởi động thì càng chết máy. Tôi đã cố hết sức, nhưng không thể nào tự lôi mình trở lại với cuộc sống được. Sự tự tin có tác động rất lớn tới phong độ của một vận động viên thể thao. Vấn đề là khi còn tự tin, ta không mấy khi để ý tới nó, chỉ đến khi sự tự tin mất đi, thì ta mới thấy chới với. Trong các trận đấu, tôi từ chỗ là một người sở hữu lối tư duy điềm tĩnh, mạch lạc và sắc bén tới chỗ suy nghĩ tù mù, chậm chạp và thiếu chắc chắn. Từ chỗ không cần nghĩ cũng nhìn ra giải pháp tối ưu tới chỗ nhìn thấy một lúc sáu lựa chọn và rồi chọn cái tệ nhất vào thời điểm cũng là tệ nhất. Tôi biết rằng tất cả vấn đề đều nằm ở cái đầu của mình, nhưng tôi cảm thấy không thể cầu viện sự giúp đỡ của bất kỳ ai, bởi lẽ tôi quá cứng đầu. Tôi không dễ dàng mở lòng với những người khác ngoài Lisa, Graeme, và bố mẹ. Tôi phải tự chống chọi với cơn trầm cảm của mình. Tôi cảm thấy như đang rơi vào một cái vòng luẩn quẩn: chơi tệ vì tâm trạng không tốt, và vì chơi tệ nên tâm trạng lại càng không tốt.

Liệu tôi có thể thông qua bóng đá tìm ra một con đường thoát khỏi cơn trầm cảm này không? Sếp bố trí tôi trong đội hình xuất phát ở trận đấu với Beşiktaş ở Champions League vào tháng 9. Tôi vừa cảm thấy biết ơn sếp vừa thấy phấn khích, bởi vì Inönü là sân bóng duy nhất trong số những sân bóng mà tôi từng tới có thể đọ được với Celtic Park về độ náo nhiệt. Trải nghiệm này sẽ kéo tôi trở lại với chính mình những ngày trước khi tới Rome? Vào tới sân Inönü rồi, tôi chỉ sợ nó sập. Các cổ động viên của Beşiktaş đang nhảy như điên trên các khán đài, khiến chúng rung lắc dữ dội. Họ cố gắng hù dọa chúng tôi, theo cách mà cổ động viên ở những nước như Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thường làm. Cổ động viên của Beşiktaş đu người ngay trên đường hầm, đe dọa sẽ lấy mạng chúng tôi. Đáp lại, tôi chỉ cười, khiến cho họ lại càng sôi tiết hơn. Tôi thích thế. Thật tuyệt vời khi được chơi bóng trong bầu không khí như vậy. Có thể là tôi đã tìm lại được sự tự tin. Nhưng cũng có thể là không. Tôi bị thay ra chỉ sau một giờ ở Istanbul, và sau đó không ngừng đánh đu giữa đội hình chính và đội hình dự bị cho tới tận tháng 10. Tôi lại rơi vào một chốn cô đơn mới. Tôi nỗ lực tập luyện, cố gắng thể hiện hết sức có thể, tìm lại cảm giác chơi bóng mà mình đã đánh mất, nhưng khi vào trận lại chơi không ra gì và bị loại khỏi đội hình chính ở trận tiếp theo, rồi lại lao vào tập luyện, và cầu nguyện buổi tập sắp tới sẽ là bước ngoặt. Nhìn vào những đồng đội dường như chẳng bao giờ bận tâm tới việc thế giới đang có chuyện gì, và có lẽ nhờ thế mà vẫn tiếp tục chơi tốt, tôi cảm thấy ghen tị. Tới bao giờ thì mình có thể làm được như thế?

Khi đã bước vào sân, những vấn đề của tôi bị phơi bày ra hết. Có những lúc, khi cảm thấy mọi chuyện không ổn, tôi thường chọn giải pháp chơi bóng an toàn. Trở lại với những thứ cơ bản là cách để tôi thoát ra khỏi những rắc rối. Kế hoạch luôn là nỗ lực hết sức và phòng ngự tốt nhất có thể. Sau khi Gary Neville và Wes Browm dính chấn thương trong trận đấu với West Ham vào tháng 12, tôi bất đắc dĩ phải xuống chơi ở vị trí trung vệ. Trước chuyến làm khách ở Wolsburg ba ngày sau trận đấu đó, Sir Alex mất tới tám hậu vệ, nên tôi có thể đoán được điều gì sắp sửa diễn ra. Tôi xem đó là một cơ hội mà mình phải nắm lấy. Thách thức hoàn toàn mới mẻ này chính ra lại khiến cho tinh thần của tôi được cởi trói đôi chút. Cả tôi, Darren Fletcher lẫn Pat Evra đều không phải là trung vệ xịn, nhưng chúng tôi vẫn hợp thành một bộ ba trung vệ không đến nỗi nào. Trận đấu thực sự khó khăn, tôi phải đối mặt với Edin Džeko và trải qua không ít tình huống bối rối. Tôi phạm lỗi với tiền vệ của họ, Makoto Hasebe, từ phía sau - một quả penalty rõ ràng - nhưng trọng tài Björn Kuipers không cắt còi và thế là tôi thoát nạn. Chúng tôi giành chiến thắng với hat-trick của Michael Owen - một kết quả ngoài sức tưởng tượng, giúp chúng tôi có được vị trí nhất bảng và cuộc sống có vẻ lại trở nên tươi đẹp.

Trận tiếp theo là trên sân của Fulham. Vì những người khác vẫn chưa kịp bình phục, nên tôi, Fletch và Ritchie De Laet cùng nhau chơi ở hàng hậu vệ. Chúng tôi buộc phải sử dụng sơ đồ ba hậu vệ, bởi vì cả ba chúng tôi đều là những trung vệ không chuyên, do vậy cần có thêm một người nữa cho an toàn. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Người đá trung phong cho Fulham là Bobby Zamora đã chủ động tấn công vào vị trí của Ritchie, hậu vệ trẻ đá trung vệ lệch trái. Bobby rất khỏe và thông minh, nên bạn có thể đoán được điều gì sẽ xảy ra. Trận đấu trở thành một thảm họa, kết thúc với thất bại 0-3 cho chúng tôi. Sếp nói vài điều tích cực về màn trình diễn của tôi, nhưng tôi biết là ông phải làm thế bởi vì ông sẽ còn phải dùng tôi ở vị trí trung vệ do chúng tôi vẫn đang thiếu hậu vệ trầm trọng. Trong vài mùa giải tiếp theo, luôn có những giai đoạn tôi được xếp đá trung vệ, tôi cảm thấy không có vấn đề gì, thậm chí còn thích chơi ở đó là đằng khác. So với khi chơi ở hàng tiền vệ thì đá trung vệ đỡ mệt hơn do không phải chạy nhiều bằng. Tuy nhiên, tôi luôn cảm thấy mình dễ tổn thương hơn, bởi phía sau tôi chẳng còn tấm lưới an toàn nào. Nếu tôi bị đặt vào thế một đối một hay nếu bóng được chuyền dọc khe, cả trận đấu bỗng chốc thu gọn lại thành màn đua tốc độ giữa tôi với trung phong của đối thủ. Tôi từng để Yakubu vượt qua và ghi bàn khi chơi ở vị trí trung vệ trong trận đấu với Blackburn ở Old Trafford vào năm 2011. Ở Goodison trong mùa giải tiếp theo, tới lượt Marouane Fellaini hành hạ tôi. Trong một tình huống phạt góc, tôi được cắt cử theo kèm anh ta. Tôi đã cố gắng theo thật sát, nhưng anh ta vẫn bật lên quá cao so với tôi, và Everton thắng trận đấu với tỷ số 1-0. Đó thực sự là một trải nghiệm hãi hùng. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện mình sẽ chơi hậu vệ một ngày nào đó, dù cho Mick Phelan từng gợi ý điều này với tôi. Sau trận đấu mà chúng tôi vùi dập Wigan 5-0 ở Old Trafford vào năm 2011, Mick nói với tôi khi đang đi vào đường hầm: “Chúc mừng cậu vừa tìm cho mình được một sự nghiệp mới. Cậu đá hậu vệ trông nhẹ nhàng ghê.” Không có chuyện đó đâu, Mick, cảm ơn!

Trở lại với thời điểm cuối 2009 gần bước sang 2010. Tôi vẫn chưa thể nào cất mình lên được, ngay cả khi đã cố chạy trốn khỏi bóng đá trong một thời gian. Tôi tệ hại tới mức thậm chí còn phải nhận thẻ đỏ trong trận đấu với AC Milan, chiếc thẻ đỏ đầu tiên của tôi sau 174 trận trong màu áo United. Hồ sơ kỷ luật của tôi khá tốt, tôi chỉ phải nhận có 11 thẻ vàng trong các trận đấu với United trước chuyến làm khách ở San Siro. Tôi sẽ không bao giờ quên được cái đêm 16 tháng 2 năm 2010 đó, không chỉ vì chiếc thẻ đỏ. Cả hai câu lạc bộ đều có bề dày lịch sử, và ta có thể dễ dàng cảm nhận được điều đó khi tới San Siro. Đấy là một sân bóng rất thù địch, lúc nào cũng ồn ào và kích động, với đủ những tiếng huýt sáo và la ó. Thế mới tuyệt! Milan lúc đó sở hữu một đội hình chất lượng kinh khủng, với toàn những tên tuổi lớn. Họ có Ronaldinho, Andrea Pirlo và David Beckham, ngoài ra còn có Alexandre Pato và Massimo Ambrosini. Khi cú sút của Ronaldinho đập chân tôi bay vào lưới, tôi đã nghĩ rằng đêm nay sẽ là một đêm rất dài. Ronaldinho đã không còn ở thời đỉnh cao, nhưng vẫn là một cầu thủ khó tin, lúc nào cũng có thể khiến ta ngỡ ngàng với bộ kỹ xảo dường như vô tận của mình. Tôi luôn nghĩ rằng Ronaldinho là chúa tể của những điều bất ngờ, và những cầu thủ như anh chính là kiểu đối thủ khó nhằn nhất. Bởi vì cứ bị ám ảnh bởi việc Ronaldinho sẽ làm một cái gì đó ngoài khả năng dự đoán của mình, nên tôi cứ đứng đực ra đấy, không biết là nên giữ vị trí hay áp sát. Cuối cùng, tôi “ủy quyền” cho Rafael da Silva xử lý Ronaldinho! Rafael chính là mẫu hậu vệ cánh hoàn hảo để đối đầu với Ronaldinho. Trọng tâm của cậu ta thấp, nên cậu ta có thể chuyển hướng một cách dễ dàng. Ngoài ra, Rafael còn là mẫu cầu thủ chơi bóng đầy cảm xúc. Cậu ta lúc nào cũng chơi bóng với tất cả trái tim, rất quyết liệt nhưng là quyết liệt theo kiểu tích cực. Tóm lại, Rafael là mẫu hậu vệ cánh United điển hình, lúc nào cũng sẵn sàng cho những cú tắc.

Nói là “ủy quyền” cho Rafael nhưng tôi vẫn luôn để mắt hỗ trợ cậu ta xử lý Ronaldinho, và thẻ vàng đầu tiên của tôi chính là vì một pha phạm lỗi với anh. Nhưng thẻ vàng thứ hai thì thực sự không cần thiết. Lúc đó, trận đấu đang trôi về cuối và chúng tôi đang dẫn trước 3-2. Evra phạm lỗi với Pato, trái bóng lăn về phía tôi. Tôi không có ý phá quả bóng đi, chỉ đá nó về phía Evra, nhưng trọng tài Olegário Benquerença vẫn tặng cho tôi thêm một thẻ nữa. Tôi không thể tin nổi vào mắt mình, nhất là khi đó là thời điểm mà trận đấu chỉ còn khoảng 60 giây nữa là kết thúc. Tôi cảm thấy xấu hổ, khó chịu, và có một chút sốc. Tôi cúi gằm mặt rời sân, không dám ngẩng lên nhìn sếp. Quyết định của trọng tài là quá nhỏ nhặt. Nhưng dù sao thì tôi cũng không nên làm thế. Sir Alex không nói với tôi câu nào về chuyện đó. Có thể vì sếp cũng biết rằng tôi không phải là mẫu cầu thủ hay phải nhận thẻ. Mỗi khi chúng tôi vi phạm kỷ luật của đội, sẽ có người thả vào tủ đựng đồ của chúng tôi một bức thư trong đó ghi rõ số tiền phạt mà chúng tôi phải nộp là bao nhiêu. Sau trận đấu ở San Siro, tôi đã chờ và chờ mãi, nhưng bức thư ấy không bao giờ xuất hiện, và đương nhiên là tôi cũng chẳng dại gì có ý kiến.

Tôi thích nghĩ rằng mình là một cầu thủ đá sạch. Khi còn nhỏ tôi chưa bao giờ phải nhận thẻ đỏ. Trong 20 năm chơi bóng chuyên nghiệp, tôi cũng chưa ăn vạ một lần nào. Tất nhiên là có nhiều lúc tôi phải nhảy tránh những cú tắc, nhưng chuyện đó khác hẳn, vì lúc đó mà tôi không rụt chân cho nhanh thì chắc chắn sẽ bị đau. Thoạt nhìn thì hành động ấy trông giống như một pha ngã vờ, nhưng thực tế đấy chỉ là một hành động tự bảo vệ mình. Tôi cũng có thể chủ động ngã để kiếm về cho đội bóng những quả đá phạt trực tiếp, nhưng chưa bao giờ tôi lăn lộn trên sân cố tỏ ra đau đớn. Tôi cũng không bao giờ ngã xuống nếu không có ai chạm vào người. Nếu bị ai đó đốn, tôi sẽ nằm trên sân thêm vài giây, nhưng sẽ không có cái kiểu quằn quại đau đớn. Tôi không tài nào hiểu nổi tại sao có những người không đau tí nào mà vẫn cứ cố tỏ ra đau đớn. Thái độ tẩy chay thói ăn vạ của tôi xuất phát từ những năm tháng chơi bóng ở Wallsend Boys Club, ở đó, những hành động lăn lộn trên sân không bao giờ được chấp nhận. Cái chất Boyza trong tôi thường trỗi dậy và khiến tôi thấy khó chịu khi phải chứng kiến cảnh các cầu thủ khác ôm mặt ôm chân lăn lộn trên sân dù chẳng bị ai chạm vào. Điều đáng buồn là ngày nay có rất nhiều cầu thủ làm điều đó. Dẫu vậy, tôi cũng biết là mình phải cẩn trọng khi chỉ trích thói ăn vạ, bởi vì với nhiều cầu thủ thì nó là vấn đề văn hóa. Họ xem đó là một kỹ năng để đánh lừa trọng tài, một kiểu nghệ thuật, đặc biệt là với những cầu thủ tới từ các nước Nam Mỹ. Nếu những đội bóng chơi theo kiểu đường phố vẫn cứ thắng thì ai dám nói rằng ăn vạ là sai? Ăn vạ khiến cho hình ảnh của bóng đá trở nên xấu xí đi, nhưng với họ thì chơi bóng là để thắng, chứ không phải là để làm cho bóng đá trở nên đẹp đẽ hơn.

Riêng tôi thì tôi sẽ không bao giờ làm điều đó, tôi thà tập trung tâm trí để làm tốt nhiệm vụ chính của mình còn hơn. Nhưng tôi sẵn sàng phạm lỗi chiến thuật. Đó là khi chủ ý phạm lỗi để ngăn chặn một pha phản công từ sớm, biết rằng nếu chậm hơn một chút và để cho đối phương tiến được gần hơn khoảng 10m về phía khung thành của mình, thì tôi chắc chắn sẽ phải nhận thẻ vàng. Tôi cũng câu giờ bằng cách cố tình đi nhặt bóng một cách rề rà, hay gạt quả bóng ra xa tầm chân của một cầu thủ nào đó. Cũng có những lúc, tôi ngã xuống như một phản xạ có điều kiện khi bị đối thủ chạm vào chứ không phải vì đau đớn. Tuy nhiên, sẽ không bao giờ có chuyện lăn lộn hay cần tới sự trợ giúp của các bác sĩ nếu thực sự không có vấn đề gì. Trừ khi đau thật, tôi không thích, thậm chí ghét phải nhờ tới bác sĩ. Một kiểu kiêu hãnh, tôi đoán thế. Ý tôi là, ngay cả khi chúng ta bị phạm lỗi thật và bị đau thật, thì các bác sĩ có vào sân hay không cũng đâu có giải quyết được vấn đề gì. Trong trận đấu với Roma ở Old Trafford vào mùa giải Moscow, tôi bị vỡ khuỷu tay bên phải do bị cầu thủ người Brazil Mancini ngã đè lên. Lúc đó tôi rất đau, nhưng vẫn tiếp tục chơi như thường và có thể trụ lại cho tới hết trận. Thực tế thì tôi cũng chẳng biết mình làm sao mà làm được thế. Chỉ biết là lúc nào tôi cũng phải co tay lại, bởi vì nếu mà cố duỗi ra thì sẽ đau đớn kinh khủng. Sau vụ đó tôi phải nghỉ một tháng. Ngay cả tới bây giờ tôi cũng vẫn chưa duỗi được hết tay. Tôi không cố tự tô vẽ mình như một người hùng. Thực tế thì tôi chỉ nghĩ rằng, Nếu mình có thể tiếp tục, thì có nhất thiết phải rời sân hay không? Nếu ta vẫn có thể đứng dậy được và tiếp tục chiến đấu cho đội bóng, thì cứ thế mà làm thôi. Tôi nhớ hồi còn bé từng nghĩ là bọt biển có ma thuật. Mỗi khi có người bị đau, ai đó sẽ chạy vào sân với một xô nước trong nhúng một miếng bọt biển, xoa xoa một cái vào chỗ đau, và thế là ta có thể bật dậy ngay như thể có phép màu vậy. Phép màu nào, chỉ là nước lạnh thôi! Ngày nay, nhất là ở châu Âu, các bác sĩ cũng sẽ chạy vào sân và lôi ra những bình xịt nhiệm màu. Cái thứ đó thì làm được quái gì? Bạn biết là cơn đau đằng nào cũng sẽ qua đi mà!

Dù sao thì ở Milan tôi cũng đã phải nhận chiếc thẻ đỏ duy nhất. Mười hai ngày sau trận đấu ở San Siro, chúng tôi chuẩn bị cho trận chung kết Cúp Liên đoàn với Aston Villa. Sir Alex không quên việc ông từng cho một số cầu thủ nghỉ ngơi trong trận chung kết năm trước, nên trong buổi tập, ông đi một vòng và hỏi từng người: “Trận chung kết năm ngoái cậu có chơi không nhỉ?” “Không, tôi không được ra sân sếp ạ,” tôi trả lời. “Sếp bắt tôi nghỉ. Thật là một bê bối lớn!” Tôi nói và phá ra cười. Sếp gật gù, “Ok, thế hả, thế thì trận này cậu sẽ đá.” Đó có thể gọi là xoay vòng trên quy mô lớn, sau những mười hai tháng cơ mà. Nhưng dù sao thì tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết rằng mình sẽ có thêm một cơ hội chiến đấu cho một danh hiệu khác. Tôi phải thú nhận rằng chúng tôi đã gặp may khi được trọng tài Phil Dowd nương tay ở đầu trận. Các cầu thủ Villa tỏ ra hết sức giận dữ sau khi Vida không phải nhận thẻ đỏ vì lỗi kéo ngã Gabby Agbonlahor trong vòng cấm khi phía trước Gabby chỉ còn mỗi thủ môn. Đó là một lỗi phải nhận thẻ đỏ, không có gì phải nghi ngờ. James Milner ghi bàn từ chấm 11m, nhưng cũng như trong các trận đấu khác, khi chúng tôi bị dẫn 1-0, thậm chí là 2-0, tôi chỉ nghĩ là Chúng ta vẫn có thể thắng trận này. Owen ghi bàn, nhưng sau đó dính phải một chấn thương gân khoeo. Anh chưa bao giờ gặp may với những cái gân khoeo của mình, nhưng thực sự là một sát thủ trước khung thành. Rooney vào sân thay người và đánh đầu ghi bàn quyết định. Trong cả trận đấu, tôi cảm thấy hết sức thoải mái. Mây đen đang tan biến. Nhưng đó chỉ là tôi nghĩ thế.

Tâm trạng tích cực của tôi nhanh chóng biến mất, và tôi lại vật vã tìm đường thoát ra khỏi sự u ám. Tôi có cảm giác như là mình đang cố chạy lên một ngọn núi, nhưng lần nào cũng bị trượt xuống. Sau đó chúng tôi tới Molineux và giành chiến thắng, nhưng tôi không còn là mình. Chơi bóng thôi mà khổ quá! Tôi hy vọng chuyến làm khách tại Munich ở tứ kết Champions League sẽ giúp tôi thoát ra khỏi tình trạng tệ hại này. Tôi là một fan lớn của Allianz. Đó là một sân bóng đúng kiểu, chật, khép kín, với một bầu không khí tuyệt vời. Tôi cầu nguyện, hy vọng rằng sân bóng ấy sẽ là bệ phóng để tôi tìm lại được chính mình. Bayern lúc đó là đội bóng của Louis van Gaal, và họ chơi đúng theo kiểu một đội bóng của Van Gaal điển hình - đầy toan tính, với những pha di chuyển phức tạp và tất cả luôn đồng bộ. Bayern sở hữu một hàng tấn công nguy hiểm với Thomas Müller chơi ngay phía sau Ivica Olić. Müller di chuyển rất thông minh, thường xuyên chọn được vị trí tốt ngay sau lưng tôi. Tôi không ngừng bị kéo xuống rất sâu. Chúng tôi vượt lên dẫn trước từ sớm sau một cú volley của Wazza. Nhưng tôi thì vẫn dở tệ như thế. Tôi không tìm được nhịp chơi bóng, và bị sếp thay ra khi trận đấu còn 20 phút. Franck Ribery và Olić thay nhau ghi bàn giúp Bayern lật ngược thế cờ. Nhưng hai bàn thua ấy không liên quan gì tới tôi vì lúc đó tôi đã rời sân rồi. Tôi chưa suy sụp tới mức tự trách mình vì trận thua ấy.

Tám ngày sau đó, chúng tôi gặp lại Bayern ở Old Trafford. Sếp làm cho tinh thần cả bọn lên cao chót vót. Một trong những câu chuyện đầu tiên mà tôi nói với Bastian Schweinsteiger khi anh gia nhập United từ Bayern vào năm 2015 là về trận lượt về năm đó. “25 phút đầu tiên ấy thật kinh khủng!” Basti nói. “Chúng tôi chẳng biết phải làm gì.” Cú sút xa của Darron Gibson và pha đánh gót của Nani giúp chúng tôi nhanh chóng nắm được quyền kiểm soát. Từ đó về sau chỉ có áp lực, áp lực, áp lực và thêm áp lực. Chúng tôi chỉ biết lao về phía trước, chuyền về phía trước. Giống hệt những gì đã xảy ra trước Roma. Nani nâng tỷ số lên 3-0, và tôi nghĩ: Tuyệt, chúng ta đã trở về nơi mà chúng ta xứng đáng thuộc về. Vòng bán kết đã ở rất gần. Từ chỗ cảm thấy như cả người đang đeo chì, tôi bỗng thấy thanh thoát và nhẹ nhõm lạ kỳ. Đám mây đen dường như đã tan biến hết. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang. Tôi nhanh chóng rơi trở lại cái vòng luẩn quẩn của chính mình. Tắt máy - khởi động - tắt máy. Trong hiệp một, tôi cụng đầu với Basti trong một tình huống phạt góc. Tôi chạm được bóng trước, Basti vào chậm một nhịp và húc vào cạnh đầu tôi, khiến nó u lên một cục. Ngay trước giờ nghỉ, tôi tự nhiên bị nhiệt tình thái quá, lao cả vào vị trí của các trung vệ. Tới giờ tôi vẫn tự trách mình vì đã để bị cuốn vào khu vực giữa Rio và Vida khi cố gắng đeo bám Olić sau một quả đánh đầu chuyền bóng của Müller. Khi bóng bay qua đầu tôi, Olić đã giẫm vào gót chân của tôi và khiến cho giày bị tuột ra. Như thể thế vẫn chưa đủ để được xem là một pha phạm lỗi, anh ta còn xô ngang người tôi, khiến tôi ngã dúi dụi. Người ngoài nhìn vào ai cũng nói là Olić đã thoát khỏi tôi một cách quá dễ dàng, rằng tôi đã phòng ngự quá hời hợt, nhưng đó là pha bóng trọng tài Nicola Rizzoli nên cắt còi phạt Olić. Tới tận bây giờ tôi vẫn khẳng định đó 100% là một pha phạm lỗi. Sau khi Olić đưa bóng vào lưới, Edwin ném về phía tôi một ánh nhìn vẻ trách móc, và thế là tôi như cảm thấy mây đen lại ùn ùn kéo về. Bayern đã tìm được một con đường sống. Sau đó, chúng tôi lại còn mất Rafael vì nhận thẻ vàng thứ hai, một chiếc thẻ vàng ngu ngốc, sau một lỗi với Franck Ribéry; trước đó, cậu ta đã phải nhận thẻ sau lỗi với Mark van Bommel. Bayern dồn toàn lực tấn công, chúng tôi dồn toàn lực phòng ngự. Bayern được hưởng một quả phạt góc, người thực hiện là Ribéry. Vì chỉ còn mười người, chúng tôi chỉ có thể bố trí một người ở khu vực rìa vòng cấm để đối phó với hai người của họ. Fletch bị mắc kẹt giữa Basti và Robben. Những chi tiết cỏn con như thế lại chính là những chi tiết có thể quyết định cả trận đấu. Robben là người ở xa khung thành nhất, nên dù vẫn để mắt tới anh ta, tôi ưu tiên cho việc theo sát Olić trong vòng cấm hơn. Ngay khi nhận ra bóng từ chân Ribéry không hướng tới vị trí của Olić, tôi lập tức lao về phía Robben. Tôi quăng cả người về phía trước anh ta, nhưng đã quá muộn, anh ta đã chạm được vào bóng. Khi xoay người lại, tôi chỉ có thể thấy trái bóng bay qua tầm với của Edwin. Đó là một cú volley hoàn hảo. Robben chỉ có thể đưa trái bóng vào một điểm, và anh ta đã đưa được trái bóng vào đúng điểm đó. Tỷ số là 3-2, và chúng tôi bị loại khỏi Champions League vì luật bàn thắng sân khách. Thoạt nhìn, lại thoạt nhìn, ai cũng nghĩ tôi là người có trách nhiệm kèm Robben. Nhưng có phải vậy đâu. Còn có thể có chuyện gì tệ hơn được nữa không? Ồ, có đấy. Sau trận, tôi bị đau mắt và bỏ lỡ trận đấu với Blackburn. Chúng tôi hòa 0-0 và để mình bị tụt lại trong cuộc đua vô địch Premier League. Tôi lại chìm sâu nữa.

Trong tất cả những mùa giải đã qua của tôi ở United, sếp luôn để tôi đá chính trong những trận đấu lớn và có ý nghĩa quan trọng. Nhưng bây giờ thì không như thế nữa. Trong bốn trận đấu cuối cùng của mùa giải, tôi bị tống lên băng ghế dự bị. Đầu óc tôi quay cuồng. Chúng tôi để mất chức vô địch Premier League vì kém đối phương một điểm. Điều đó thật đau đớn làm sao. Càng đau đớn hơn khi chúng tôi đã có thể vô địch bốn năm liên tiếp, điều chưa từng xảy ra trong lịch sử Premier League. Tất cả mọi người đều bị suy sụp, và tôi là người suy sụp nhất. Bởi vì tôi sợ rằng tất cả những gì mà tôi đã làm để tạo được cho mình một vị thế như mong muốn ở đội bóng mà tôi yêu quý đã bị vứt xuống sông xuống biển. Sir Alex gần như không nói với tôi câu nào trong giai đoạn cuối mùa. Tôi cảm thấy mình thật mong manh. Không còn được ra sân, tôi bắt đầu nghĩ khôn nghĩ dại, Hay là huấn luyện viên đã để mắt tới một kẻ nào đó khác? Tôi đã sẵn sàng tâm lý sẽ bị gọi lên văn phòng của sếp bất kỳ lúc nào để nhận được thông báo rằng Manchester United đã chấp nhận một lời đề nghị dành cho tôi. Tôi chỉ còn hai năm nữa trong hợp đồng, và sẽ không thấy lạ nếu sếp bảo với tôi rằng, “Tôi sẽ để cho cậu ra đi.” Sau khi đã trải qua ba năm tuyệt vời ở đây, suy nghĩ đột nhiên bị tống cổ để nhường chỗ cho một kẻ nào đó khác khiến tôi cảm thấy đau đớn. Tôi không chịu đựng nổi ý nghĩ phải rời Manchester United - nơi đây là nhà tôi, là tình yêu của tôi, là cơn nghiện của tôi. Tôi biết rõ việc những cầu thủ không còn đáp ứng được yêu cầu của Manchester United đều bị gạt ra đường. Và tôi tin là họ đáng bị như vậy. Nên tôi đã nghĩ tới điều tồi tệ nhất. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy cuộc sống của tôi.

Đó là mặt tối của việc là một cầu thủ bóng đá. Ngay cả những cầu thủ giỏi nhất cũng có lúc bị mất tự tin, thiếu sự sắc bén, và cảm thấy mệt mỏi. Đó là vấn đề sức mạnh tinh thần. Ở thời điểm ấy, tôi cảm thấy mình thật mong manh và dễ tổn thương. Chơi bóng ở United, bạn càng không thể chạy trốn. Ngoài chuyện áp lực và sự kỳ vọng từ câu lạc bộ, còn là chuyện của lòng tự tôn, khát khao thể hiện và nỗi sợ hãi thất bại từ chính bản thân mình. Trong suốt thời gian gắn bó với United, tôi luôn gặp khó khăn trong việc thả lỏng sau mỗi trận đấu. Tôi thường nằm thao láo trên giường cho tới tận 4 hay 5 giờ sáng, người vẫn nóng bừng dù trận đấu đã kết thúc được nhiều giờ. Trước trận đấu, khi ngồi trong phòng thay đồ, tôi thường cảm thấy lạnh, gần như là bị cảm lạnh vậy. Giống như cơ thể tôi đang tự chuẩn bị cho trận đấu ở phía trước, bởi vì nó biết rằng trận chiến đang chờ đợi tôi sẽ rất nóng. Tự tôi cũng thấy kỳ lạ. Sau khi trận đấu kết thúc, tôi sẽ đi tắm nước đá, nhưng việc đó không khiến cho sức nóng từ trận chiến dịu đi được chút nào. Tôi có thể xem ti vi tới khuya sau một trận đấu, nhưng mỗi lần như thế người lại như sôi lên. Những khi không ngủ được, tôi thường mò sang căn phòng để không, đôi khi còn chui vào phòng của bọn trẻ, lúc 3 giờ sáng! Những lúc khác, tôi sẽ ngồi lì trước ti vi, hy vọng là sẽ ngủ được luôn trên ghế sofa. Cũng có lúc phải dùng đến thuốc ngủ, nhưng tôi thực sự không thích cảm giác lờ đờ trong ngày tiếp theo.

Tôi đọc được một bài báo trên tờ Daily Express vào tháng 1 năm 2018, trong đó Jonny Wilkinson (một huyền thoại rugby người Anh) trải lòng về những vấn đề tâm lý mà anh từng phải trải qua. Bài báo đó khẳng định một lần nữa rằng một cầu thủ tự tin tới mức nào thì cũng có những thời điểm, nhiều là đằng khác, trở nên mong manh và dễ tổn thương. Để chơi được ở vị trí kicker (cầu thủ sút bóng) trong môn bóng bầu dục, thường thì bạn phải rất mạnh mẽ về tinh thần. Tôi luôn ngưỡng mộ những kicker như Jonny, Owen Farrell và Dan Carter, những người gánh vác hy vọng của cả đội bóng trên vai. Tôi vốn luôn đánh giá Jonny là một trong những cầu thủ mạnh mẽ nhất, thế nên khi đọc được những chia sẻ của anh về việc anh từng bị chứng căng thẳng hành hạ, tôi lập tức cảm thấy đồng cảm. Tôi thấy mình cũng thế. Tôi cũng tự nghi ngờ bản thân. Đôi khi tôi phải tự chiến đấu với chính mình nhằm duy trì được một trạng thái tâm lý phù hợp để có thể tiếp tục chơi bóng ở trình độ cao nhất. Tôi phải không ngừng thuyết phục bản thân trở nên tích cực. Tôi phải không ngừng nói với chính mình rằng tôi đã chuẩn bị tốt hơn tất cả những đội khác, rằng tôi đã hy sinh nhiều hơn tất cả bọn họ. Nhưng đâu phải cứ nói là làm được. Sau này, khi nói chuyện với bạn bè và gia đình về giai đoạn đen tối nhất trong cuộc đời mình, tôi nhận thấy rằng không phải ai cũng nhìn ra được những khó khăn mà tôi đã phải trải qua. Cũng như bố, tôi luôn giữ kín cảm xúc. Tôi buộc chặt những cơn giận dữ lại.

Riêng Lisa biết rõ tôi đã ở trong một tình trạng tồi tệ đến thế nào, nhất là trong thời gian diễn ra World Cup 2010. Ở Nam Phi, tôi đã trầm cảm thì chớ lại còn nhớ nhà. Đấy là giai đoạn tôi đạt tới đỉnh cao về mặt thể chất, nhưng về mặt tinh thần thì tôi như một phế nhân. “Anh về đây, anh chịu hết nổi rồi,” tôi nói với Lisa. Lisa biết tôi đang khổ sở lắm, nhưng chính cô lúc ấy cũng đang trải qua một giai đoạn khó khăn do vừa sinh em Jacey xong. Sau khi sinh Louise, Lisa bắt đầu mắc chứng đau lưng, và sau khi có Jacey thì những cơn đau ấy càng trở nên trầm trọng hơn, nên tôi cảm thấy thật tội lỗi khi đi khóc lóc, rên rỉ với cô ấy. Jacey vừa chào đời, nhưng trong khi đáng ra phải cảm thấy cực kỳ hạnh phúc vì có con trai, thì tôi lại rối như tơ vò. 2010 là thời điểm tinh thần tôi xuống thấp tới mức tôi thường tự hỏi Liệu mình có còn muốn tiếp tục điều này nữa hay không? Tinh thần tôi xuống quá, tôi bị trầm cảm nặng quá, tới mức chẳng còn tha thiết gì bóng banh nữa. Cơn trầm cảm của tôi trở nên nặng hơn sau mùa hè 2010, và tới mùa giải tiếp theo thì tôi lãnh đủ. Sau khi trở về từ World Cup, tôi vừa lái xe tới Carrington vừa tự nói đi nói lại với chính mình, “Hôm nay mình không muốn đá bóng. Mình không muốn đi tập. Mình ước gì mình có thể làm một cái gì đó khác.” Sau khi chờ đèn đỏ ở Carrington Lane, và trong lúc bắt đầu rẽ vào đường Isherwood Lane dẫn tới sân tập, tôi lại suy nghĩ theo hướng khác. Chờ một phút nào. Mình đang có mặt ở đội bóng xuất sắc nhất thế giới, làm đồng đội của vài trong số những cầu thủ hay nhất thế giới, là học trò của huấn luyện viên vĩ đại nhất trên thế giới, và được làm tất cả những gì mà mình từng mơ ước. Mình có một người vợ và hai đứa con tuyệt vời, mỗi ngày ở nhà là một ngày tràn ngập niềm vui. Rồi tôi tự hỏi, Mình bị trầm cảm vì cái quái gì vậy? Hỏi thì hỏi thế thôi, chứ tôi vẫn chẳng còn chút hứng thú nào với bóng đá nữa. Tôi ước gì có thể quay trở lại những ngày thơ bé, khi tình yêu bóng đá trong tôi vẫn hoàn toàn thuần chất, như những khi tôi chơi bóng trong vườn nhà ở Howdon, những khi tập luyện và thi đấu ở Boyza, hay khi tới St James’ Park xem bóng đá. Giờ thì tôi chỉ thấy trống rỗng. Nếu sự nghiệp của tôi khép lại vào năm 2010 đó thì tôi có lẽ cũng chẳng thấy phiền lòng. Tôi tự hỏi mình mỗi ngày, và mỗi ngày tôi lại nhận được một câu trả lời, rằng tôi chịu hết nổi rồi. Tôi muốn tinh thần của tôi trở lại. Tôi muốn cuộc sống của tôi trở lại. Tôi đã trải qua 15 năm sống xa nhà, lúc nào cũng phải vận động, lúc nào cũng phải chịu áp lực, nhưng chưa bao giờ cảm thấy mình suy sụp đến thế này.

Chấn thương gót Achilles càng khiến cho tâm trạng của tôi thêm tồi tệ. Và tôi sẽ không bao giờ quên được cảm giác bẽ bàng khi phải chơi cho đội dự bị trong trận đấu với City ở Cúp Manchester Senior diễn ra trên sân Ewen Fields vào tháng 8 năm 2010. Sir Alex lập ra một đội gồm các cầu thủ đã không có mặt trong trận đấu với Fulham ở Premier League 48 tiếng trước đó. Wes, Gibbo, Nev, Chris Smalling, tôi, Ando, Rafael, Tom Cleverley và Kiko là những cầu thủ thuộc đội Một được triệu tập, chúng tôi sẽ chơi bên cạnh những thành viên thường xuyên của đội dự bị như Magnus Eikrem, Will Keane, Ben Amos và Joe Dudgeon. Sir Alex báo tin tôi sẽ chơi trận đấu đó lúc tôi đang rời sân tập. Nghe xong tôi nổi cáu.

“Thế quái nào lại bắt tôi đá cho đội dự bị?”

“Cậu cần được thi đấu.”

“Vớ vẩn. Tôi tập luyện cũng đủ rồi. Mấy đội dự bị toàn thứ vớ vẩn, tôi làm gì ở đó chứ?”

“Nghe này, cậu sẽ đá trận đó. Cứ thế đi.”

Cứ thế đấy. Sir Alex chẳng thèm đổi giọng. Cách ông nói như để khẳng định là ở đây không có chỗ cho tranh cãi. Ông hoàn toàn có thể ngắt đầu tôi rồi gào lên kiểu, “Cậu nghĩ cậu là cái quái gì ở đây hả?” Nhưng ông chỉ nói là tôi sẽ ra sân, và cứ thế bước đi. Có Chúa mới biết tại sao tôi dám nói với ông theo kiểu đó. Trước đây tôi chưa từng làm thế, và sau này cũng vậy. Đến tôi còn tự thấy sốc vì mình. Vấn đề là sếp rất điềm đạm với tôi, trong khi ông có đủ lý do để xử tôi thật đẹp. Vào một ngày khác thì có thể là tôi xong đời rồi. Có thể là ông cũng cảm thấy có gì đó không ổn.

Tới thời điểm này thì tôi đã tự xác định được là mình cần phải biến trận đấu ấy thành cơ hội để làm một cái gì đó. Làm gì thì không biết nhưng không thể để nó trôi qua trong vô ích được. Có thể nó xuất phát từ lòng kiêu hãnh, tôi đoán thế. Vì vậy, tôi bước ra sân trước sự chứng kiến của 1.569 người để thi đấu với đội Năng khiếu City. Gary Neville cũng đá chính, và đó là trận đấu nói lên rất nhiều điều về Nev. Tới thời điểm giao bóng, tôi nghĩ là mình đã gạt bỏ được hết tất cả những suy nghĩ kiểu “tôi không muốn có mặt ở đây” ra khỏi đầu. Một quả bóng bật ra. Mặt sân thì trơn tuột, và một cầu thủ của City đang lao vào. Bóng cũng đã ở gần đường biên ngang, đằng nào cũng ra ngoài, nên tôi nghĩ rằng mình chẳng cần chuồi bóng làm gì. Không đáng. Mình sẽ kiếm một quả ném biên. Phía sau tôi, Nev nổi điên và gào lên: “Carras, làm cái quái gì đấy!? Tại sao không chịu chuồi bóng?”

“Thôi đi Nev! Bình tĩnh đi!”

Chúng tôi cãi nhau một chặp, rồi tôi nhận ra Nev đã nói đúng. Tôi cần phải lấy lại thái độ nghiêm chỉnh và chơi một trận ra trò. Nev đã 35 tuổi, đây chỉ là một trận đấu của đội dự bị, thế mà anh ấy vẫn chơi hết sức, tôi nghĩ. Đã vào sân là Nev không còn kể gì nữa. Anh sẽ đá cho hết sức thì thôi. Sau 602 trận cho United, 85 trận cho đội tuyển Anh, thế mà anh vẫn chơi một trận đấu của đội dự bị như thể đang chơi trận chung kết FA Cup. Không còn minh chứng nào thuyết phục hơn cho sự chuyên nghiệp của anh. Chỉ có thể tôn trọng!

Sếp sau đó còn cho tôi ra sân trong trận đấu ở Cúp Liên đoàn với Wolves vào ngày 26 tháng 10 năm 2010, đó cũng là lần duy nhất tôi thi đấu cùng với Ravel Morrison. Ravel là một trong số ít những cầu thủ trẻ vừa lên tập cùng đội Một đã khiến các anh lớn phải dè chừng, vì sợ rằng sẽ bị anh đánh bại một cách dễ dàng. Ravel sở hữu biệt tài là có thể lướt qua cầu thủ đối phương một cách nhẹ nhàng như thể họ không tồn tại vậy. Cậu ta nhanh chóng khiến người khác phải nể trọng. Kiểu, “Ái chà, phải cẩn thận với thằng nhóc này mới được.” Thường thì khi có một cầu thủ trẻ nào đó xuất hiện, tôi sẽ dằn mặt bằng cách cướp bóng ngay trong chân cậu ta và gần như hất cậu ta sang một bên, nhưng với Ravel thì tôi không thể làm thế. Sir Alex nói với chúng tôi rằng Ravel là cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mà ông từng được chứng kiến, nhưng thật buồn là sự nghiệp của cậu ta cuối cùng lại chẳng đi đâu về đâu. Đó là một điều hết sức đáng tiếc. Tôi biết là Sir Alex đã làm tất cả những gì có thể để giữ cho Ravel tập trung. Sếp dọa sẽ đuổi Ravel ra khỏi câu lạc bộ, đá đít cậu ta khỏi phòng thay đồ và bắt cậu ta tự tìm chỗ thay đồ riêng. Sếp cũng thử thu phục cậu ta bằng tình cảm, cho cậu ta chia sẻ phòng thay đồ với đội Một, cho cậu ta, lúc ấy mới chỉ 16 tuổi, lên tập luyện với chúng tôi mỗi ngày. Nhưng không cách nào thành công. Rio Ferdinand và Gary Neville nói chuyện với Ravel suốt với hy vọng sẽ thuyết phục được cậu ta tận tâm hơn nữa cho sự nghiệp của mình. Quả là lãng phí. Ravel đủ tiềm năng để trở thành một cầu thủ lớn.

Tôi ra sân trong trận đấu với Wolves sau khi đã nhận được một mũi tiêm để xử lý dứt điểm cơn đau ở gót chân. Sau đó tôi phải nghỉ thi đấu vài tuần, nhưng ngay khi tôi trở lại tập luyện, Sir Alex đã động viên: “Lâu lắm rồi mới thấy cậu chơi tốt như thế. Di chuyển tốt lắm!” Sếp không bao giờ cần phải như thế đối với tôi, thật đấy, vì tôi cũng thuộc dạng “dễ nuôi”. Nhưng dù sao thì cử chỉ của ông cũng mang tới cho tôi thêm chút tự tin mà tôi đang rất thiếu. Nó cũng giúp tôi nhận ra tôi đã phải chịu đứng cái gót chân Achilles của mình nhiều đến thế nào. Tôi lại cảm thấy thật thoải mái. Tôi đã tìm lại được sự sắc bén. Đùng một cái, mọi thứ trở nên suôn sẻ, và tôi cảm thấy mình đã trở lại là chính mình. Trùng hợp là thời điểm ấy chúng tôi cũng bắt đầu thương thảo về hợp đồng mới. Các cuộc nói chuyện bắt đầu vào tháng 11 và kết thúc tốt đẹp vào tháng 3. Tôi lại tìm thấy sự yên bình. Tôi cảm thấy United cần tôi, họ tin tưởng vào tôi, và tôi lại tin tưởng vào chính mình. Các cổ động viên thường nhìn vào những vận động viên chuyên nghiệp được trả lương hậu hĩnh và không hiểu nổi tại sao họ lại có thể để cho phong độ sa sút. Nhưng thực sự thì chúng tôi cũng chỉ là con người, chúng tôi cũng có những nỗi sợ hãi và những thời điểm yếu đuối. Cầu thủ bóng đá có phải là robot đâu.

Kể từ đó, tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn bao giờ hết về mặt tinh thần, và không còn tự nghi ngờ bản thân theo cách cũ nữa, dù cũng có những trận thi đấu dưới phong độ. Tháng 2 năm 2011, chúng tôi có một trận đấu trên sân của Marseille. Đó là một trận tệ hại, trên một mặt sân lồi lõm, và kết thúc với một tỷ số đáng quên, 0-0. Nhưng khi trở lại Carrington, tôi nhận ra rằng có người không chịu quên. Sir Alex gọi tôi vào văn phòng. Ông không gào lên hay mắng chửi gì, chỉ nói nhẹ nhàng kiểu, “Nào Michael, cố gắng tỏ ra sống động hơn một chút đi.” Nhưng thế là đủ để tôi quyết tâm nỗ lực nhiều hơn nữa. Tôi nghĩ về ông nội và bố mẹ. Họ đều là những người yêu lao động. Rồi tôi quyết tâm đến Carrington sớm hơn, ra về trễ hơn, và dành nhiều thời gian hơn ở trong phòng gym. Tôi vắt tới giọt mồ hôi cuối cùng trên sân tập, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để trở lại với phong độ tốt nhất.

Quá trình hồi phục của tôi cũng trở nên thuận lợi hơn nhờ một thay đổi ở hàng tiền vệ mà vì nó, tôi phải chịu nhiều trách nhiệm hơn. Scholesy gặp phải một chấn thương háng, trong khi Fletch gặp vấn đề khá nghiêm trọng với chứng viêm ruột kết. Tôi không muốn quấy rầy Fletch, nên tôi chỉ gửi cho anh một số tin nhắn, chúc anh may mắn, và để anh yên. Hóa ra Fletch đã phải vật lộn với những cơn đau từ trước đó, nhưng anh đã giấu không cho chúng tôi biết. Tôi thực sự rất nể phục Fletch. Cách anh trở lại với sân cỏ sau biến cố đó càng đáng ngạc nhiên hơn. Trở lại với thời điểm đó. Giggsy và tôi là cặp tiền vệ trung tâm mới của United. Cả hai chúng tôi đều đá chính trong các trận tứ kết Champions League với Chelsea. Đá cặp với Giggsy rõ ràng là khác hẳn so với khi đá cặp với Scholesy. Scholesy là mẫu tiền vệ thiên về kiểm soát, anh là một chuyên gia chuyền bóng. Giggsy thì lại là một chuyên gia rê dắt, mà, bạn biết đấy, không có nhiều chuyên gia rê dắt chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm. Nhưng Giggsy là mẫu cầu thủ luôn hướng lên phía trước, rất trực diện, nên bất kỳ khi nào thấy có một khoảng trống, thì hoặc là anh sẽ dắt bóng hoặc là sẽ chuyền bóng vào khoảng trống ấy. Tôi thực sự rất thích quãng thời gian được chơi bóng bên cạnh Giggsy. Đúng là anh ấy có tuổi rồi, nhưng nhìn anh chơi bóng, không ai có thể đoán được là anh đã 37 tuổi. Anh vẫn đủ sức chơi trọn vẹn cả hai trận đấu với Chelsea, khỏe đến thế cơ mà! Tôi cố gắng hỗ trợ Giggsy tối đa bằng cách chơi thiên về phòng ngự nhiều hơn. Cũng như khi đá bên cạnh Scholesy, tôi cảm thấy hạnh phúc khi có thể giúp Giggsy theo cách đó. Tôi chưa bao giờ ngại hy sinh để họ có thể phô diễn hết khả năng của mình.

Tôi luôn ý thức được rất rõ mình đang đá cặp với ai, và từ đó hiểu cần phải chơi kiểu gì để sự kết hợp giữa chúng tôi mang lại hiệu quả cao nhất. Tôi không nhất thiết phải chơi theo kiểu của mình, nhưng nếu điều đó có lợi cho chúng tôi và cho đội bóng, thì tại sao lại không nhỉ? Chẳng có gì hay ho khi nghĩ rằng À mình đang chơi hay quá trong khi cả đội chẳng làm được trò trống gì. Chơi kiểu đó có thể giúp tôi phát triển danh tiếng cá nhân, nhưng trên tất cả, tôi tới United là để giành các danh hiệu, nên tôi có chơi theo cách nào thì cũng đều hướng tới việc làm sao để đội bóng đạt được mục tiêu.

Cách suy nghĩ đó giúp định hình cách tôi nhìn nhận về môn thể thao này nói chung. Tôi thích tính trước hai hoặc ba bước, về việc làm sao có thể kéo đối phương ra khỏi vị trí của họ. Lúc này thì bóng đá cũng giống như cờ vua, đều hướng tới mục đích tìm kiếm và khai thác các khoảng trống trong hệ thống của đối thủ. Trong các trận đấu, bạn sẽ thường xuyên gặp cảnh khi một tiền vệ chuyền bóng cho một hậu vệ cánh, cả sân vận động sẽ vỗ tay khen ngợi đường chuyền đó. Nhưng với tôi thì đó là một đường chuyền vô nghĩa. Bởi vì tới lượt mình, hậu vệ cánh kia sẽ lại chuyền bóng thẳng trở lại hàng tiền vệ. Trong những tình huống như thế, tôi thường cố gắng giữ bóng thêm một chút, chờ tới khi có ai đó di chuyển và chuyền lên phía trên. Những lúc khác, tôi sẽ cố gắng kiểm soát đối thủ bằng cách thay đổi kỹ thuật chuyền bóng. Thay vì chuyền thẳng bóng vào chân của đồng đội, tôi sẽ tung ra một đường chuyền nhẹ hơn và đưa bóng hơi lệch đi so với vị trí của anh ta. Điều này khiến người đồng đội của tôi sẽ phải di chuyển để nhận bóng, và bằng cách làm như thế, anh sẽ khiến đối phương phải đặt câu hỏi nên hay không nên theo kèm. Nếu người hậu vệ kia không di chuyển theo, đồng đội của tôi có thể nhận bóng và xoay người lại. Nếu người hậu vệ kia quyết định đi theo, tôi có thể tìm một vị trí tốt để nhận lại bóng từ người đồng đội, và lúc này thì lộ chuyền bóng mà tôi mong muốn đã mở toang do hậu vệ của đối phương đã bị lôi kéo khỏi vị trí. Thực ra thì mấu chốt ở đây không phải là kỹ thuật chuyền bóng, mà là cách tư duy.

Cũng có lần tôi phối hợp ngắn với các đồng đội, lôi kéo đối phương về phía mình, rồi bất ngờ chuyển hướng cho cầu thủ chạy cánh ở phía đối diện, người lúc này sẽ có thể chơi một đối một với hậu vệ cánh của đối phương. Khán giả thường vỗ tay thích thú khi có một ai đó tung ra những đường chuyền dài chéo sân. Nhưng với tôi thì đó là một đường chuyền quá lộ. Cầu thủ nhận bóng có thể có khoảng trống, đường chuyền có thể trông rất đẹp mắt, bóng có thể tới được nơi nó cần tới, nhưng nếu hàng thủ đối phương được tổ chức tốt và đã ở tư thế sẵn sàng, thì hàng thủ ấy không cần phải dịch chuyển. Trong khi mục đích của mọi đường chuyền là khiến cho hàng thủ của đối phương phải dịch chuyển, và bị xáo trộn.

Đường chuyền 60m “kỳ diệu” nói trên hoàn toàn có thể chẳng mảy may khiến các hậu vệ của đối phương phải bận tâm. Trong khi một đường chuyền 5m đưa bóng xuyên qua hai tiền vệ của đối phương có thể khiến cả hệ thống phòng ngự của họ rối loạn và bị đặt trước nhiều câu hỏi lớn, ví dụ trung vệ nên lao lên hay giữ nguyên vị trí? Thực hiện những đường chuyền lên phía trước xuyên qua các tuyến phòng ngự của đối thủ luôn là kỹ năng đáng kể nhất của tôi. Mấu chốt là tính thời điểm và khả năng đánh lừa đối thủ. Đấy không phải là kiểu đường chuyền có thể khiến người ta ồn ào. Người ta không cần thiết phải nghĩ, “Woa, thật là một đường chuyền tuyệt vời!” Nhưng nó có thể là đường chuyền hiệu quả nhất. Tôi chưa bao giờ chuyền một đường bóng chỉ để tìm kiếm những tràng vỗ tay.

Sir Alex lúc nào cũng khuyến khích tôi xin bóng từ các trung vệ ngay cả khi tôi đang bị đối thủ theo sát. Không phải huấn luyện viên nào cũng dám làm như thế đâu. Nếu tôi mà bị đối phương theo sát, thì họ sẽ nói kiểu “đấy là một đường chuyền mạo hiểm, đừng chuyền nữa.” Sir Alex rất tin tưởng tôi và Scholesy, nên ông lúc nào cũng động viên: “Cứ chơi đi. Kéo bọn họ về phía mình.” Tôi chịu áp lực vì đó là điều tôi muốn, tôi muốn đối phương tới và kèm mình. Giống như tôi đang cố gắng chơi với anh ta một trò chơi vậy, “Này, thế anh có định tới đây hay không vậy?” Lúc đó tôi đã vẽ được trong đầu mình một bức tranh toàn cảnh về sân bóng, đâu là khoảng trống, ai là người mà tôi cần phải đưa bóng tới. Nếu Rooney, Giggs hay Ronaldo di chuyển vào khoảng trống đó, tôi sẽ lập tức chuyền bóng. Đôi lúc tôi lùi xuống để xin bóng, và nếu đối thủ không theo kèm, tôi sẽ nhận bóng và xoay người lại, không ngừng đặt ra trong đầu họ những câu hỏi. Khi tôi và Scholesy đá cặp, chúng tôi thường chuyền bóng qua lại cho nhau thay vì chuyền cho các hậu vệ cánh. Nếu tôi mà chuyền cho hậu vệ cánh, thì cầu thủ đối phương được cắt cử theo kèm tôi có thể nghĩ rằng “ồ, thế là mình xong việc rồi”, và không cần bận tâm nữa. Nhưng nếu Scholesy và tôi cứ chuyền bóng qua lại cho nhau, người theo kèm sẽ không biết phải làm gì. Liệu anh ta có nên áp sát tôi không? Điều đó khiến cho anh ta bối rối. Tôi và Scholesy không bao giờ cần lên kế hoạch trước, cứ vào sân là chúng tôi lại đá như thế, như thể đang chơi trò hai đấu hai ở giữa sân vậy. Thêm ba hay bốn đường chuyền để khiến đối thủ phát điên. Một cuộc đấu nhỏ, trong lòng một trận đấu lớn. Có thể chúng tôi chẳng có thêm tí vui thú nào khi chuyền bóng kiểu đó, nhưng chỉ 5 phút sau, đối thủ sẽ nghĩ “Ôi chân mình rã rời rồi”, hoặc bỏ cuộc hoàn toàn. Đó là một cuộc chiến về tâm lý, đồng thời cũng là một cuộc chiến về thể lực. Tôi sẽ thử thách, thử thách, và không ngừng thử thách đối thủ. Graeme và tôi nói về điều này suốt. Mấu chốt là tư duy, kỹ thuật và nhãn quan.

Vào buổi sáng trước trận đấu ở Stamford Bridge, tôi, Tony Strudwick, Rio Ferdinand và Eric Steele rời khách sạn Corinthia để đi lang thang một lúc. Chúng tôi đi qua cả London Eye, vừa đi vừa trò chuyện nhẹ nhàng. Đó gần như là một nghi thức trong các trận đấu sân khách. Tôi cảm thấy thư thái. Trên đường lái xe tới sân, lòng tôi tràn đầy sự tự tin và hưng phấn. Trong phần làm nóng trước trận, tôi thấy mình nhẹ nhàng, sắc bén và nhanh nhẹn. Cổ động viên Chelsea lại ném về phía tôi những ngôn từ miệt thị quen thuộc, kiểu “Hàng thải của West Ham”, “Rác rưởi của Tottenham”, hay “Thằng con hoang phương Bắc bẩn thỉu”, và tôi lại đáp trả bằng cách cười vào họ. Tinh thần của tôi đã lên rất cao, tôi sẵn sàng đối mặt với tất cả.

Áp lực là rất khủng khiếp, điều bình thường khi bạn đối đầu với một đội bóng Anh ở Champions League. Tôi thấy đối đầu với Real hay Milan dễ chịu hơn, một phần bởi vì chúng tôi không muốn cho Chelsea cái gì cả. Nếu Real hay Milan đánh bại chúng tôi và sau đó lên ngôi vô địch Champions League, thì ok, chúng tôi sẽ không phải đối mặt với họ trong một thời gian. Nhưng nếu Chelsea loại được chúng tôi và sau đó đăng quang, đó sẽ là một thảm họa. Tôi sẽ không thể chạy trốn được khỏi suy nghĩ Vị trí đó lẽ ra phải thuộc về chúng tôi. Nhưng đấy là một sự kình địch lành mạnh. Danh sách kình địch cũng thay đổi theo thời gian. Liverpool thì đương nhiên là luôn luôn có mặt, bởi họ là đối thủ truyền kiếp; Chelsea nổi lên từ đầu giai đoạn bóng đá Anh bắt đầu tăng tính cạnh tranh; Arsenal trở thành kình địch trong một giai đoạn ngắn, hai hay ba năm gì đó, khi họ vô địch, nhưng sau đó thì rã đám; Tottenham chưa bao giờ được xem là kình địch; Man City thì chỉ vừa nổi lên trong thời gian gần đây. Sau nhiều năm quan sát Sir Alex, tôi nhận ra nguyên tắc chọn đối thủ của ông. Sếp chỉ chủ động gây hấn với những huấn luyện viên có khả năng đe dọa vị thế của ông, như Benítez. Sir Alex không bao giờ buồn đôi co với những huấn luyện viên không có khả năng thách thức ông trên sân. Không cần thiết, tôi cho là thế, vì làm vậy chỉ tổ tốn thời gian và năng lượng.

Trận tứ kết ở Bridge là một thời khắc đặc biệt đối với tôi, bởi vì đó là lúc tôi thực sự cảm thấy cuối cùng mình cũng đã có thể vượt qua được cơn trầm cảm thành Rome. Trong đầu tôi, mọi diễn biến trên sân như chậm lại. Vì tôi đủ điềm tĩnh. Đấy chính là thứ cảm xúc mà tôi đã mất bao công tìm kiếm bấy lâu. Tôi cảm thấy mình kiểm soát được mọi thứ. Tôi là người chuyền cho Giggsy để anh kiến tạo cho Rooney ghi bàn. Cuối cùng, tạ ơn Chúa, tôi cũng đã có thể tìm lại được phong độ tốt nhất, trên những sân khấu nơi người ta sẽ đặt ra cho bạn những câu hỏi hóc búa nhất. Tôi nóng ruột chờ tới ngày trở lại Old Trafford để tung đòn dứt điểm. Chúng tôi thắng 2-1 và sẽ gặp Schalke ở bán kết. Trận lượt đi với đội bóng Đức là một trong những trận đấu hay nhất trong sự nghiệp của tôi. Đội hình Schalke đêm đó có Raúl, nhưng thật may cho chúng tôi là anh ta không có một cơ hội thực sự nào. Chúng tôi lẽ ra phải ghi được năm hay sáu bàn gì đó, nhưng Manuel Neuer đã có một trận đấu quá xuất sắc. Không có cảm giác gì là chúng tôi đang chơi một trận bán kết Champions League cả. Tôi không có ý thiếu tôn trọng Schalke, nhưng họ rõ ràng chưa phải là một đối thủ đủ tầm. Chúng tôi giành chiến thắng dễ dàng 2-0, và trong trận lượt về trên sân nhà, Sir Alex đã cất tôi trên khán đài. Tôi vẫn thèm ra sân, nhưng tôi hiểu được suy nghĩ của sếp. Vào Chủ nhật, chúng tôi sẽ có một trận đấu quan trọng với Chelsea ở Champions League.

“Tôi sẽ có một số thay đổi ở trận đấu với Schalke,” sếp nói. Khi chỉ còn chúng tôi lại với nhau, các cầu thủ đều ngơ ngác, “Sếp đang làm cái quái gì vậy nhỉ? Đây là bán kết Champions League mà. Nếu họ mà ghi được một bàn thắng sớm thì sẽ rắc rối to đấy.” Sir Alex hẳn là huấn luyện viên duy nhất trong lịch sử cất giữ các trụ cột ở một trận bán kết Champions League. Nhưng chúng tôi tin ông. Chính từ những khoảnh khắc như thế này, tôi lại càng ngưỡng mộ sếp hơn. Ông hẳn là một tay chơi liều bẩm sinh, không phải thế sao? Đội hình hai của chúng tôi đánh bại Schalke một cách thuyết phục. Còn các trụ cột, trong đó có tôi, thì trở lại khỏe khoắn và hưng phấn trong trận đấu với Chelsea, và đánh bại họ. Nếu còn ai đó nghi ngờ lựa chọn của sếp, thì đó là câu trả lời. Tôi ăn mừng chức vô địch Premier League thứ tư của mình một cách chớp nhoáng.

Chúng tôi còn hai mươi ngày cho cuộc hẹn hò vào ngày 28 tháng 5 với đối thủ cũ Barcelona ở chung kết Champions League. Tôi không bao giờ xem lại trận chung kết năm 2009 vì muốn xóa đi hết những suy nghĩ tiêu cực. Nhưng bây giờ thì tôi cần phải biết là chúng tôi đã sai ở chỗ nào, nên tôi rủ Graeme vào phòng ti vi xem lại trận chung kết với Barcelona hai năm trước. Khi ngồi lại và phân tích trận đấu đã khiến tôi khổ sở suốt hai năm trời, tôi mới thấy là trận đấu ấy không tệ như tôi từng nghĩ. Một vài trong số những suy nghĩ u tối mà tôi đã phải chống chọi lại xuất phát từ cách nhìn nhận tiêu cực về trận đấu, và nó không hoàn toàn đúng.

Tôi bắt đầu thấy có hy vọng. Tuy nhiên, vấn đề khi đối mặt với Barcelona vào năm 2011 là bây giờ họ đã mạnh hơn chính họ hồi 2009 mấy phần. Thời điểm đó họ đã trở thành đề tài bàn tán của mọi người. “Đó là một đội bóng đặc biệt.” “Messi là một thiên tài.” “Guardiola quả có tầm nhìn.” Tôi được nghe không biết bao nhiêu lời tán dương dành cho Barcelona trong thời gian trước khi diễn ra trận chung kết ở Wembley. Tất nhiên, chúng tôi đều ý thức được rằng chúng tôi sắp sửa đối mặt với một đội bóng đang ở giai đoạn đỉnh cao. Barcelona đã hủy diệt Real Madrid ở bán kết, họ chơi thứ bóng đá thật sự đáng kinh ngạc, và trong thâm tâm, tôi biết rằng ở Rome, chúng tôi mạnh hơn do vẫn còn Ronaldo trong đội hình. Nhưng chúng tôi vẫn thấy tự tin, vì tôi nghĩ là chúng tôi đã học được những bài học từ Rome. Ma trận chuyền bóng của Barcelona không còn là một vũ khí bí mật nữa. Việc Messi chơi ở vị trí số 9 cũng chẳng còn khiến ai bị sốc. Tất cả chúng tôi đều tin rằng trận chung kết phía trước là cơ hội để chúng tôi sửa chữa những sai lầm ở Rome. Cảm giác chung là chúng tôi còn một món nợ cần phải trả. Chúng tôi có đủ thời gian để chuẩn cho trận đấu, và mỗi ngày, chúng tôi lại luyện đi luyện lại các mảng miếng chiến thuật, đặc biệt là phương án pressing Barcelona trước khi họ có thể triển khai ma trận chuyền bóng của mình. Chúng tôi biết rằng Messi sẽ giật lại, và các cầu thủ chạy cánh của họ, David Villa và Pedro, sẽ đứng rất sâu.

Nhưng biết là một chuyện, chống lại là chuyện hoàn toàn khác. Anh có dám đẩy cao đội hình để gây sức ép, chấp nhận rủi ro là họ sẽ chuyền được xuyên qua các tuyến pressing và khai thác khoảng trống chắc chắn sẽ rất nhiều ở phía sau? Sir Alex vẫn quyết tâm trung thành với triết lý của mình. “Chúng ta là Manchester United, và chúng ta sẽ tấn công,” ông nói với chúng tôi. Bài nói chuyện trước trận của ông ở Wembley có thể được rút gọn lại thành ba thông điệp chính: “chơi thẳng mặt đối phương”, “gây sức ép ngay trên phần sân của họ”, và “tự tin thoát khỏi hệ thống pressing”. Một số người nói rằng chúng tôi nên cẩn trọng, nhưng đó không phải là thói quen của chúng tôi, và chúng tôi cũng không hề sợ Barcelona, chỉ tôn trọng họ thôi. Về cơ bản chúng tôi chốt được đội hình từ sớm, chỉ băn khoăn ở vị trí hậu vệ phải do Rafael bị chấn thương. Cuối cùng thì Fábio, người anh sinh đôi của Rafael, được trao cơ hội. Hai anh em họ đều là những chàng trai tuyệt vời. Sếp thường hay đem họ ra làm trò, từ đầu đã nói rằng một ngày nào đó ông sẽ âm thầm thay người này bằng người kia trong giờ nghỉ để xem có ai nhận ra hay không. Tôi cảm thấy buồn cho Rafael vì không thể có mặt ở trận chung kết. Cậu ta là một cầu thủ United đích thực, thẳng thắn, bộc trực, bền bỉ, nhiệt tình, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và luôn cháy hết mình. Rafael là người lễ phép, nhưng rất ghét thất bại. Một số người, như tôi chẳng hạn, thường cố che giấu cảm xúc của mình. Nhưng Rafael có gì là bật ra hết, cả trên sân lẫn trên sân tập. Cậu ta mang cảm xúc vào trận đấu, điều mà sếp rất thích, nhưng có thể lại là điều mà Louis van Gaal không thích lắm, thế nên tôi đoán đó là lý do Rafael phải ra đi.

Chicharito đã ghi bàn vào lưới Chelsea và ra sân ở trận gặp Schalke, nên anh sẽ đá chính. Bất cứ khi nào nghĩ về đội hình ấy và nghĩ tới Chicharito, điều đầu tiên tôi nghĩ đến là những bàn thắng. Đấy không hẳn là những pha dứt điểm gọn ghẽ, nhiều bàn thậm chí còn được ghi theo cách khá hài hước, nhưng chúng chính là những minh chứng thuyết phục nhất cho phẩm chất hay nhất ở Chicha. Anh lúc nào cũng đầy sống động trong vòng cấm, sẵn sàng chớp lấy mọi cơ hội nhỏ nhất để ghi bàn. Giống như một kẻ đi săn thiện nghệ, Chicha lúc nào cũng lảng vảng xung quanh các khoảng trống, và chỉ cần hậu vệ đối phương lơ là dù chỉ trong tích tắc thôi, anh sẽ lập tức tấn công vào khoảng trống đó và trừng phạt họ. Anh không giỏi giữ bóng và kiến tạo lối chơi như Wayne Rooney, Louis Saha hay Dimitar Berbatov, nhưng bù lại, anh mang tới bàn thắng, năng lượng và tốc độ.

Sir Alex buộc phải thông báo với Berba rằng anh không có tên trong danh sách đăng ký; người ngồi dự bị sẽ là Owen. Tôi nhớ sếp từng không ít lần nói rằng một trong những phần kinh khủng nhất trong công việc của một huấn luyện viên như ông là phải loại cầu thủ này hay cầu thủ kia ra khỏi đội. Ông từng làm điều đó với Ji ở Moscow. Tôi thấy buồn cho những người không được thi đấu, bởi những trận đấu như thế này chính là lý do cầu thủ chúng tôi tồn tại.

Chúng tôi không thay đổi cách sắp xếp đội hình. Wayne Rooney sẽ chơi ngay phía sau Chicha, và kế hoạch là anh sẽ theo sát Sergio Busquets, chờ khi chúng tôi giành lại được bóng sẽ bung lên phía trước để đánh bại lưới pressing của họ. Vị trí ngay phía sau Chicha là một vị trí hoàn hảo cho Wayne. Wazza chưa bao giờ là mẫu cầu thủ ích kỷ, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh cho đội bóng, tiếc là không phải ai cũng nhận ra điều đó. Kỷ lục ghi bàn của anh ở United vốn đã rất ấn tượng rồi, nhưng nó thậm chí còn chưa nói lên được một nửa vấn đề. Người ta chưa bao giờ thực sự hiểu được Wazza xuất sắc đến thế nào, hay anh dữ dội, nhanh nhẹn và mạnh mẽ ra sao, nhưng với tôi thì điều đáng yêu nhất ở Wazza là anh không bao giờ xem các trận đấu là cơ hội tìm kiếm vinh quang cá nhân, không bao giờ. Anh không bao giờ vào phòng gym, nhưng trên sân tập thì chẳng ai có thể chê trách anh điều gì. Anh lúc nào cũng tập như điên, đã thế sau buổi tập còn thường xuyên ở lại thêm nửa tiếng để luyện sút. Wazza là một con quái vật, được trời phú cho sức mạnh và tốc độ phi phàm, và đó là lý do anh không cần tới phòng gym. Phải làm đối thủ của anh là một cực hình. Từ “quyết liệt” là không đủ để mô tả phong cách của anh. Bảo là Wazza đáng sợ thì sẽ đúng hơn; mỗi khi anh ở trên sân, tôi luôn cảm thấy có một cơn thịnh nộ ở đâu đó. Wazza chơi bóng kiểu... hung bạo, nhưng chính sự hung bạo ấy mới tạo nên một Wazza không thể đánh bại. Ừ thì đúng là có đôi lần anh phải nhận thẻ đỏ, nhưng chẳng phải nỗi căm ghét thất bại chính là mặt kia của một nhà vô địch đấy sao? Anh sở hữu trí thông minh bóng đá đáng nể, cách anh canh những bước chạy của mình khi tôi có bóng là hay nhất trong số những cầu thủ mà tôi từng thi đấu cùng, và chính điều đó đã khiến cho công việc của tôi trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Anh được quyền quanh quẩn ở vị trí số 10, và khi cần chỉ việc hét lên “Chuyền bóng cho tôi”. Tôi biết nhiều số 10 chỉ đứng một chỗ chờ bóng kiểu đó. Nhưng Wayne Rooney thì không. Anh luôn muốn làm thêm một cái gì đó cho cả đội. Anh luôn lắng nghe. Tôi thường bắn cho anh những thông tin đơn giản, kiểu “trái”, “phải”, “hỗ trợ phía trước”, và anh sẽ lập tức làm theo. Chúng tôi rất ăn ý với nhau.

Ở Wembley, Barcelona kiểm soát bóng nhiều tới mức Rooney ngày càng phải lùi sâu hơn xuống hàng tiền vệ để hỗ trợ chúng tôi, cố gắng kéo chúng tôi khỏi tình trạng bị áp đảo. Đội bóng của Guardiola làm tất cả để mở ra không gian cho Messi, Xavi và Iniesta chơi bóng. Hai trung vệ của họ là Javier Mascherano và Gerard Piqué, trong khi hai tiền đạo cánh của họ lại treo biên rất cao để ghim Fábio và Evra lại. Ferdinand và Vida đương nhiên phải giữ vị trí để sẵn sàng hỗ trợ. Sân Wembley vốn đã lớn lại còn bị kéo căng, khoảng trống cho Messi, Xavi và Iniesta là mênh mông, và họ không ngừng đặt ra cho chúng tôi những câu hỏi. Tôi nhìn Xavi. Anh ta mỏng người, không nhanh, cũng không cơ bắp, nhưng anh ta luôn bảo vệ trái bóng bằng cả mạng sống của mình. Tôi từng hy vọng là sức mạnh thể chất kiểu cũ có thể giúp tôi đánh bại Xavi, nhưng làm gì có cơ hội tới gần anh ta. Xavi rất thông minh, và khả năng nhận biết không gian cũng như vị trí của các cầu thủ xung quanh anh là cực kỳ ấn tượng. Barcelona cứ chuyền bóng qua lại mãi, như thể đang thăm dò xem điểm yếu của chúng tôi là ở đâu. Thế rồi, bum, ngay khi tìm ra, họ lập tức thay đổi tốc độ chuyền bóng. Cách Barcelona tấn công vào các khoảng trống trong đội hình của chúng tôi cũng chẳng khác nào cách các bác sĩ dùng dao mổ phanh cơ thể bệnh nhân ra. Pedro mở tỷ số, nhưng chúng tôi lập tức đáp trả. Có Giggsy bên cạnh tôi ở hàng tiền vệ, chúng tôi tấn công tốt hơn. Anh chính là người đã xâm nhập vòng cấm và chuyền bóng để Wazza ghi một trong những bàn thắng đẹp nhất trong sự nghiệp, tung nóc lưới, từ khoảng cách gần 15m. Chúng tôi đã trở lại với trận đấu. Bước vào phòng thay đồ trong giờ nghỉ với một kết quả hòa khiến ai nấy đều cảm thấy như cất được một gánh nặng trước ngực, bởi 45 phút đầu tiên thực sự căng thẳng và mệt mỏi. Barcelona không cho chúng tôi nghỉ ngơi một giây nào, họ không ngừng kéo căng chúng tôi, khiến cho chúng tôi ức chế. Vida nổi điên với tôi vì anh cảm giác các tiền vệ đã không hỗ trợ được nhiều cho hàng thủ.

“Messi lúc nào cũng ở phía sau cậu, Carras, lùi xuống một chút đi, cậu lên cao quá,” Vida gào lên với tôi.

Thường tôi không thích lớn tiếng trong phòng thay đồ, nhưng hôm đó tôi đã gào lại: “Thế thì anh phải dâng lên gây sức ép với anh ta, Vida. Tôi làm sao có thể làm hai việc một lúc được.” Vida là một đồng đội tuyệt vời, và đó là lần đầu tiên chúng tôi lời qua tiếng lại với nhau. Chúng tôi biết rằng, bằng cách nào đó chưa biết, chúng tôi phải giải quyết được vấn đề là cách di chuyển của Messi. Trên lý thuyết thì Messi là trung phong của Barcelona. Tôi hiểu là Vida và Rio còn gặp vấn đề với những pha di chuyển chéo từ cánh vào trung lộ để tấn công khoảng trống sau lưng họ từ David Villa và Pedro. Đó là lý do hàng công của Barcelona trở thành cơn ác mộng cho mọi hàng thủ. Nhưng ta có thể làm được gì? Có nên chấp nhận mạo hiểm, đẩy một trong các trung vệ lên sát Messi, chấp nhận lộ ra khoảng trống sau lưng cho các cầu thủ chạy cánh của họ khai thác? Đó có phải là điều mà Guardiola đang mong muốn? Tôi biết là nhiều huấn luyện viên đã nghiên cứu về Barcelona, còn các cổ động viên thì không ngừng nói về họ, nhưng tất cả đều vô nghĩa khi thực sự đối đầu với họ trên sân, bởi vì họ quá biến ảo. Phong cách của Guardiola đã ngấm rất sâu vào cái đội Barcelona này.

Trong khi tranh cãi với Vida, tôi có nhắc tới một tình huống trong đó chúng tôi đẩy cao gây sức ép và Messi lẻn được ra sau lưng tôi. Lúc Barcelona đưa được bóng tới vị trí của Messi, Vida không kịp áp sát, thế là anh ta có thể xoay người và khởi phát một pha phản công. Bóng sau đó được chuyền cắt ngang khu 5m50, may là tôi lùi về kịp thời và phá được. Vida gặp vấn đề lớn khi Messi nhận được bóng, xoay người và tấn công trực diện vào vị trí của anh.

“Cậu phải bọc lót cho tôi, Carras,” Vida lại nói.

“Nếu tôi kèm Messi, còn Giggsy kèm Xavi và Wazza theo Busquets, thì sẽ không có ai theo sát Iniesta,” tôi trả lời. “Tôi chẳng biết phải làm gì. Tôi đang cố gắng gây sức ép với Iniesta. Tôi không thể cùng lúc làm điều đó với Messi được.”

Vấn đề của tôi là khi các tiền vệ và tiền đạo của chúng tôi đẩy cao để pressing, nếu tôi không theo sát họ thì Iniesta sẽ được tự do cả ngày. Vấn đề của Vida là anh không muốn để lại một khoảng trống lớn trong hàng thủ bốn người khi phải theo sát Messi lúc cầu thủ này lùi xuống. Ở các đội khác, những đội yếu hơn ấy, những cuộc tranh cãi như thế này có thể gây chia rẽ. Nhưng với United thì không. Rio, Vida và tôi là những người đồng điệu, lại là bạn tốt với nhau ở ngoài sân, nên chúng tôi luôn phối hợp với nhau rất dễ dàng. Một ví dụ: Rio, hay Vida, thường gào lên sau lưng tôi, “Carras, TRÁI” hay “Carras, PHẢI”. Những lúc như thế tôi sẽ không cần phải đánh mắt qua vai nữa mà cứ thế tự động bước sang trái hay sang phải, bởi vì tôi biết ý của Rio là ở phía sau tôi đang có một cầu thủ nào đó của đối phương - thường là Messi nếu ta nói về trận đấu ở Wembley - nên tôi cần phải di chuyển để chặn trước đường chuyền. Về cơ bản thì Rio hoạt động như một chiếc radar sau lưng tôi, liên tục quét và đưa ra cảnh báo sớm về những mối đe dọa. Điều đó khiến cho công việc của Rio trở nên nhẹ nhàng hơn, nhưng tôi chưa bao giờ vì thế mà suy nghĩ theo kiểu, À, hắn ta đang lợi dụng mình, hắn đang bắt mình phải chạy nhiều hơn. Tôi hoàn toàn tin tưởng Rio. Chính hành động của anh lại khiến cho công việc của tôi trở nên đơn giản hơn, vì tôi không cần phải quay lại liên tục để quan sát nữa. Chỉ cần lắng nghe những chỉ đạo từ Rio là đủ. Rio là trung vệ toàn diện nhất mà tôi từng được chơi cùng, từng phải đối đầu, và thậm chí từng thấy. Anh giỏi một cách đáng kinh ngạc. Việc chơi bóng với anh dường như quá dễ dàng. Với tư cách một vận động viên chuyên nghiệp, Rio có đủ mọi thứ: tinh thần cầu thắng, sự nghiêm túc khi tập luyện, và khả năng giao tiếp tuyệt vời với bất kỳ ai. Với tư cách một cầu thủ, Rio cũng có đủ mọi thứ: tốc độ, sức mạnh, sự hiện diện, khả năng không chiến, sự thông minh, sự hiểu biết, và khả năng đưa trái bóng tới bất kỳ vị trí nào. Ngay từ giây phút đầu tiên nhìn thấy Rio ở West Ham, tôi đã biết anh là một người đặc biệt. Đúng là Rio có nhiều mối quan tâm khác ngoài bóng đá, ví dụ kinh doanh nhà hàng và thời trang, nhưng nói về độ nghiêm túc khi tập luyện thì không ai bằng anh, và về tình yêu với bóng đá cũng vậy. Ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó qua cách anh nói về môn thể thao này. Tôi không hề ngạc nhiên, dù chỉ là một chút, khi thấy Rio bây giờ đã trở thành một chuyên gia bóng đá trên truyền hình với những hiểu biết sâu sắc.

Tôi cũng dành sự tôn trọng tương tự cho Vida. Nếu cần phải chọn một người để bảo vệ cuộc sống của bạn, đừng chần chừ gì, hãy chọn ngay Vida. Anh lừng lững, quyết liệt, và rất ghét thua trận. Có Vida trong đội rất yên tâm, bởi vì anh có thể gieo rắc sợ hãi cho đối thủ chỉ bằng sự hiện diện của mình. Trong vòng cấm, anh như một chiếc nam châm, lúc nào cũng hút về phía trái bóng. Anh có sự quyết liệt đúng kiểu Serbia, xem mỗi trận bóng như một cuộc chiến, và đôi lúc rất dễ nổi đóa. Trong tập luyện Vida cũng thế, nếu có gì đó khiến cho anh cảm thấy khó chịu, thì anh sẽ nói và thể hiện ra ngay lập tức. Nếu có ai đó phạm lỗi với Vida, anh sẽ lập tức lao theo, gầm gừ cái gì đó, và tất nhiên không quên ra đòn đáp trả.

Tôi thách ai kể được cặp trung vệ nào hay hơn Vida và Rio trong vòng một thập kỷ trở lại đây. Họ bổ trợ cho nhau hoàn hảo, và ăn ý đến khó tin. Họ mang tới sự cân bằng. Vida đọc trận đấu hay chẳng kém ai, nhưng cách phòng ngự của anh thiên về sức mạnh, trong khi Rio thiên về tư duy hơn. Rio không bao giờ phải chơi xấu, bởi vì anh luôn phán đoán được các nguy cơ ngay từ sớm, do đó không bao giờ thấy mình ở trong tình thế phải thực hiện những cú tắc kiểu được ăn cả ngã về không. Tôi thích cách Rio dập tắt một đám cháy ngay từ khi những tia lửa còn chưa phát ra. Tôi thấy có nhiều trung vệ cứ phải lao vào những cú tắc, tranh chấp khổ sở từng pha bóng một, trong khi họ hoàn toàn có thể tránh được tình cảnh đó bằng cách đọc trận đấu tốt hơn. Một trong những điều khiến tôi thấy khó chịu là cánh báo chí và các cổ động viên cứ xem những việc Rio làm như là điều đương nhiên phải thế, họ không hề nhận ra anh giỏi đến thế nào chỉ vì anh hiếm khi có những pha tắc bóng “như trong phim”. Cả lúc phòng ngự lẫn khi có bóng, từ Rio luôn toát ra sự tự tin cao độ, đôi khi tới mức cao ngạo, và lan tỏa sự tự tin ấy tới cả đội bóng. Anh thuộc kiểu người thích chỉ đạo, không ngại đứng trước mặt một ai đó nói ra suy nghĩ của anh về người ấy, cũng như điều mà anh cho là người ấy nên làm. Cầu thủ duy nhất mà Rio không chỉ đạo là Scholes, nhưng Scholes là kiểu chẳng ai có thể phàn nàn. Nhưng Wazza là một câu chuyện khác! Tôi không thể nào đếm nổi số lần Rio và Wazza gào lên với nhau trên sân dù hai người chơi ở hai đầu sân. Rio thường yêu cầu Wazza ngăn đối phương triển khai bóng từ hàng thủ. Wazza sẽ đáp trả: “Đẩy cao đội hình lên. ĐẨY CAO LÊN!!” Vừa nói vừa vẫy tay ra hiệu. Những lúc ấy cảnh tượng trên sân đầy tính giải trí, và tôi thường cũng chỉ biết tặc lưỡi một cái rồi lại tập trung vào vai trò... khán giả. Rio và Wayne là những đồng đội tốt của nhau, sau các trận đấu, họ thường cùng nhau có một cuộc sơ kết nhỏ, một kiểu thảo luận xem từng người đã thể hiện như thế nào trong trận đấu. Với Rio thì những tiếng hét như vậy chính là một cách dẫn dắt. Cả anh lẫn Rooney đều không bao giờ để cho sự căng thẳng lên quá cao, thường cả hai sẽ kết thúc cuộc “thảo luận nóng” của mình bằng một nụ cười. Việc họ tranh cãi với nhau là một dấu hiệu tích cực. Đó là cách để họ lên giây cót cho nhau cũng như cho chính bản thân mình. Ý chí chiến thắng trong họ thật đáng kinh ngạc. Và họ thể hiện điều đó không chỉ trong các trận đấu, mà cả trong các buổi tập cũng thế.

Vida cũng hay lớn tiếng, nên việc anh gay gắt trong giờ nghỉ ở Wembley hôm đó là bình thường. Chỉ có việc tôi bật lại là bất thường thôi. Cuối cùng sếp phải kêu chúng tôi lại: “Này các cậu, trận đấu còn chưa ngã ngũ mà. Bình tĩnh lại đi. Tỷ số vẫn là 1-1, nghĩa là chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Hãy trở ra ngoài kia và bắt đầu lại từ đầu, đừng quên gây sức ép thật mạnh với họ.” Đúng vào lúc chúng tôi đang cố gắng để giành lại thế trận, thì Messi ghi bàn với một cú sút chìm từ ngoài vòng cấm. Không bao giờ được phép để cho Messi có cơ hội sút bóng từ khoảng cách gần 20m như thế. Messi sút rất chuẩn, lại không cần lấy đà, nên thủ môn càng khó mà phán đoán được ý định của anh ta. Trong bàn thắng thứ ba của Barcelona, bàn thắng an bài trận đấu, Messi cũng có công lớn. Một lần nữa, chúng tôi hoàn toàn có thể tránh được bàn thua đó. Tôi chặn được pha đột phá từ cánh phải của Messi và chuyền cho Nani, nhưng Nani lại vụng về để Busquets cướp mất. Từ rìa vòng cấm, David Villa tung ra cú dứt điểm không thể cản phá. Sai lầm, bang, bàn thắng; đó là cách Barcelona trừng phạt chúng ta. Dù không thích thú gì, nhưng tôi phải thừa nhận rằng vào ngày 28 tháng 5 năm 2011 đó, ở Wembley, Barcelona đã có màn trình diễn hoàn hảo nhất mà tôi từng được chứng kiến. Đội bóng của Guardiola, với những Xavi, Busquets, Iniesta đang ở giai đoạn đỉnh cao, và với một Messi quá siêu phàm, là đối thủ mạnh nhất mà tôi từng đối mặt, bỏ xa những đội phía sau cả quãng dài. Tôi theo dõi 13 phút cuối của trận đấu từ băng ghế dự bị sau khi sếp tung Scholesy vào sân, tăng cường một cầu thủ có thể ghi bàn nữa với hy vọng đảo ngược tình thế. Nhưng cũng như ở Rome, trận đấu cứ chầm chậm trôi về cuối trong cảm giác đau đớn, bất lực của chúng tôi.

Khi tôi bước vào đường hầm, có một người đã chờ sẵn và đưa tôi thẳng tới phòng thử doping, một căn phòng bé xíu nằm trên một hành lang ở phía sau phòng thay đồ. Tôi không được phép vào gặp sếp và các đồng đội. Thử doping ngay sau khi trận đấu kết thúc là một điều hết sức khó chịu. Tôi hiểu tại sao họ làm thế, và tôi cũng đồng ý là cần phải kiểm tra doping, bởi vì bóng đá phải là một môn thể thao trong sạch.

Nhưng cũng phải có ngoại lệ chứ. Ví dụ, sau một trận chung kết mà đội bóng của bạn giành chiến thắng, bạn có quyền được ăn mừng với các đồng đội chứ? Đó chính là những khoảnh khắc đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của mỗi cầu thủ, và tôi cho rằng việc tước đoạt đi quyền được tận hưởng chúng là một điều không đúng đắn. Cũng như tôi, ở Wembley, sau khi để thua một trong những trận đấu lớn nhất trong đời, lẽ ra tôi phải ở bên các đồng đội, để cùng nhau chia sẻ nỗi đau thất bại, nói với nhau đôi lời động viên. Thế mà tôi lại phải ngồi đây, chết dí trong căn phòng này. Tất cả những gì tôi có chỉ là một vị bác sĩ không ngừng đi ra đi vào, tất bật bám sát các quy trình để chắc chắn chúng tôi không ai chơi trái luật. Với một cầu thủ dự bị thì quy trình sẽ kết thúc nhanh hơn, do lúc đó anh ta vẫn còn đủ nước. Nhưng nếu bạn có vào sân thi đấu thì quá trình lấy mẫu sẽ trở nên rất khó khăn và mất thời gian. Tôi đã phải ở trong phòng rất lâu, cứ ngồi thừ ra đó và nhìn vào khoảng không. Đấy không phải là lúc chuyện phiếm; thứ cuối cùng mà tôi không muốn là một người không quen biết liên mồm hỏi về bóng bánh chỉ hai phút sau khi tôi vừa để thua một trận chung kết Champions League. Nhưng ngồi yên cũng chết. Tôi thấy bức bối, ngột ngạt, trong khi những khoảnh khắc của trận đấu từ từ xâm chiếm trí óc.

Tôi hoàn toàn ủng hộ cuộc chiến chống doping. Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu một cầu thủ đang chơi bóng ở trình độ cao sử dụng chất cấm và nghĩ rằng mình sẽ không bị phát hiện. Nguy cơ bị bắt tại trận là rất cao, và quan trọng là điều đó không đáng. Tôi không bao giờ dùng bất kỳ loại thuốc nào trừ khi được các bác sĩ cấp cho và chắc chắn chúng không nằm trong danh mục cấm. Cẩn thận không thừa. Tương tự, tôi cũng không bao giờ dùng thêm chất hỗ trợ nào nếu không được các bác sĩ tư vấn kỹ. Tôi chưa bao giờ bị kiểm tra tại nhà, nhưng ở Carrington và sau các trận đấu thì thường xuyên. Mỗi năm tôi bị kiểm tra sáu, bảy hay tám lần gì đó. Đội ngũ kiểm tra thường nhắm tới những cầu thủ thường xuyên phải chơi bóng với cường độ cao. Có một vài người bị kiểm tra liên tục. Việc chọn người đi kiểm tra được cho là thực hiện ngẫu nhiên, nhưng hài hước là ở chỗ có một vài cái tên cứ xuất hiện đi xuất hiện lại trong danh sách cần phải kiểm tra. Có vẻ như cầu thủ càng quan trọng thì càng dễ “được” lọt vào danh sách.

Điều khiến các cầu thủ khó chịu nhất là sự thiếu nhất quán. FA có những quy tắc riêng của FA, UEFA lại cũng có những quy tắc riêng của UEFA, thật là điên rồ. Đôi khi phải lấy mẫu máu, đôi khi là nước tiểu, lúc khác lại là nước bọt. Lấy mẫu cái gì phụ thuộc vào việc cơ quan nào đang tiến hành kiểm tra. Có đôi lúc bạn không được phép vào phòng thay đồ, nhưng có những lúc khác thì lại được. Đôi lúc bạn được đi tắm, đôi lúc lại không.

Ở Wembley, tôi được lôi thẳng vào phòng kiểm tra doping. Mãi rồi thì cũng lấy được mẫu, tôi ra ngay xe buýt để trở về khách sạn Landmark. Trên xe, không ai buồn nói với ai câu nào. Trong bữa tiệc nhỏ sau đó, tôi được gặp lại cả nhà. Mọi người ghé qua uống vài cốc. Tất cả những gì họ nói là “Thật không may.” Mà còn có thể nói gì được nữa? Ở Wembley, điều may mắn là tôi đã học được cách kiểm soát cảm xúc của mình, không như ở Rome. Tôi chỉ nói: “Mọi người biết gì không? Con đã cố hết sức rồi. Chỉ là như thế vẫn chưa đủ.” Tôi không chấp nhận thất bại, không bao giờ có chuyện đó, nhưng Wembley không gây đau đớn như Rome. Ở Rome, chúng tôi đã tự khiến mình thất vọng. Ở Wembley thì không. Đơn giản là Barcelona và Messi hay hơn.