K
hoác áo đội tuyển Anh là giấc mơ của mọi đứa trẻ yêu bóng đá trên đất nước này. Nhưng thường thì đó là giấc mơ không bao giờ có thể vươn tới được, nó ở cách ta quá xa, tới mức khiến ta có cảm giác đó là một giấc mơ hoang đường. Hoặc là trông có vẻ như thế. Từ nhỏ, tôi đã luôn mơ tới một ngày được khoác áo đội tuyển Anh và chơi bóng trước sự chứng kiến của hàng vạn người đang phủ kín các khán đài của sân Wembley huyền thoại. Italia ’90 là niềm cảm hứng của tôi. Tôi mê mẩn dõi theo hành trình của Gazza và đồng đội. Giống như bao đứa trẻ khác, tôi cũng bị cuốn sâu vào cơn bão cảm xúc mà có lẽ chỉ World Cup mới có thể tạo ra được. Cả dân tộc sục sôi theo từng bước chân của Bobby Robson và những người hùng của ông. Tôi nhớ là ở thời điểm ấy tôi đã nghĩ: Họ không phải là những người thường, không thể nào là như thế. Họ là những cầu thủ bóng đá đang tranh tài ở một kỳ World Cup. Người bình thường thì không bao giờ có cơ hội làm điều đó. Cảm giác thế nào nhỉ? Thật khó tưởng tượng. Rồi tôi sẽ khoác lên người bộ quần áo của Gazza, xỏ vào chân đôi giày Quaser Lineker và rủ Graeme ra vườn đá bóng, cố gắng bắt chước mọi động tác mà tôi đã được xem qua ti vi. “Buổi diễn” thường kết thúc trong tiếng gào của bố hoặc mẹ, vì tội đi giày đinh khiến cho cỏ bị xới tung hết cả lên.
Mười một năm sau ngày đó, tôi may mắn trở thành một trong những người hiếm hoi chạm tay được vào giấc mơ thuở nhỏ của mình. Đó chắc chắn là ngày đáng tự hào nhất của đời tôi. Tôi cũng đã được chơi trên sân Wembley chật cứng khán giả, và thậm chí còn được dự một kỳ World Cup. Một thằng nhóc có thể mong chờ gì hơn? Đấy chẳng phải là được sống trong giấc mơ của đời mình sao? Ừm, không hẳn. Một phần thì đúng là như mơ, nhưng một phần khác, buồn thay, lại không được như điều mà tôi từng hy vọng. Tôi có những cảm xúc lẫn lộn về thời gian khoác áo đội tuyển Anh. Bây giờ, khi đã chín chắn hơn, và nhất là khi đã kết thúc sự nghiệp cầu thủ của mình, tôi mới có dịp nhìn lại toàn bộ mọi việc từ đầu. Và tôi cảm thấy một niềm tự hào to lớn khi được chọn khoác lên mình chiếc áo của đội tuyển Anh.
Thực ra thì tôi luôn luôn cảm thấy tự hào mỗi khi thi đấu cho đội tuyển, chỉ là không phải lúc nào cũng tìm thấy niềm vui trong việc đó. Thật buồn làm sao. Tôi ước gì chuyện của tôi với tuyển Anh giống như một câu chuyện cổ tích, để tôi có thể tự mình vẽ lên nó những gam màu đẹp đẽ và tươi sáng. Tiếc rằng cổ tích chẳng bao giờ có thật.
Tôi chưa bao giờ cảm thấy thực sự thoải mái trong những lần tập trung đội tuyển. Lúc nào cũng giống như một cuộc vật lộn. Có thể bạn sẽ nói rằng thế là yếu đuối, là nhõng nhẽo; hãy cố mà thích nghi, vui vẻ lên, trưởng thành đi! Tin tôi đi, tôi cũng tự nói với mình như thế cả nghìn lần rồi. Nhưng càng tự chất vấn bản thân, tôi càng cảm thấy tồi tệ. Tôi tự dằn vặt mình vì đã trở nên như thế, nhưng càng tự dằn vặt thì tôi lại càng cảm thấy tồi tệ hơn. Tôi bị mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn không hồi kết. Trong cuộc chiến với chính mình. Tôi khao khát được chơi bóng và chơi tốt, nhưng đó là điều rất khó, bởi tôi chưa bao giờ có cơ hội ra sân đều đặn. Sau 87 lần được triệu tập, tôi ra sân 34 trận, nhưng chỉ 7 trong đó là trong đội hình xuất phát ở những trận đấu chính thức.
Chủ yếu là do lỗi của tôi. Tôi đã tự trách móc bản thân quá nhiều trong khi nếu tìm kiếm lời giải thích ở đâu đó khác thì có thể sẽ tốt hơn. Nhưng tính tôi là vậy. Có nhiều trận đấu tôi chơi không tốt. Nhưng cũng có những trận tôi chơi tốt, thế rồi đùng một cái, tôi bị tống lên băng ghế dự bị ở trận tiếp theo. Trong suốt những giải đấu lớn mà tôi vắng mặt, ví dụ EURO 2012 hay World Cup 2014, tôi thường xuyên nghe người ta nói rằng “Chúng ta cần một người như Michael để kiểm soát bóng tốt hơn.” Nhưng tới khi tôi ra sân, thì cũng chính người đó lại nói rằng tôi chỉ biết mỗi việc chuyền ngang. Họ đòi hỏi lúc nào cũng phải có những ly kỳ, và nếu chúng tôi giữ được bóng trong một thời gian thì họ kêu ca rằng “đó không phải là phong cách Anh”. Trong nhiều năm chúng tôi chơi với sơ đồ 4-4-2 phẳng - ba tuyến rõ ràng và không có sự linh hoạt - nên thường cảm thấy rất khó khăn trong việc kiểm soát trận đấu những khi có bóng. Chúng tôi thường bị áp đảo về mặt quân số ở hàng tiền vệ, và thường mất rất nhiều sức lực để pressing giành lại bóng. Đấy là điều ai cũng nhìn thấy được. “Hãy chơi như khi chơi ở Premier League ấy,” nhiều người nói. Xin lỗi, nhưng không thể. Chuyện đâu có đơn giản như vậy. Mỗi lần chúng tôi cố gắng triển khai bóng từ hàng thủ, chúng tôi đều cảm thấy không nhận được đủ sự hỗ trợ, và lúc nào cũng nơm nớp nỗi lo mất bóng. Thế nên ngay khi đối phương gây sức ép, dù chỉ là nửa vời thôi, thì chúng tôi sẽ lập tức chuyển sang chơi bóng dài luôn, cho an toàn. Những đội tuyển khác suy nghĩ theo kiểu “nếu chúng ta có bóng thì họ sẽ không thể ghi bàn được.” Còn ở nước tôi, thông điệp là “cẩn thận đừng để mất bóng.” Tư duy chơi bóng của chúng tôi khác hoàn toàn với các đội tuyển khác. Có thể nói đó là văn hóa bóng đá Anh cũng được. Vấn đề là chơi theo cách đó, chúng tôi không kiểm soát được nhịp điệu của trận đấu, dẫn tới việc phải tiêu hao nhiều năng lượng hơn mà vẫn không tạo được một thế trận đủ chắc chắn. Nói một cách ngắn gọn thì đấy là kiểu chơi bóng “hên xui”.
May mắn là trong vài năm trở lại đây, phong cách của đội tuyển Anh đã có sự thay đổi. Và tôi phải thừa nhận là tôi từng mong rằng mình có cơ hội được thi đấu trong đội bóng của Gareth Southgate. Tiếc là đã quá muộn rồi. Giá mà tôi trẻ đi được vài tuổi thì tốt biết bao! Nhưng bạn có thể thấy trong kỳ World Cup ở Nga vừa rồi, đội tuyển Anh bây giờ đã có những cầu thủ chơi bóng ở khoảng trống giữa các tuyến, họ bớt cứng nhắc và trông thoải mái, tự tin hơn hẳn. Với cách chơi mới, chúng tôi ít phải lãng phí năng lượng hơn và có thể kiểm soát trong trận đấu những quãng thời gian dài hơn. Đó là điều sống còn nếu muốn cạnh tranh với những đội bóng mạnh nhất. Đội tuyển Anh bây giờ có khí chất hơn hẳn. Tôi thực sự rất ngưỡng mộ những gì mà Gareth đã làm được với đội tuyển, và cả cách mà ông khiến các cầu thủ tận hưởng các trận đấu nhiều hơn. Ta có thể cảm nhận rõ một niềm hạnh phúc đang lan tỏa trong lòng đội tuyển Anh. Tinh thần của đội trông rất tuyệt. Thật đáng buồn, và với tôi còn là nỗi đau, rằng tôi đã không có cơ hội được chơi bóng cho một tập thể tràn trề sức sống như thế trong tất cả những lần được triệu tập vào đội tuyển. Ước gì...
Tôi từng có hai lần đứng chung sân với Gareth, vào năm 2001, trong màu áo đội tuyển Anh, và tôi có thể cảm nhận rõ anh là một người rất mạnh mẽ. Trong cương vị huấn luyện viên đội tuyển Anh, sự mạnh mẽ ấy đã giúp Gareth tự tin theo đuổi con đường của riêng mình, và bỏ qua tất cả ồn ào từ truyền thông hay dư luận về việc nên chọn cầu thủ này hay cầu thủ kia. Làm huấn luyện viên đội tuyển thì phải thế. Nếu cứ để bị dư luận dẫn dắt thì mang cái danh huấn luyện viên đội tuyển Anh trên người có nghĩa lý gì? Sự mạnh mẽ ấy chính là điều mà đội tuyển thiếu trong nhiều năm. Đúng là huấn luyện viên của đội tuyển Anh luôn là người bị soi mói nhiều nhất, dư luận thay đổi thái độ theo từng trận và lúc nào cũng muốn điều chỉnh chỗ này hay chỗ kia. Nhưng những quyết định của ta không thể và không nên bị tác động bởi điều đó, đúng không? Tôi chưa bao giờ thấy Sir Alex hay José lựa chọn đội hình theo ý của dư luận, chưa bao giờ!
Ở Anh, ngay khi có một cầu thủ nào đó chơi tốt trong ba hay bốn trận cho câu lạc bộ của anh ta, người ta sẽ gào lên “CHỌN ANH TA ĐI!”, “anh ta xứng đáng, anh ta có phong độ tốt.” Đấy giống như là một kiểu văn hóa vậy. Nhưng làm sao mà ta có thể tìm ra được một đội hình ổn định nếu cứ thay đổi xoành xoạch như vậy? Không có sự ổn định tập thể thì sẽ chẳng bao giờ tiến bộ được. Tôi thường xem đội tuyển bóng bầu dục là một tấm gương. Để được lựa chọn, các cầu thủ cần phải chứng minh rằng họ có thể chơi bóng ở trình độ cao nhất trong nhiều tháng, thậm chí cả năm, hoặc hai năm. Có thể là sau khi đã vào được đội rồi, họ sẽ có lúc này lúc nọ, phong độ sẽ không được ổn định. Nhưng đó là điều hoàn toàn bình thường. Quan trọng là cách làm này góp phần nuôi dưỡng tính đồng nhất, và một tinh thần hướng về phía trước. Khi là huấn luyện viên, bạn cần phải đủ quyết đoán để vạch ra một kế hoạch và theo đuổi nó đến cùng, tất nhiên là vẫn phải vừa làm vừa điều chỉnh. Các cầu thủ khi đó sẽ có cơ hội được đánh giá năng lực qua cả một thời kỳ chứ không chỉ một vài trận, điều rõ ràng là tốt hơn cho họ.
Chặng đường phía trước của đội tuyển Anh là rất đáng chờ đợi. Việc lọt vào tới tận bán kết World Cup sẽ khiến họ phải chịu nhiều áp lực hơn, do mức độ kỳ vọng lúc này đã cao hơn. Thành công gần đây cũng giúp tạo ra mối liên hệ bền chặt giữa đội tuyển với công chúng, điều rất đáng buồn là đã không xảy ra trong suốt một thời gian quá dài. Hy vọng là mối liên hệ ấy có thể tồn tại được lâu.
Hành trình cùng đội tuyển Anh của tôi bắt đầu ở Chadwell Heath. Lúc đó khoảng 9 rưỡi sáng ngày thứ Sáu, 23 tháng 2 năm 2001. Harry cho gọi tôi vào văn phòng của ông. Khi tôi tới nơi, đã thấy ông đứng đó với một bản fax từ FA trên tay. “Chúc mừng, Michael, cậu vừa được triệu tập lên đội tuyển Anh.” Tôi lập tức lao tới cái điện thoại để thông báo cho cả gia đình. Lắng nghe phản ứng của họ thật là một trải nghiệm thú vị. Tôi thấy quá đỗi tự hào. Đó là đội hình đầu tiên mà Sven-Göran Eriksson triệu tập với tư cách huấn luyện viên trưởng của đội tuyển Anh. Chúng tôi sẽ gặp Tây Ban Nha trên sân Villa Park. Ngày hôm sau chúng tôi có trận đấu với Bradford. Tôi có cảm giác như mình phải cao tới hơn 3m. Tuy nhiên, về cuối trận, gân khoeo của tôi có chút vấn đề.
Bình thường thì tôi sẽ phải rút lui, nhưng Harry vẫn cho phép tôi lên tập trung với đội tuyển. Tôi được lái xe của Liên đoàn chở tới khách sạn New Hall ở gần Birmingham, và người đầu tiên tôi gặp là Michelle Farrer. Michelle có trọng trách giám sát và tổ chức mọi thứ, từ việc đảm bảo rằng chúng tôi sẽ có mặt đúng giờ trong các bữa ăn và các cuộc họp, tới việc chúng tôi sẽ mặc đúng trang phục cho từng dịp khác nhau. Michelle phổ biến nhanh cho tôi về lộ trình của những ngày sắp tới.
Lúc ấy tôi có cảm giác như mình đang làm thủ tục chuyển sang một ngôi trường mới vào giai đoạn giữa kỳ, với khác biệt duy nhất là các bạn học mới của tôi vô tình thế nào lại toàn là những thần tượng mà mới đây thôi tôi chỉ có thể nhìn ngắm qua ti vi. Vừa làm thủ tục nhận phòng, tôi vừa len lén nhìn những Beckham, Scholes, Owen, Fowler, Campbell khi họ đi qua. Toàn là các siêu sao cả! Thế mình đang làm cái quái gì ở đây? Lúc đó tôi vẫn còn rất nhút nhát, chỉ biết mỗi gật đầu và nói mấy câu chào hỏi đơn giản.
Trong bữa tối đầu tiên, tôi gặp Sven, một người rất lịch sự và cởi mở. Ông không nói quá nhiều, nhưng cũng đủ để tảng băng trong tôi tan chảy. Chọn được một chỗ ngồi là một công việc không hề dễ dàng, trong phòng toàn các ngôi sao lớn, mà tôi thì không biết bình thường họ ngồi ở đâu. Nếu có thể thì tôi chỉ mong mình đến rồi đi mà không bị ai chú ý. May mắn là tôi có Lamps, Rio và Coley, những người West Ham, để bám víu. Ngày đầu tiên cuối cùng cũng trôi qua trong êm ả. Ngày tiếp theo, tôi trở lại West Ham để tiếp tục điều trị chấn thương. Tôi đã không được góp mặt trong trận đấu đó, nhưng ít ra thì cũng đã có chút ít kinh nghiệm thực tế, phòng khi còn có lần tiếp theo.
Rất may là Sven không quên tôi. Ông lại triệu tập tôi cho những trận đấu tiêp theo, là các trận vòng loại World Cup với Phần Lan và Albania, diễn ra vào tháng 3. Lần đầu tiên được tập luyện với các tuyển thủ khác, tôi như đi trên mây. Tôi vừa phấn khích lại vừa căng thẳng, cố hết sức để không tỏ ra quá tệ. Cứ như thể là tôi vừa giành chiến thắng trong một cuộc thi, mà phần thưởng là một ngày được trải nghiệm cảm giác làm tuyển thủ vậy.
Thời điểm đó đội tuyển toàn những cá tính mạnh, người nào người nấy đẳng cấp đầy mình. So với họ thì tôi chỉ như trẻ nít. Tôi nhận thấy có sự phân chia rõ rệt trong phòng ăn. Một bàn gồm toàn các cầu thủ thuộc lứa ’92 của United. Họ gần như không rời nhau nửa bước. Đó là điều dễ hiểu bởi họ vừa là đồng đội vừa là bạn bè gắn bó với nhau từ lâu. Becks này, Butty này, Scholesy, Phil Neville và thường có cả Gary Neville, người vắng mặt hôm đó vì chấn thương. Một bàn khác gồm toàn các cầu thủ của Liverpool: Jamie Carragher, Owen, Gerrard, Robbie Fowler và Steve McManaman, người vừa chuyển sang Real Madrid.
Tôi quan sát kỹ nhất cử nhất động của họ. Họ ăn gì? Họ cư xử như thế nào? Thái độ của họ ra sao? Tôi cảm thấy hơi lạc lõng một chút, và biết rằng tôi sẽ phải nỗ lực rất nhiều để chứng tỏ mình. Sven trao cho tôi cơ hội đầu tiên vào ngày 25 tháng 5, trong trận giao hữu với Mexico ở Pride Park. Trước khi chúng tôi giải tán để chuẩn bị cho trận đấu, Sven sẽ tập hợp mọi người lại để phổ biến chiến thuật. Ông có một cái sa bàn nhỏ, mỗi khi đội họp ông sẽ dựng nó lên bàn, hơi dựa vào người, tay không ngừng di chuyển các quân cờ màu xanh và đỏ để minh họa cho những gì mà ông kỳ vọng ở chúng tôi cũng như chờ đợi từ đối thủ. Ông thường cố làm sao cho mọi chỉ dẫn đơn giản nhất có thể, và đặt rất nhiều niềm tin vào các cầu thủ chúng tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được ngày tôi ra mắt đội tuyển, đó chắc chắn là ngày đáng tự hào nhất trong cả cuộc đời tôi. Tôi nhớ tới cả những chi tiết nhỏ nhất, ví dụ đèn xe cảnh sát dẫn đường nhấp nháy thế nào, tôi ngồi cạnh ai (Coley) trên xe buýt, tôi đã cảm thấy phấn khích và hồi hộp ra sao trong khi chờ đợi những gì sắp diễn ra. Coley tự tin hơn tôi nhiều. Anh hiểu rõ bản thân mình, và trong tính cách có chút gì đó có thể gọi là “đường phố”. Tôi thì khác. Tôi khép kín hơn, và ở thời điểm đó, có thể nói là tôi không mấy tự tin về năng lực của bản thân. Ngay cả khi tôi biết rằng mình chuẩn bị có cơ hội được ra sân trong màu áo đội tuyển Anh, tôi vẫn cảm thấy mình không cùng hội cùng thuyền với những người ngồi chung xe buýt hôm đó. Chính xác là tôi thấy mình vẫn còn ở một trình độ quá thấp so với những người còn lại.
Tôi không đá chính trận đó, nhưng vẫn thấy nổi hết cả da gà khi hát quốc ca, cũng như khi nhìn thấy các cổ động viên xếp thành hình cờ Thánh George trên khán đài. Đây có phải là sự thật không nhỉ? Tôi không thể không nghĩ về mẹ, bố, Graeme và Lisa, những người đã có mặt trên khán đài hôm đó. Đêm nay là một đêm đặc biệt với cả gia đình tôi, cũng như với tất cả các huấn luyện viên, giáo viên, và cả những người bạn, những người đã góp công, dù ít dù nhiều, để tôi có thể được như ngày hôm nay.
Vì sân Wembley đang trong quá trình tu sửa, nên các trận đấu của đội tuyển Anh được tổ chức ở nhiều sân bóng khác nhau trên khắp cả nước. Chính điều đó lại tạo nên một bầu không khí mới mẻ và tích cực hơn xung quanh các trận đấu, bởi vì những người thường không có cơ hội được xem đội tuyển thi đấu nay sẽ có cơ hội, và họ sẽ làm mọi thứ để không có gì phải hối tiếc.
Tôi theo dõi hiệp một của trận đấu từ băng ghế dự bị, nhưng thú thật là tôi không nhớ được gì nhiều. Nhớ nhất là hôm đó Becks trình làng kiểu đầu Mohican, theo cách mà chỉ có Becks mới làm được. Ở thời điểm ấy, anh đã được nâng lên tầm siêu sao, nhưng với tôi, ấn tượng lớn nhất về anh vẫn là khát khao chiến thắng. Becks vẫn tập luyện như điên, chưa bao giờ gặp điều tiếng gì liên quan tới vấn đề thái độ. Trong đội hình tuyển Anh lúc ấy, Becks chính là ngôi sao sáng nhất, Sven tin tưởng ở anh, và anh cũng không mấy khi khiến ông phải thất vọng. Ảnh hưởng của Becks là rất lớn. Đêm đó anh ghi được một bàn thắng từ pha đá phạt quen thuộc. Tư thế của Becks khi chuyền bóng là có một không hai. Tôi có thể dành cả ngày chỉ để xem đi xem lại những pha chuyền bóng của Becks - chúng giống như những tác phẩm nghệ thuật. Cả anh lẫn Scholesy đều là những chân chuyền xuất sắc. Ở cự ly 40/50/60m thì chẳng biết ai hơn ai. Mỗi người có những kỹ thuật chuyền bóng riêng, nhưng về độ hiệu quả thì không khác nhau mấy. Becks chuyền bóng như khi ta đánh golf, thường dùng má siết vào cạnh trái bóng, nên bóng thường xoáy và đi theo những quỹ đạo hình cong. Scholesy thì lại dùng mu nhiều hơn, giống như khi đang sút bóng, nên trái bóng từ những đường chuyền của anh thường vút đi như một mũi tên và không xoáy một tí nào. Mắt cá của Scholesy rất vững. Tôi lúc nào cũng ao ước chuyền bóng được như anh, nhưng ao ước chỉ là ao ước, bởi vì mắt cá của tôi rất yếu. Chúng rất thiếu linh hoạt, nên tôi thường không thể chúc các ngón chân của mình xuống đủ sâu, do đó đành phải chọn phương án chuyền bóng bằng má. Cũng trong đêm đó Scholesy đã ghi được một bàn thắng từ một pha nã đại bác sở trường.
Bước vào giờ nghỉ giữa hai hiệp, tôi nhận được tín hiệu thông báo rằng tôi sẽ được vào sân trong hiệp hai. Coley cũng thế. Cũng như tôi, anh sắp sửa có trận ra mắt đội tuyển Anh. Chúng tôi khởi động cùng các cầu thủ còn lại trong khoảng 5 phút, rồi trở lại phòng thay đồ để nghe những chỉ đạo cuối cùng. Thời điểm tôi mặc xong áo và đeo xong bảo vệ ống đồng cũng là lúc cảm xúc trong tôi trào dâng. Đầu óc tôi như quay cuồng. Toàn bộ hành trình mà tôi đã đi qua xuất hiện lại trước mắt tôi như những thước phim chiếu chậm. Khi đứng trên đường biên chờ vị trợ lý trọng tài ra tín hiệu cho vào sân, tôi chợt nghĩ về ông nội, thầm ước rằng ở trên trời cao kia ông có thể chứng kiến được khoảnh khắc này. Tôi biết là ông sẽ tự hào về tôi lắm. Ông là người đã dìu tôi bước những bước đầu tiên trên cuộc hành trình này, và bây giờ, tôi sắp sửa chạm được vào một trong những cột mốc quan trọng nhất.
Và rồi thời khắc được chờ đợi nhất cũng tới. Số áo của tôi hiện lên trên bảng điện tử: cậu nhóc từ Wallsend đã có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Anh! Trong khi chạy vào sân, tôi đảo mắt một vòng để ghi nhớ vị trí của các đồng đội. Tôi chơi bên cạnh Butty ở hàng tiền vệ. Tôi vẫn còn nhớ như in những diễn biến của trận đấu đó. Trong một tình huống, tôi nhận bóng từ cánh phải, xoay người rồi chuyền cho Chris Powell bên cánh trái. Pha đảo cánh ấy nhận được những tràng vỗ tay tán thưởng từ các khán đài. Tôi không biết tại sao, đường chuyền ấy chẳng có gì đặc biệt cả, nhưng khán giả vẫn cứ vỗ tay không ngừng. Nhưng rồi tôi cũng nhanh chóng bị kéo tuột lại mặt đất. Teddy Sheringham gầm gừ, “Chuyền bóng cho tôi đi, chuyền lên phía trước ấy!” Lúc ấy, Teddy, theo thói quen, đã lùi xuống chơi như một số 10. Đó là một ký ức quá sống động mà tôi sẽ không bao giờ có thể quên được. Tôi giơ tay ra dấu xin lỗi. Đó chính là sự khác biệt; ở trình độ này, không có chi tiết nào là vô nghĩa cả. Trận đó tôi đã chơi rất hay và chúng tôi giành chiến thắng 4-0. Tôi rời sân với niềm tin rằng tất cả chỉ mới là sự khởi đầu, tôi sẽ có thêm nhiều trận đấu nữa.
Sven rất kiên định trong việc lựa chọn đội hình, đôi khi hơi thái quá, nhưng tôi tôn trọng cách làm đó của ông. Dù thế nào thì đây cũng đang là kỷ nguyên mà người ta hay gọi là “Thế hệ Vàng”. Không cần biết chúng tôi chuẩn bị đá với ai hay phong độ của các cầu thủ thế nào, đội hình xuất phát gần như không bao giờ thay đổi. Chúng tôi may mắn sở hữu một số trong những cầu thủ xuất sắc nhất trên thế giới, và tất cả đều đang đạt tới độ chín. Một trong những điều khiến tôi thấy khó chịu nhất là việc Scholesy bị đẩy ra chơi như một tiền vệ trái trong một thời gian để phục vụ mong muốn của huấn luyện viên là nhồi nhét tất cả những cầu thủ giỏi nhất vào đội hình xuất phát. Dù có là thiên tài thì Scholesy cũng chẳng thể chơi tốt được ở vị trí mà anh không hề quen thuộc. Thật là một điều đáng tiếc. Có nhiều cách khác để khai thác tốt nhất tài năng của những cầu thủ giỏi nhất mà, đâu nhất thiết cứ phải tung họ vào sân cùng lúc! Tập hợp của 11 cầu thủ giỏi nhất đâu có tạo thành một đội bóng mạnh nhất. Nhưng dù thế nào thì cũng phải thừa nhận là lứa cầu thủ ấy của chúng tôi quá dữ. Sol, Rio, John Terry, Nev, Ashley Cole, Becks, Lamps, Gerrard, Owen, và sau này có thêm Wazza nữa. Nếu có thể kết hợp những nhân tố khác lạ như Coley, Ledley King và Owen Hargreaves vào nữa, thì đội tuyển Anh hoàn toàn có thể trở thành một thế lực không thể ngăn cản.
Họ là một lứa cầu thủ đặc biệt. Tôi nói là “họ” vì tôi không phải là một phần trong đó. Tôi ước gì mình được chơi cho đội tuyển nhiều hơn. Ở đầu mùa giải tiếp theo, tôi được đá chính trong trận đấu với Hà Lan, nhưng sau đó không chơi thêm trận nào nữa trong suốt bốn năm trời. Tôi đâu có đáng bị như thế. Rồi tôi không duy trì được phong độ cao nhất vì gặp vấn đề với cơ háng và xương chậu, như tôi từng đề cập, ngoài ra còn vì tôi là thành viên của đội West Ham bị rớt hạng ở Premier League.
Nhưng tôi vẫn được triệu tập vào đội U21 Anh, nơi tôi lần đầu tiên biết tới khái niệm “Eggyboff”. Đó là một trò chơi khởi nguồn từ đội trẻ của Spurs. Luật chơi đại thể là nếu có ai đó nói rằng “người đứng dậy tiếp theo sẽ là Eggyboff”, thì bạn không được làm điều đó. Nếu bạn làm thì bạn sẽ là Eggyboff, và sẽ chẳng ai được nói chuyện với bạn. Nghe đơn giản và có chút trẻ con đúng không? Ấy thế nhưng không hiểu bằng cách nào, trò đó trở nên phổ biến trong các đội trẻ và thậm chí còn tìm được đường lên các đội tuyển trẻ của Anh. Vào một ngày của năm 2002, khi tôi và các thành viên khác của đội U21 Anh, lúc đó do David Platt quản lý, chuẩn bị xuống xe buýt để vào sân tập, thì có ai đó kêu lên: “Đứa nào xuống xe trước thì đứa đó là Eggyboff”. Phản ứng đầu tiên của tất cả các cầu thủ là khựng lại. Chúng tôi đang bước vào một cuộc chiến tâm lý căng thẳng. Ai sẽ là người không chịu được nhiệt và bước xuống trước? Chẳng ai cả. Hai phút, rồi năm phút trôi qua. Một thành viên trong ban huấn luyện sốt ruột quá phải kêu lên “Thôi nào các cậu!” Một vài người đứng dậy làm như thể chuẩn bị rời khỏi xe buýt thật, nhưng đi được vài bước thì lại ngồi xuống một chiếc ghế khác. Tôi thấy chẳng có gì đáng tự hào. Làm thế là chúng tôi đã tỏ ra thiếu tôn trọng những người khác. Dù nó cũng có cái hay là giúp chúng tôi thể hiện được sự nhất trí đồng lòng, qua việc tất cả không ai bảo ai đều không chịu nhúc nhích. Sau khoảng 15 phút đứng giữa sân xem các cầu thủ làm trò, Platty quyết định lên xe và lôi từng thằng một xuống. Ông cứ đứng ở đầu xe, chờ cho tới khi tất cả các cầu thủ bước xuống mới thôi.
Tôi cuối cùng cũng có cơ hội trở lại với đội tuyển sau một năm gắn bó với Spurs. Ở một góc độ nào đó thì lần trở lại này còn có nhiều ý nghĩa hơn cả lần đầu tiên, bởi vì trước đó là quãng thời gian mấy năm quá khó khăn với tôi. Tôi vừa theo dõi hành trình của đội tuyển, vừa đau đớn tự hỏi liệu có phải tôi sẽ không bao giờ có thêm một cơ hội nào nữa. Tôi rất tự hào khi được có mặt trong thành phần đội tuyển du đấu châu Mỹ vào mùa hè năm 2005, đã thế lại còn được đá chính trong các trận đấu với Mỹ và Colombia. Với nhiều người thì đó là những trận giao hữu vô nghĩa, nhưng tôi không bao giờ nghĩ thế. Với tôi đó là một cơ hội lớn. Và tôi đã nắm bắt được cơ hội đó, để chứng minh với Sven rằng tôi xứng đáng có một suất trong danh sách dự World Cup 2006 ở Đức.
Tôi hướng về nước Đức với khí thế bừng bừng sau khi đã trải qua mùa giải tuyệt vời nhất và chơi thứ bóng đá ấn tượng nhất, ít nhất là cho tới thời điểm đó. Tôi thấy mình đã tạo được một vị thế tốt. Vào tháng 3, tôi lại có cơ hội được chơi trọn vẹn 90 phút, trong trận giao hữu với Uruguay ở Anfield, và đã thể hiện rất ấn tượng.
Cảm giác phấn khích và hồi hộp trong thời gian trước World Cup thật khó diễn tả thành lời, dù đây là giấc mơ mà tôi đã theo đuổi trong một thời gian rất dài. Chỉ riêng sắp xếp chỗ ăn ở và chuyện đi lại cho cả gia đình cũng đủ khiến tinh thần phấn chấn. Tôi chẳng khác nào một thằng nhóc trong đêm Giáng sinh háo hức chờ đợi Ông già Noel xuống tặng quà. Chúng tôi đóng quân ở đại bản doanh Schlosshotel Bühlerhöhe và Baden-Baden trong mối quan ngại lớn liên quan tới thể lực của Wazza, người vẫn đang trong quá trình hồi phục chấn thương bàn chân mà anh gặp phải vào tháng 4. Wazza với chúng tôi là người không thể thay thế. Ngay từ hồi EURO 2004, dù chỉ xem qua truyền hình, tôi cũng đã nhận ra tầm ảnh hưởng lớn của Wazza, người lúc đó vẫn còn rất trẻ. Ở thời điểm trận đấu giữa Anh với Bồ Đào Nha diễn ra, Wazza chỉ mới 18 tuổi, nhưng Chúa ơi, tôi chưa thấy cầu thủ nào ấn tượng hơn! Đội hình của đội tuyển Anh trong năm 2004 toàn những siêu sao hàng đầu thế giới, nhưng Wazza vừa xuất hiện đã lập tức trở thành ngôi sao sáng nhất. Nói không quá chút nào, Wazza có thể làm được mọi việc. Khi Wazza đạt phong độ cao, xem anh chơi bóng thật đã mắt. Anh rất nhanh, rất khỏe, rất quyết liệt, và lúc nào cũng hừng hực khát khao chiến thắng. Nếu định tạo ra phiên bản của một cầu thủ nào đó, hãy chọn Wazza ở thời điểm đó. Những câu chuyện trước thềm World Cup của chúng tôi chỉ xoay quanh vấn đề sức khỏe của Wazza. Anh bay tới bay lui không ngừng giữa Đức và Anh để thực hiện các bài kiểm tra. Sir Alex tỏ ra rất lo lắng, điều hoàn toàn dễ hiểu. Wazza là ngôi sao của ông và đương nhiên ông có trách nhiệm đảm bảo anh sẽ bước vào mùa giải sắp tới trong tình trạng sẵn sàng. Cuối cùng thì các bác sĩ cũng thông báo là Wazza đủ thể lực để ra sân. Cả đất nước như cất được một gánh nặng. Tất nhiên là anh vẫn chưa sẵn sàng 100%, đó là điều không thể trong thời gian gấp gáp như vậy, nhưng chỉ riêng sự có mặt của anh đã là một cú hích với toàn đội.
Tôi đến Đức trong tâm thế chẳng có gì để mất, bất kỳ điều gì xảy ra cũng là một trải nghiệm quý. Tôi biết rằng tôi không nằm trong danh sách những cầu thủ có khả năng được đá chính cao, nhưng điều đó không ngăn được tôi thể hiện hết khả năng trên sân tập. Tôi xem mỗi buổi tập là một cơ hội mà tôi phải tận dụng triệt để. Steve McClaren là một huấn luyện viên tuyệt vời, đúng mẫu huấn luyện viên tôi luôn muốn được làm việc cùng. Ở đội tuyển, tôi cũng không quá cô đơn khi luôn có bên cạnh mình những đồng đội tới từ Spurs là Jermaine Jenas và Aaron Lennon. Tôi chẳng còn mối bận tâm nào khác, nên có thể dồn toàn tâm toàn trí cho các buổi tập, với hy vọng mình sẽ được trao một cơ hội.
Người thân của các cầu thủ được bố trí ở tại Brenners Park, tất nhiên là Lisa cũng ở đó với gia đình tôi. Tôi muốn mọi người có được một trải nghiệm trọn vẹn về sự kiện này. Đó là cơ hội có thể chỉ đến một lần trong đời. “Em háo hức quá,” Lisa nói. Nhưng rồi mọi việc thành ra điên rồ. Bên ngoài khách sạn đầy thợ săn ảnh, bên trong đầy phóng viên. Lisa tự nhiên thấy mình xuất hiện trên trang bìa của tờ The Sun. Trong ảnh, cô ấy đang nâng cao Cúp Vàng với Neville Neville (bố của anh em nhà Neville). Có vẻ như có ai đó đã cố tình dàn cảnh. Lisa kể lại rằng cô ấy đang ở trong một quầy bar có tên là Garibaldi thì có mấy người bảo là nhân viên khách sạn đưa cho họ chiếc Cúp và xin chụp ảnh. Không hiểu sao sau đó nó lại chình ình trên mặt báo. Có lẽ Lisa đã hơi ngây thơ, nhưng tôi chẳng trách được cô ấy. Tôi có xem một vài tấm, trông cũng không ổn lắm, nhưng thực ra cũng chẳng gây hại gì. Khi chúng xuất hiện trên báo, nhiều người nói, “À, tệ quá. Làm thế này thì làm sao mà các cầu thủ có thể tập trung.” Thú thực là với ai không biết, với tôi thì chẳng có gì khiến tôi mất tập trung cả. Nhưng tôi nghĩ là Lisa vẫn cảm thấy có lỗi. Chúng tôi đã luôn cố gắng tránh mọi sự ồn ào. Điều tích cực, theo tôi, là tai nạn đó khiến cô ấy hiểu thêm một chút về sự soi mói mà những cầu thủ như tôi phải chịu đựng. Điều tệ hại là họ đột nhiên không thể rời khách sạn. Với họ thì điều đó thật kinh khủng. Lisa, bố mẹ và Graeme đều quá căng thẳng, chẳng còn tâm trí đâu mà hưởng thụ nữa. Bất kỳ việc gì họ làm cũng có nguy cơ “được” lên báo. Hôm trước Lisa đi chơi tennis, hôm sau ảnh của cô ấy đã tràn ngập các sạp báo rồi. Cuối cùng họ phải chọn cách che kín mọi cửa sổ. Thật đáng buồn, lẽ ra được góp mặt ở một kỳ World Cup phải là điều tuyệt vời nhất trên đời đối với gia đình tôi.
Trên sân, cuối cùng cơ hội của tôi cũng tới. Gary Neville bị căng cơ sau các trận đấu ở vòng bảng. Trong trận đấu với Ecuador ở vòng 16 đội, trận đấu diễn ra vào ngày 25 tháng 6 ở Stuttgart, Hargreaves được kéo về đá ở vị trí hậu vệ phải thay Gary, còn tôi thì thế vào vị trí của anh ở hàng tiền vệ, ngay sau lưng Lamps và Gerrard. Đó là trận đấu chính thức đầu tiên của tôi trong màu áo đội tuyển Anh, nhưng tôi chẳng thấy có chút áp lực nào cả. Khi Sven thông báo tôi sẽ được đá chính, tôi chỉ muốn vồ lấy điện thoại để gọi ngay cho bố mẹ, Lisa và Graeme. Nhưng trong lòng tôi thấy cũng bình thường, ít ra là tôi không phát cuồng lên vì phấn khích như từng nghĩ. Tôi vẫn còn bức ảnh chụp cả gia đình trong phòng khách sạn trước trận đấu. Mọi người khoác trên mình những chiếc áo đấu chưa một lần được sử dụng của tôi ở các trận đấu vòng bảng, nhảy nhót và hát hò tưng bừng trên giường. Tôi rất tự hào, và đúng là có chút phấn khích thật, nhưng việc của tôi là không được phép để cho cảm xúc dẫn dắt. Cảm giác lúc này không giống như khi bạn bè lôi nhau vào quán rượu hay tổ chức tiệc nướng trong vườn để cùng xem một trận đấu, vừa xem vừa nhâm nhi chút bia. Không giống một chút nào. Với mọi người thì những sự kiện kiểu này là dịp để cảm xúc dâng trào, nhưng là một cầu thủ, tôi phải giữ được sự lạnh lùng, làm gì cũng phải có tính toán. Thực ra đời cầu thủ không có sung sướng như các bạn nghĩ đâu. Nếu thắng thì sẽ có thêm chút phấn khích, nhưng nói chung là cho tới thời điểm đó, tôi thấy mình giống như đang sống trong một chiếc bong bóng.
Đêm trước khi trận đấu với Ecuador diễn ra, có một nhóm cổ động viên tụ tập hát hò trên con phố bên ngoài khách sạn của chúng tôi ở Stuttgart. Đó là lúc cảm xúc bắt đầu lên cao. Ở Baden-Baden, chúng tôi mắc kẹt trên đỉnh của một con đồi giữa chốn không người, nên chẳng có cảm giác gì là đang ở giữa một kỳ World Cup cả. Chúng tôi chẳng gặp gỡ bất kỳ ai, ngày nào cũng như ngày nào, chỉ có một lộ trình từ khách sạn tới sân tập và ngược lại, và cứ ba hay bốn ngày lại được ra ngoài gặp gỡ gia đình trong khoảng một hay hai tiếng gì đó. Qua ti vi, chúng tôi biết điều gì đang diễn ra, nhưng thực sự là trong phần lớn thời gian, chúng tôi gần như những kẻ ngoài cuộc. Ở quê nhà, cả nước đã lên cơn sốt World Cup, xe cộ, nhà cửa, các quán bar, đâu đâu cũng thấy sắc màu của đội tuyển. Đêm trước trận đấu với Ecuador, lần đầu tiên tôi cảm nhận được cơn sốt ấy, và thế là thành ra mất ngủ. Điện thoại bắt đầu phải hoạt động hết công suất sau khi thông tin tôi được đá chính lộ ra ngoài. Tôi nhận được không biết bao nhiêu là tin nhắn, trong đó nhiều tin nhắn đến từ những người mà tôi đã nghĩ là sẽ không bao giờ gặp lại. Thế mới biết hiệu ứng của World Cup khủng khiếp đến thế nào. Cơn điên này là có thật!
Chúng tôi có một cuộc họp ngắn với Sven trước khi lên xe đến sân vận động; đó là một cuộc họp nhẹ nhàng, không có những lời đao to búa lớn, mà chỉ có những chỉ dẫn đơn giản. Nhiệm vụ mà tôi được giao không có gì đặc biệt. Tôi sẽ phải cố gắng cung cấp bóng cho các cầu thủ ở tuyến trên càng nhiều càng tốt, trong khi vẫn phải bảo vệ bộ tứ vệ. Vừa tới sân Gottlieb-Daimlerm, chúng tôi đã cho chạy luôn list nhạc quen thuộc. Tất cả các cầu thủ đều được yêu cầu chọn ra một bài hát để đưa vào danh sách ngẫu nhiên do David James quản lý. Tôi chọn bài Get Up (Everybody) của Byron Stingily. Cuối cùng, nó trở thành bài hát mà chúng tôi luôn phát ngay trước khi rời khỏi phòng thay đồ chuẩn bị bước vào trận đấu, như một cách để lên giây cót tinh thần. Không tính trận đấu với Ecuador thì chọn bài hát đó chính là đóng góp lớn nhất của tôi ở giải đấu năm ấy.
Bên ngoài, trời nóng như thiêu như đốt, nên cả đội chui vào tập khởi động ở một góc có bóng râm, cố gắng giữ lại được tí năng lượng nào hay tí đó. Tôi nhìn thấy cả nhà ở trên khán đài, nhưng cũng chỉ vẫy tay một cái rồi thôi. Tôi muốn dành hết tâm trí cho trận đấu. Lúc hát quốc ca là thời khắc duy nhất tôi để cho cảm xúc lấn át, nhưng bởi tôi không đến đây để du lịch, nên phải nhanh chóng kéo tâm trí của mình trở lại với trận đấu. Tôi nghĩ về những phút đầu tiên - đường chuyền đầu tiên, cú tắc đầu tiên, cách chọn vị trí... - cố gắng vẽ ra trong đầu mình những bức tranh nhỏ về những gì mà tôi sắp sửa phải đối mặt. Điều quan trọng duy nhất là chúng tôi phải thắng. Không cần biết chơi tốt hay chơi dở, cứ thắng là được. Thật may mắn là chúng tôi đã đạt được mục đích của mình sau một bàn thắng từ pha đá phạt hàng rào quen thuộc của Becks. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, thực sự là trước trận đấu tôi phải chịu khá nhiều áp lực. Tôi chơi ổn, nhưng không có gì đặc biệt. Nhưng không hiểu sao trên truyền hình, Alan Hansen với Alan Shearer lại khen tôi đá tốt. Thế là người ta bắt đầu nhảy xồ lên. “Đỉnh cao”, “Cầu thủ hay nhất trận”, “Bây giờ không ai có thể loại anh ấy ra khỏi đội nữa”, “Tại sao anh ấy phải chờ lâu tới vậy mới được ra sân”, vân vân và vân vân. Cứ như thể là tôi vừa giải cứu thế giới xong ấy.
Tôi cảm thấy thất vọng khi Sven không tung tôi vào sân trong trận tứ kết với Bồ Đào Nha, nhưng tôi hoàn toàn hiểu được lý do ông làm thế. Nev đã có thể tái xuất và Owen vì thế được trả lại hàng tiền vệ. Đó là công thức mà Sven tin tưởng, và tôi chấp nhận điều đó. Tôi không thể vừa nói rằng ta cần phải chứng tỏ được năng lực của mình trong một thời gian dài, vừa hy vọng chỉ sau một trận là có thể được có mặt ở một trong những trận đấu lớn nhất. Tôi thậm chí còn suy nghĩ ngược lại. Tuy nhiên, cũng có khi chuyện chỉ là bạn đã nắm được thời cơ của mình, và tôi cảm thấy đó là điều mà tôi đã làm được sau trận đấu với Ecuador. Sven bước tới khi chúng tôi đang tập đội hình một ngày trước trận tứ kết và nói, “Ngày mai cậu sẽ không ra sân nhé, Michael.” Đơn giản và súc tích thế thôi. Còn tôi thì thất vọng ghê gớm.
Wazza đã dần lấy lại được thể lực tốt nhất, nhưng trong trận đấu, Ricardo Carvalho không ngừng có những tiểu xảo để làm cho anh ấy cảm thấy khó chịu. Trong một tình huống tranh chấp, Wazza đã phản ứng lại bằng cách giẫm lên chân của Carvalho. Cũng không có gì ghê gớm, nhưng thế là đủ để Carvalho lăn lộn trên sân và Wayne phải nhận thẻ đỏ. Đó là tình huống gợi nhớ lại tình huống Becks nhận thẻ đỏ trong trận đấu với Argentina ở France ’98. Ronnie hướng về phía khu kỹ thuật và nháy mắt với hàm ý “Ok rồi”, thế là các cổ động viên của chúng tôi cũng như cánh báo chí được thể nhảy dựng lên và không ngừng chì chiết anh trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng tiếp theo. Họ hả hê vì tìm được một vật tế thần. Ronnie tới đây là để chiến thắng, nên các bạn phải hiểu rằng giữa lúc nước sôi lửa bỏng ấy anh chả quan tâm đó là Wazza, Rio hay bất kỳ ai khác. Thẻ đỏ của Wazza khiến cho cơ hội giành chiến thắng của Bồ Đào Nha tăng lên. Thế thôi. Tôi thực sự không thấy có vấn đề gì với hành động của Ronnie. Ở trình độ này, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể và vào bất kỳ lúc nào có thể để chiếm được dù chỉ là một centimet lợi thế.
Chỉ còn mười người, nhưng chúng tôi đã chơi tốt, và kéo được trận đấu vào loạt penalty. Khi trận đấu chỉ còn 2 phút, Jamie Carragher được tung vào sân thay cho Aaron Lennon. Anh sẽ là một trong những người đá luân lưu. Trong nhiều tuần liền, Carra bao giờ cũng là người xuất sắc nhất trong các buổi tập đá penalty. Anh chẳng đá trượt bao giờ. Mỗi lần tập sút, chúng tôi đều bắt đầu đi từ vòng tròn giữa sân, cố gắng mô phỏng càng giống khung cảnh của một cuộc đấu súng thật sự càng tốt. Việc làm giảm áp lực là điều không thể, nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng có thể mài giũa được kỹ năng của mình và có sự chuẩn bị về mặt tinh thần. Đáng tiếc làm sao, Carra đã đá hỏng. Gerrard và Lamps cũng thế. Cả ba đều nằm trong số những cầu thủ đá penalty tốt nhất trên thế giới. Những loạt penalty của đội tuyển Anh luôn nhận được sự chú ý đặc biệt. Cũng phải thôi, bởi vì chúng tôi đã thất bại quá nhiều, tới sáu lần trong tám cuộc đấu súng tính tới trước thời điểm ấy. Thật may là đội bóng của Gareth Southgate đã giành chiến thắng trên chấm 11m trước Colombia (ở World Cup 2018). Về khoản đá penalty thì tôi không phải là chuyên gia. Tôi từng bỏ lỡ hai hay ba quả penalty gì đó, nhưng vấn đề là mỗi lần tôi chuẩn bị sút bóng, nỗi sợ hãi thất bại lại xâm chiếm lấy đầu óc tôi, khiến trong tôi lúc nào cũng vang lên câu hỏi Nếu chẳng may? Khi những ý nghĩ tiêu cực đã len lỏi được vào đầu óc bạn thì mọi chuyện sau đó trở nên khó khăn hơn bội phần. Tôi rất may mắn khi đã thực hiện thành công cú đá quan trọng nhất, tất nhiên là cú đá trong trận đấu ở Moscow. Nhưng cũng chính tôi sau đó một năm đã đá hỏng một quả penalty trong trận đấu với Burnley và vào năm 2015, đá hỏng một quả nữa trong trận đấu với Middlesbrough ở Old Trafford. Tôi từng mất rất nhiều công sức đi tìm câu trả lời. Cuối cùng, tôi biết rằng vấn đề nằm ở sự tập trung, tâm trạng tích cực, và đầu óc thông suốt. Ở Moscow, tôi cảm thấy thoải mái hơn so với ở Turf Moor.
Trở lại trận đấu với Bồ Đào Nha. Thời điểm đó, bao quanh đội tuyển Anh luôn là những cảm xúc tiêu cực, đặc biệt do tác động từ bên ngoài. Người ta lúc nào cũng cố tình nhấn mạnh vào những thất bại của chúng tôi, khiến tôi có cảm giác là người ta cảm thấy thích thú khi chúng tôi thất bại, và tệ hơn là chỉ mong chúng tôi thất bại. Rồi khi mà chúng tôi thua hay chơi không tốt thật, họ sẽ đồng loạt nói theo kiểu “đấy, tôi đã nói rồi mà”. Thật buồn đó lại là một kiểu văn hóa ở xứ tôi. Mọi đội tuyển mà tôi từng góp mặt đều bị tác động bởi thứ văn hóa ấy, và nó không trừ một ai, từ các huấn luyện viên tới các cầu thủ. Chúng tôi không thể cứ thế bơ nó đi. Chiếc áo này đầy sức nặng, đấy là điều mà ai cũng có thể nhìn thấy. Phòng thay đồ thì toàn những nhà vô địch. Ấy vậy mà đội tuyển Anh vẫn luôn bị xem là một đội bóng thất bại, một đội bóng không bao giờ có thể vươn tới thành công. Chúng tôi không thể nào xây dựng được một đội bóng đúng nghĩa và tạo nên một môi trường mà trong đó mọi cầu thủ đều có thể phát huy hết năng lực. Văn hóa xoáy sâu vào những điều tiêu cực tác động lên chúng tôi cũng thường xuyên như việc người ta chờ đợi đội tuyển Anh thất bại. Với đội tuyển Anh, tôi lúc nào cũng ở trong tư thế phải bảo vệ chính mình và cả đội. Với United, chúng tôi không bao giờ nói về báo chí. Chúng tôi không quan tâm người ta viết gì hay nói gì về mình. Với đội tuyển Anh thì hoàn toàn trái ngược. Và bạn có thể dễ dàng nhận thấy tác động tiêu cực của nó.
Chuyện chỉ có thể tệ hơn khi Steve McClaren tiếp quản lại đội bóng từ Sven. Steve là một huấn luyện viên giỏi, ông tham gia rất sâu vào việc thiết kế tất cả các bài tập dưới thời Sven, nên việc ông được trao quyền dẫn dắt đội tuyển có thể xem là một chuyển biến hết sức tự nhiên. Tôi còn cho rằng đó là một sự bổ nhiệm tốt. Nhưng chuyển từ một huấn luyện viên thành một nhà quản lý là điều không hề dễ dàng, nhất là trong cách kiểm soát mối quan hệ với các cầu thủ. Từ chỗ đang giao tiếp với nhau như bạn bè hằng ngày một bước lên thành sếp là cả một bước nhảy vĩ đại.
Quãng thời gian tiếp theo thật khó khăn. Tôi ra sân trong trận đấu với Croatia vào tháng 10 năm 2006, nhưng trận đó chúng tôi thua 0-2 sau khi Paul Robinson khống chế hụt một đường chuyền về của Gary Neville. Tới trận đấu với Andorra ở Barcelona, tôi trở lại băng ghế dự bị, và từ đó có thể cảm nhận rõ sự tàn nhẫn của các cổ động viên. Họ như muốn ăn tươi nuốt sống Steve McClaren. Tôi thấy buồn cho Steve, chúng tôi thắng 3-0, thế mà họ vẫn đòi lấy đầu ông ấy. Steve không thường cho tôi đá chính, thậm chí còn nhiều lần bỏ qua không triệu tập tôi. Nhưng không vì thế mà tôi có thể làm ngơ trước những gì mà ông ấy phải chịu đựng. Huấn luyện viên của đội tuyển Anh là một trong những công việc đáng mơ ước nhất trên thế giới. Nhưng chẳng có lợi ích nào bù đắp nổi cảm giác tổn thương do bị chính các cổ động viên của mình chửi rủa. Đây cũng là quãng thời gian đáng quên nhất của tôi trong sự nghiệp khoác áo đội tuyển Anh. Tôi đang thể hiện một phong độ rất tốt ở United, nhưng những người được chọn luôn là Alan Smith và Phil Neville, ngay cả khi họ không phải là những tiền vệ trung tâm thực thụ. Tất nhiên phải nói ngay là tôi không có ý gì với Alan hay Phil, tôi rất tôn trọng cả hai. Trận đấu trên sân của Estonia vào tháng 6 năm 2007 là một trong những thời khắc tồi tệ nhất của tôi, khi bị Steve đẩy lên khán đài. Lúc đó, tôi vừa vô địch Premier League, vào bán kết Champions League, và có mặt trong trận chung kết FA Cup. Tôi không chắc là mình có thể làm được tốt hơn.
Không lâu sau trận đấu đó, Steve bị sa thải, người tới thay là Fabio Capello. Fabio rất biết cách gây ấn tượng. Ông là kiểu huấn luyện viên nghiêm khắc, thích áp đặt. Ông có thể đẩy hay kéo các cầu thủ vào các vị trí khác nhau ngay trên sân tập nếu ông cảm thấy họ chưa làm đúng ý ông. Với ông thì một là một, hai là hai. Bầu không khí thay đổi rất nhanh. Từ chỗ thoải mái quá thành ra nghiêm túc quá, đôi lúc tới mức căng thẳng. Ông thay đổi hoàn toàn thực đơn của chúng tôi, loại bỏ không biết bao nhiêu là món ngon. Không còn bánh mì bơ nữa, bữa ăn định kỳ trước mỗi trận đấu của chúng tôi giờ chỉ có món mì không xốt. Tôi không hiểu thay đổi thực đơn kiểu đó thì có ý nghĩa gì. Chúng tôi đều chơi bóng cho câu lạc bộ của mình hằng tuần, đều biết cách tự chăm sóc cho bản thân, nên việc thay đổi khầu phần ăn một cách đột ngột chỉ trong có vài ngày như thế có hại nhiều hơn là lợi.
Nhưng dẫu vậy, tôi vẫn hy vọng rằng với vị huấn luyện viên mới này, tôi sẽ được trao nhiều cơ hội hơn. Hóa ra không phải. Tôi chỉ được ra sân ở 8 trong tổng số 42 trận dưới thời Capello, dù trong thời gian đó, tôi vẫn thể hiện tuyệt vời ở United, thường xuyên có mặt trong các trận đấu lớn, rồi giành cả chức vô địch Premier League lẫn Champions League. Tôi không phải kiểu người chỉ nghĩ tới mình. Tôi không có cái tôi quá lớn. Tôi không ở đây để nói với các bạn rằng tôi hay lắm, rằng tôi xứng đáng với điều này hay điều kia. Không có chuyện đó. Nhưng tôi thực sự tin rằng tôi xứng đáng được tin tưởng nhiều hơn và do đó có thể có nhiều đóng góp hơn. Tôi hiểu rằng các huấn luyện viên đều phải làm việc của mình, họ làm việc đó theo cách của họ, và tôi cần phải biết tôn trọng cũng như sống cùng những quyết định của họ.
Nhưng thú thực giữa nói và làm là hai chuyện khác hẳn nhau. Dần dần, tình yêu của tôi với đội tuyển Anh trở nên phai nhạt. Tôi phải thú nhận rằng tôi phát ngán những chuyến đi xa cùng đội tuyển. Mỗi lần như thế, tôi chỉ muốn mau mau chóng chóng trở lại với United, với môi trường yêu thích của tôi. Ở đội tuyển Anh, tôi cảm thấy ngột ngạt. Tôi có cảm giác là tôi chỉ có thể thở được một cách bình thường khi trở lại Carrington. Trước World Cup 2010, tôi cứ phải lặp đi lặp lại một quy trình đáng ghét: được triệu tập lên đội tuyển, tham gia vào những chuyến đi có thể kéo dài tới mười ngày, chỉ để biết rằng mình sẽ không có dù chỉ một chút cơ hội được ra sân. Mỗi lần như thế, tâm trạng của tôi trở nên hết sức tệ hại, và tôi lại hành hạ Lisa trên điện thoại. Những chuyến đi như thế khiến tôi suy sụp. Tôi hiểu được nếu các bạn đọc những dòng này và nghĩ rằng “Thôi đi cha, ông được đi cùng với đội tuyển Anh đấy, vui lên đi, giấc mơ của bao nhiêu người đấy.” Tin tôi đi, tôi cũng đã tự bảo mình như thế không biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng vẫn không tài nào rũ bỏ được tình trạng tồi tệ đó. Ngay cả trong những dịp hiếm hoi được ra sân, tôi cũng không cảm thấy tâm trạng khá hơn một chút nào. Mọi chuyện tệ hại tới mức tôi còn không muốn dự World Cup 2010, giải đấu sẽ diễn ra ở Nam Phi. Jacey chào đời vào ngày 30 tháng 4, nên việc phải rời xa thằng bé chỉ sau có ít tuần chỉ có thể khiến cho tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Vị trí của tôi ở United lúc ấy cũng không còn ổn nữa, tôi lúc nào cũng lo lắng là mình có thể bị đẩy ra đường vào bất kỳ thời điểm nào.
Tôi đá chính trong trận đấu với Mexico ở Wembley vào ngày 24 tháng 5 nhưng đã chơi rất tệ và bị thay bằng Huddlestone. Sáu ngày sau, tôi không được vào sân một phút nào trong trận đấu với Nhật Bản ở Graz. Ngồi trên băng ghế dự bị, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ có cơ hội được chọn vào đội hình World Cup. Chỉ còn một vị trí cho cả Huddlestone, Scott Parker và tôi, do Gareth Barry luôn là lựa chọn hàng đầu bên cạnh Gerrard và Lamps.
Trong quá khứ, không ít lần người ta cố dựng chuyện rằng giữa tôi với Lampard và Gerrard có một hố sâu kình địch khó san lấp. Tại sao chứ? Tôi chưa bao giờ có vấn đề gì với Scholesy, Fletch hay Ando ở United. Chúng tôi chơi trong một đội, chứ có phải chống lại nhau đâu! Trong một cuộc họp báo với đội tuyển Anh, tôi được hỏi liệu tôi có tin rằng mình đủ khả năng chơi bóng cho đội tuyển Anh hay không. Tôi trả lời là vì tôi đã góp mặt trong không ít trận đấu lớn và giành được không ít danh hiệu, nên tôi tin là mình đủ khả năng. Tất cả những gì tôi muốn nói là tôi nghĩ rằng tôi đủ năng lực để chơi bóng ở trình độ này. Tôi không mảy may muốn so sánh với Lamps hay Gerrard. Ấy thế nhưng vào hôm sau, một tờ báo đã ngang nhiên chạy tít “Mang huy chương đặt lên bàn đi!”, như thể là tôi muốn thách thức Lamps và Gerrard về việc tôi giành được nhiều danh hiệu hơn họ vậy. Tôi chưa bao giờ làm thế. Tôi tôn trọng họ còn chả hết. Cái kiểu bẻ cong phát biểu của nhân vật như thế có thể tóm gọn hết văn hóa báo chí ở Anh, và nó một lần nữa cho thấy sở thích bới móc những điều tiêu cực của họ. Tôi chỉ muốn nói là kinh nghiệm sẽ giúp ích nhiều cho tôi. Nhưng với người Anh thì như thế bình thường quá, họ muốn có kịch hay để xem cơ. Nếu mà không có sẵn, thì họ sẽ tự tạo ra nó. Nhiều người nói như thế là không đúng, nhưng cuối cùng vẫn hùa theo gánh xiếc đó. Có cảm giác là với đội tuyển Anh, chúng tôi lúc nào cũng phải chơi với lửa.
Khi chúng tôi trở lại nước Anh sau chuyến tập huấn ở Áo, Capello thông báo là sẽ có người gọi điện cho chúng tôi nếu chúng tôi được chọn vào danh sách. Từ sân bay, tôi đi thẳng về Newcastle để gặp Lisa và các con. Cả nhà đang ở trong căn hộ của bố mẹ tôi. Lisa không được khỏe lắm vì cô ấy bị đau lưng do hậu quả của chuyện sinh nở. Một tay cô ấy phải chăm lo cho hai đứa trẻ, một đứa vừa sinh, một đứa, Louise, cũng mới 2 tuổi, nên gần như không có thời gian để ngủ. Ngay lúc vừa nhìn thấy cô ấy trong tình trạng ấy, tôi đã nghĩ: Mình không muốn bỏ vợ một mình trong cảnh này, mình không thể dự World Cup được.
Khi Franco Baldini, trợ lý của Capello, gọi, tôi định nói với ông rằng “Tôi rất tiếc...” Nhưng ông đã nói rất nhanh, “Chúc mừng cậu, hẹn gặp lại trong vài ngày tới.” Tôi thực sự tin rằng tôi sẽ không được chọn. Cảm giác lúc đó rất kỳ lạ. Tôi không sẵn sàng để đón nhận nó. Tôi thông báo với Lisa như thể chúng tôi nhận được thông tin không tốt. Tôi biết điều đó nghe điên rồ. Tôi chuẩn bị có cơ hội được chơi bóng cho đội tuyển Anh ở một kỳ World Cup - đó là một vinh dự, một trải nghiệm hiếm có. Cho tới tận bây giờ tôi cũng không biết vì sao mình lại được chọn. Tôi không xứng đáng.
Chuyện đã thế rồi, tôi đành gói ghém đồ đạc và thẳng tiến tới Nam Phi. Khách sạn của chúng tôi ở Rustenburg có vẻ là một nơi lý tưởng vì ngay bên cạnh là một sân tập rất đẹp. Nhưng có một vấn đề là nó nằm ở một nơi hoang vu quá. Nếu chúng tôi có muốn đi bộ đổi gió trong một hay hai tiếng đồng hồ gì đó thì cũng chịu. Thực sự rất tù túng. FA đã chọn nơi đây vì quá lo lắng những chuyện ồn ào như ở Baden-Baden lặp lại, một sự lo lắng rất dễ hiểu, nhưng vấn đề là Rustenburg ở nơi heo hút quá, và như thế thì cũng chẳng có lợi gì. Tâm trạng của chúng tôi bị kéo tuột xuống, và tôi là người bị kéo sâu nhất.
Tất nhiên bạn có thể nói rằng ở một nơi như Rustenburg sẽ giúp chúng tôi tập trung cho công việc của mình hơn. Tôi cũng từng nghe nhiều người nói theo kiểu “Các anh chỉ ở đó có vài tuần, làm gì đến mức không hy sinh được một chút?” Tôi hoàn toàn đồng ý. Nhưng cũng nên có mức độ thôi. Bị cô lập như ở Rustenburg thì lại có tác dụng ngược. Chúng tôi không tìm được lối thoát nào cả. Ở nhà, luôn có một thứ gì đó có thể giúp chúng tôi tách mình khỏi các trận đấu hay các buổi tập, ví dụ như tham gia các hoạt động ở trường với các con, ăn tối với bạn bè, hay chỉ đơn giản là đi thăm người này người kia. Nhờ thế chúng tôi có thể giữ được sự tươi mới. Ở Rustenburg, chúng tôi như mụ mị hết cả.
Ngay ở một trong những buổi tập đầu tiên, Rio đã dính chấn thương. Đó là một cú sốc với chúng tôi và với chính anh. Tôi cảm thấy buồn cho Rio, bởi vì đây sẽ là giải đấu lớn cuối cùng của anh với đội tuyển Anh. Ngay từ những ngày đầu tập trung, tôi đã cảm thấy mình như một kẻ xa lạ. Tôi cố gắng cống hiến tất cả những gì mình có, nhưng tôi chẳng có gì cả. Tôi hoàn toàn mất lửa. Tôi thường dành cả ngày dài trong phòng chỉ để đếm ngược tới lúc diễn ra sự kiện tiếp theo trong lịch, có thể là một buổi họp, hay chỉ đơn giản là bữa tối. Càng ở trong phòng lâu, tôi càng chìm sâu vào tình trạng trầm cảm. Tinh thần của tôi xuống tới mức chẳng còn chút năng lượng hay nhiệt tình nào để làm bất cứ việc gì. Đó là một quãng thời gian rất kỳ lạ với tôi. Cũng có những ngày vui vẻ, khi tôi cùng Coley, JT và Ash làm vài ván snooker, hay khi chúng tôi kéo nhau ra sân golf thi “cuốc đất”. Chúng tôi còn rủ nhau đi safari, nhưng cuối cùng thì thấy nhiều phóng viên ảnh hơn cả voi. Song những ngày vui như thế là rất hiếm, và chẳng khiến cho tâm trạng của tôi khá hơn được bao nhiêu. “Anh chỉ muốn về nhà thôi,” tôi nói với Lisa qua điện thoại. “Ở đây anh chán quá.”
Lẽ ra đây phải là thời khắc tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của tôi, nhưng hóa ra ngược lại. Tôi cảm thấy trống rỗng và cô đơn. Khi nhìn vào những đồng đội của mình trên sân tập, tôi thường nghĩ, Anh ấy đang chơi tốt, anh ấy trông thật hạnh phúc. Ước gì mình được như anh ấy. Đã có lúc tôi nghĩ tới chuyện bỏ về. Tất nhiên là tôi không làm điều đó, và sẽ không bao giờ làm, nhưng ý nghĩ đó thực sự từng xuất hiện trong đầu tôi.
Bầu không khí trong bản doanh của đội là rất tồi tệ. Sau trận hòa đáng thất vọng với Mỹ, chúng tôi tới Cape Town để đối đầu với Algeria. Ngồi trên băng ghế dự bị theo dõi một trong những trận đấu tệ hại nhất mà tôi có thể nhớ được, tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có cơ hội vào sân. Càng về cuối trận không khí trên sân càng trở nên tệ hại, và cuối cùng trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 0-0 nhạt nhẽo.
Chúng tôi ở lại Cape Town thêm một ngày, và thế là cả bọn có được một ngày nghỉ hiếm hoi. Tôi tranh thủ chạy ra ngoài gặp bố mẹ, hai người lúc đó đang nghỉ ở Camps Bay. Chúng tôi ăn trưa với nhau, và sau đó chỉ ngồi yên lặng trên ban công hướng ra biển. Tôi hầu như không nói một lời nào. Bố mẹ biết tôi không vui, nhưng tôi nhất định không cho họ biết tình trạng của tôi thực sự tồi tệ ra sao. Tôi không muốn chuyến đi của hai người mất vui.
Tôi biết là mình không ổn một chút nào, khi trên chuyến xe buýt đưa toàn đội tới trận đấu với Slovenia, tôi đột nhiên thấy muốn khóc. Chẳng vì một lý do nào cả. Cảm xúc không biết từ đâu ùa về. Có cảm giác là lúc ấy tôi có thể òa ra khóc ngon lành ngay được. Nhưng tôi phải nhanh chóng trấn tĩnh.
Tôi không muốn ngày hôm sau mặt của tôi chình ình trên báo; năm đó, không hiểu bằng cách nào, những tin tức liên quan tới đội tuyển được tuồn ra ngoài cho báo chí hằng ngày. Như một đống hổ lốn. Nhưng tôi tự thấy mình hoàn toàn không dính dáng gì tới những chuyện nhiêu khê đó. Tuy nhiên tôi cũng chẳng “dính dáng” gì tới đội hình xuất phát luôn. Một ngày nọ, giữa một buổi tập, Fabio bất ngờ gọi mười một cầu thủ đá chính và vài cầu thủ hay được vào sân từ ghế dự bị nữa ra riêng một góc sân để luyện đội hình và tập các tình huống cố định. Phần còn lại, trong đó có tôi, bị bỏ lại ở vạch giữa sân. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, nhưng chúng tôi vẫn chẳng có gì để làm, mà cũng chẳng có ai nói gì với chúng tôi cả. Peter Crouch, Shaun Wright-Phillips và Stephen Warnock kéo nhau tới khung thành còn lại và bắt đầu làm đủ thứ trò với trái bóng. Họ làm trò đúng nghĩa, và chúng tôi bắt đầu cười như điên. Vấn đề là ta chọn khóc hay cười thôi mà. Tôi ngồi xuống ở góc của khu cấm địa, lặng lẽ quan sát các cầu thủ khác liên tục nhồi bóng vào giữa để Crouch dứt điểm vào khung thành. Các cầu thủ nghịch bóng như thế trong khoảng 15 phút. Rồi Becks, lúc đó là một trong các huấn luyện viên của Fabio, phát hiện ra và tới sắp xếp cho chúng tôi tập dứt điểm một cách đàng hoàng. 15 phút ấy nói lên hết cách biệt giữa chúng tôi với phần còn lại của đội bóng.
Chúng tôi đánh bại Slovenia và sẽ đối đầu với Đức ở vòng 16 đội tại Bloemfontein. Đó sẽ là một trận đấu lớn với rất nhiều lịch sử. Lamps có một bàn thắng đẹp không được công nhận. Trọng tài cho rằng bóng chưa đi qua vạch vôi, nhưng ngoài ông ta thì ai cũng có thể thấy điều ngược lại. Chúng tôi không bao giờ gượng dậy được sau quyết định đó. Cuộc chơi khép lại, tất cả chúng tôi trở về nhà. Cuối cùng thì tôi cũng được trở lại Newcastle, nhưng vừa về tôi đã dính virus và phải nằm bẹp giường trong bốn ngày liền. Chào đón trọng thị ghê! Tôi được nghỉ hè trong ba tuần, và quyết định dành phần lớn thời gian nghỉ ngơi bên gia đình ở Ibiza. Đó là một trong những kỳ nghỉ tuyệt vời nhất mà tôi từng trải qua. Tôi đã có một cơ hội thật sự tốt để “khởi động lại hệ thống”. Trong khi tất cả mọi người tụ tập hết vào các quán bar trong phố để xem trận chung kết thì tôi lại chọn ở nhà chơi với các con. Tôi không thể đối diện với nó. Tôi muốn tránh xa bóng đá, hoàn toàn không có chút liên quan nào.
Khi mùa giải mới bắt đầu, tôi lại thấy mình ngồi trên băng ghế dự bị, đầu tiên là ở Wembley trong trận đấu với Bulgaria, sau đó là ở Basel, vẫn với tình trạng trầm cảm mà tôi từng gặp phải ở Nam Phi. Vào cuối mùa, tôi có đôi lần phải rút lui khỏi đội tuyển vì chấn thương. Tôi nghĩ đã tới lúc đối mặt và xử lý chuyện này một lần cho xong. Tôi nói chuyện với David Geiss, bộc bạch hết với ông những suy nghĩ và cảm xúc của mình. Vào đầu mùa giải 2011-12, ông thu xếp được một cuộc nói chuyện với Adrian Bevington, một thành viên của FA, trong một quán cà phê ở khu Bishop’s Stortford. Ở đó, ông nói rõ hết tình trạng của tôi. Tôi thậm chí còn không cần phải nói chuyện với Fabio!
Fabio rời khỏi cương vị huấn luyện viên trưởng đội tuyển Anh vào tháng 2 năm 2012, Stuart Pearce được trao chức huấn luyện viên tạm quyền để chuẩn bị cho trận giao hữu với Hà Lan. Tôi biết và tôn trọng Pearce từ thời còn ở West Ham, và ông cũng muốn tôi trở lại là một thành viên của đội tuyển. Chẳng còn mấy lúc nữa là Euro phải diễn ra, nhưng nói thật là ý nghĩ về việc phải xa nhà trong một thời gian dài một lần nữa khiến tôi sợ hãi. Trải nghiệm ở Nam Phi đã để lại trong tôi những dư chấn khủng khiếp và tôi phải mất rất nhiều thời gian mới có thể vượt qua được nó. Pearcey muốn tôi góp mặt trong trận đấu với Hà Lan. Tôi hoàn toàn có thể nhận lời để được ra sân, nhưng tôi đã quyết định từ chối. Đó là một quyết định hết sức khó khăn, bởi vì khi làm thế, tôi đã chối bỏ điều mà tôi luôn mơ ước từ khi còn là một cậu bé. Tôi đã phải tự đấu tranh với bản thân mình trong một vài ngày, bởi vì tôi hiểu những gì mà tôi đang từ bỏ có ý nghĩa như thế nào. Nhưng rồi tôi cũng phải đưa ra quyết định có lợi nhất cho chính mình.
Bây giờ nhìn lại, tôi vẫn không thực sự thoải mái với quyết định từ chối khoác áo đội tuyển, nhưng ở thời điểm đó, tôi chỉ có thể suy nghĩ theo hướng ấy. Dẫu vậy, một khi quyết định đã được đưa ra rồi, tôi cảm thấy như mình trở thành một người khác hoàn toàn, nhẹ nhõm như vừa được giải thoát khỏi một gánh nặng. Tôi không giãi bày với Pearcey tất cả những cảm xúc ấy, chỉ vài người biết được tôi thực sự nghĩ gì thôi, nên tôi chắc là ông không thể tin nổi vào tai mình khi tôi nói với ông rằng tôi không muốn khoác áo đội tuyển. Nhưng thật may là ông đã tôn trọng quyết định của tôi.
Roy Hodgson được bổ nhiệm để dẫn dắt đội tuyển ở kỳ Euro sắp tới cũng như cả thời gian sau đó nữa. Rồi có người hỏi tôi liệu có muốn vào danh sách chờ hay không, nhưng tất cả những gì tôi muốn lúc ấy là tránh càng xa đội tuyển càng tốt. Giờ là lúc tôi phải yêu lấy bản thân mình.
Trở về sau kỳ nghỉ, tôi cảm thấy phấn chấn trở lại. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, tôi đã nói rằng tôi không hề có ý định chia tay đội tuyển hoàn toàn. Nev, người lúc đó đang là trợ lý của Roy, lập tức gọi điện để hỏi xem tôi máu tới mức nào. Tâm trạng của tôi khi ấy tốt hơn nhiều, thậm chí còn cảm thấy phấn khích với ý nghĩ tôi có thể bù đắp lại những quãng thời gian đã mất. “Tôi không kỳ vọng là sẽ ra sân trong mọi trận đấu, nhưng chừng nào vẫn còn có thể đóng góp, theo một cách nào đó, thì tôi sẽ cố thôi,” tôi nói với Nev. Tôi đá chính cho đội tuyển Anh trong trận đấu đầu tiên sau Euro, gặp Italy ở Berne, và cảm thấy rất thích thú. Đá cho đội tuyển thì phải thế chứ, tôi nghĩ. Sau đó tôi tham gia tour du đấu ở Rio vào năm 2013, ra sân trong trận đấu với Brazil trên sân vận động Maracanã huyền thoại, và tiếp tục có mặt trong trận đấu với Ba Lan ở Wembley, là trận đấu mà chúng tôi phải thắng nếu muốn giành quyền dự World Cup. Nhưng càng về cuối mùa giải, tôi càng tin là mình sẽ không có trong danh sách tới Brazil. Chúng tôi đã trải qua một năm đầy khó khăn với United. Chúng tôi trượt dài. Hôm ấy chúng tôi vừa trở về từ Southampton, sau trận đấu cuối cùng của mùa giải, cũng là trận đấu cuối cùng của Giggsy trong tư cách huấn luyện viên tạm quyền của United. Khi tôi đang bước ra xe, Roy gọi điện và thông báo tôi sẽ nằm trong danh sách chờ. Tôi cũng chẳng biết nói gì hơn với ông, ngoài việc chúc ông và toàn đội những điều tốt đẹp nhất. Cố nói cứng hay khóc lóc thì cũng đâu có giải quyết được gì, chỉ tổ phí thời gian. Tôi hiểu Roy, ông có trách nhiệm phải đưa ra các quyết định, và chắc chắn cuộc gọi điện hôm đó là một trong những cuộc gọi khó khăn nhất mà ông phải thực hiện. Tôi thất vọng, nhưng tôi sẽ không nói rằng tôi bị suy sụp. Những trải nghiệm không mấy tốt đẹp mà tôi có với đội tuyển Anh trước đó tới lúc ấy lại phát huy tác dụng, khiến tôi thấy chuyện lại bị từ chối chẳng có gì là quá kinh khủng.
Có lẽ phong cách chơi bóng của tôi chính là điều đã khiến tôi không thể có được một sự nghiệp như mong muốn với đội tuyển. Tôi thường nghe người ta nói về việc cần phải dũng cảm, phải luôn luôn sẵn sàng nhận bóng, nhưng khi đụng chuyện, khi các đội bóng đối thủ bắt đầu pressing, dù chỉ tí ti thôi, thì tất cả phải nhất loạt chuyển ngay sang chế độ an toàn là trên hết. Triển khai bóng từ hàng thủ lên hàng tiền vệ bị xem là một chiến thuật nguy hiểm. Nhưng bây giờ thì không như thế nữa. Gareth đã thay đổi được văn hóa chơi bóng của đội tuyển. Trong những năm gần đây, đã có những thay đổi đáng kể về phong cách chơi bóng ở Premier League, và tôi nghĩ điều đó đã khiến nhiều người vỡ ra nhiều thứ. Các trận đấu bây giờ thiên về chiến thuật hơn, chứ không chỉ biết hùng hục lao lên như trước. Chiến thuật phòng ngự phản công vẫn được sử dụng, nhưng theo cách có tính toán và phức tạp hơn nhiều. Trong điều kiện thời tiết nắng nóng, phòng ngự phản công là một chiến thuật khó triển khai vì bạn sẽ thường phải liên tục đuổi theo bóng, và càng khó khăn hơn với những cầu thủ vừa phải trải qua một mùa giải Premier League khắc nghiệt. Tôi nghĩ là nếu có kỳ nghỉ Đông thì vấn đề này sẽ được giải quyết phần nào, vì các cầu thủ sẽ có thời gian để tích lũy năng lượng cho các giải đấu mùa hè.
Dù vậy, tôi vẫn thấy đau vì không được tới Brazil. Thời gian với Roy là thời gian mà tôi cảm thấy thoải mái nhất. Cách tổ chức của đội tuyển cũng có những thay đổi, với sự xuất hiện của chuyên gia tâm lý Steve Peters trong ban huấn luyện. Cùng với nhau, Steve và Roy cố gắng thuyết phục các cầu thủ chịu nhiều trách nhiệm hơn, thông qua việc tổ chức nhiều cuộc họp do các cầu thủ điều hành hơn, khuyến khích các cầu thủ đóng góp ý tưởng, và luôn sẵn sàng đón nhận những ý kiến phản hồi. Tôi nhớ có lần, khoảng vài tháng trước Euro 2016, khi chúng tôi đang đứng giữa sân tập ở St George’s Park thì Roy đi tới và nói to với tất cả chúng tôi: “Tôi muốn các cậu chiều nay hãy đi ra ngoài và suy nghĩ xem làm cách nào chúng ta có thể vô địch được kỳ Euro sắp tới, rồi quay trở lại đây nói cho tôi, vì tôi không biết làm cách nào!” Tôi rất trân trọng những gì Roy đang cố gắng đạt được nhưng vẫn cảm thấy có chút ngạc nhiên khi nghe ông nói.
Trận đấu cuối cùng của tôi trong màu áo đội tuyển Anh là trận gặp Tây Ban Nha ở Alicante vào tháng 11 năm 2015. Thứ Sáu ngày 13 - lẽ ra tôi phải sớm đoán ra được chứ nhỉ!? Tôi rời sân trên những bước chân tập tễnh do bị lật cổ chân sau khi phải nhận một cú tắc trái luật từ đối thủ. Từ đó tôi không bao giờ được triệu tập nữa. Dù đã trải qua một hành trình không lấy gì làm vui vẻ với đội tuyển Anh, tôi vẫn cảm thấy biết ơn vì cơ hội mà tôi đã có được.
Trải nghiệm với đội tuyển Anh cũng giúp cho tôi nhận ra chúng tôi sướng đến thế nào ở Manchester United. Ở đó không bao giờ có những chuyện ồn ào, những trò thị phi mà tôi thường phải chứng kiến khi đi cùng với đội tuyển Anh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những chuyện đó, tôi vẫn cảm thấy tự hào khi đã hoàn thành được giấc mơ thời thơ ấu của mình. Tôi chính là một trong những người may mắn hiếm hoi.