T
ôi từng được trải qua không ít khoảnh khắc thăng hoa tột cùng, nhưng bên cạnh đó cũng có những thời điểm thất vọng tới cùng cực. Về mặt cảm xúc mà nói thì cũng giống như khi ta chơi trò tàu lượn siêu tốc trong công viên, đang từ trên cao phóng vù một cái xuống thấp. Và cái ngày mà tôi cảm thấy tệ hại nhất chính là Chủ nhật, ngày 13 tháng 5 năm 2012. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn cảm thấy đau đớn khi nghĩ về nó. Mùa giải Premier League năm đó diễn ra căng thẳng cho tới những giây cuối cùng, khiến cho các cổ động viên thực sự phấn khích. Trước lượt đấu cuối cùng, chúng tôi bằng điểm với City, nhưng họ có lợi thế về hiệu số bàn thắng - bại. Chúng tôi phải làm khách trên sân của Sunderland trong khi City tiếp QPR trên sân nhà, bởi thế tôi tự nói với chính mình rằng chả có chút hy vọng nào đâu. Tôi chưa bao giờ nghĩ, dù chỉ là thoáng qua, rằng City sẽ hòa. Chúng tôi bước vào trận đấu cuối cùng với tâm thế là giành chiến thắng để kết thúc mùa giải trong thế ngẩng cao đầu. Nhưng rồi đột nhiên, cơ hội mở ra trước mắt chúng tôi. Khi trận đấu trên sân Ánh sáng chỉ còn 20 phút nữa là kết thúc, và chúng tôi thì đang dẫn 1-0, các cổ động viên của chúng tôi bắt đầu ăn mừng. Điều gì đang diễn ra vậy? Jonny Evans chạy lên thông báo: “City đang bị dẫn!” Sau đó tôi biết là Jamie Mackie đã ghi bàn đưa QPR vượt lên, và nếu tình trạng lúc đó được giữ nguyên, chúng tôi sẽ có chức vô địch nước Anh thứ năm trong sáu mùa. Manchester United sẽ không chỉ giành được chức vô địch thứ mười hai, mà còn tạo được khoảng cách hai danh hiệu so với Liverpool (điều này cũng rất quan trọng đấy nha!) Nhưng tôi không muốn nghe thêm điều gì từ Etihad, tôi chỉ muốn tập trung vào trận đấu đang diễn ra, nên tôi cố tình lảng đi. Không có chuyện City sẽ không thắng đâu, tôi tự bảo mình thế. Các cổ động viên của United thì vẫn tiếp tục ăn mừng. Khi trận đấu còn 1 phút và Sunderland được hưởng một tình huống phát bóng lên, đột nhiên trong tôi bừng lên hy vọng: Chúng ta có thể vô địch ở đây.
Trọng tài Howard Webb thổi còi báo hết giờ. Chúng tôi tập trung hết về khu vực giữa sân, cùng chờ đợi những tin tức mới nhất từ Etihad. Trong lần đầu tiên tôi cho mình cái quyền được nghĩ rằng chúng tôi có cơ hội, tôi đã bị giáng một cú nặng nề.
“City ghi bàn rồi,” Howard (thủ môn) nói. Tôi thực sự không biết chuyện gì đang diễn ra. Tỷ số đang là thế nào? Trận đấu kết thúc chưa? Dzeko là người ghi bàn gỡ hòa, nhưng City vẫn cần thêm một bàn thắng nữa, thế nên giấc mơ của chúng tôi vẫn chưa chết. Các cổ động viên của Sunderland ăn mừng bàn thắng của City một cách náo nhiệt. Chuyện này chẳng liên quan gì tới Sunderland cả, nhưng vẫn có hàng nghìn cổ động viên của họ nán lại sân để chờ xem nốt đoạn cuối trong vở kịch mang tên cuộc đua vô địch. Chúng tôi cùng nhau bước về phía đường hầm, ở đó đã có sếp và Phil Jones, lúc đó đang đánh trần và nghe nhờ một chiếc radio của ai đó. Rồi đòn quyết định được giáng xuống.
“City lại ghi bàn rồi,” Jones thông báo, giọng chẳng còn chút sức sống nào.
Agüero. City lên ngôi vô địch. Tất cả những gì chúng tôi muốn làm bây giờ là thoát khỏi sân Ánh sáng càng nhanh càng tốt.
Nhưng Sir Alex ngăn lại: “Ra vỗ tay cảm ơn các cổ động viên đi”. Ngay cả trong khoảnh khắc tột cùng thất vọng như thế, sếp vẫn muốn chắc chắn là chúng tôi hành xử có chuẩn mực. Đấy chính là đẳng cấp của sếp. Chúng tôi lại kéo nhau ra sân để cảm ơn các cổ động viên, những người đã tin tưởng, trong một thời gian ngắn, rằng chức vô địch năm nay sẽ là của chúng tôi. Các cổ động viên của Sunderland không thể hiện một chút thông cảm hay từ tâm nào trước nỗi đau khổ của chúng tôi. Rõ ràng là họ thấy khoái trá khi City giật lại được chức vô địch từ tay chúng tôi đúng vào những giây phút cuối cùng của cuộc đua, họ không ngừng giễu cợt khi chúng tôi đi ngang qua khu vực của họ.
Tôi thì không thấy ngạc nhiên chút nào trước cách hành xử thiếu đẳng cấp ấy của Sunderland. Đi cùng United tới bất kỳ đâu, tôi đều được “nhắc nhở” về sự nổi tiếng của đội bóng; không khó để cảm nhận được sự ghen tị mà các đội bóng khác dành cho đội bóng vĩ đại nhất nước Anh. Đó chính là văn hóa của thế giới mà chúng ta đang sống - người ta hạnh phúc khi thấy người giàu cũng phải khóc. Nên hành động của các cổ động viên Sunderland, theo tôi, cũng có thể là một lời ngợi khen dành cho United. Khi Ashley Young và tôi quay trở lại từ khu vực các cổ động viên nhà, Mick Phelan cố gắng an ủi chúng tôi, nhưng bọn tôi hầu như chẳng nghe được gì bởi những âm thanh ồn ào mà các cổ động viên Sunderland đang tạo ra.
Họ hát những câu hát mỉa mai khi chúng tôi rút vào đường hầm. Tôi ngoảnh lại và nhìn thấy ở một góc khán đài, hàng nghìn cổ động viên Sunderland đang nhảy điệu Poznan - là điệu nhảy ăn mừng bàn thắng mà cổ động viên City học được từ đội bóng Ba Lan, với điểm nhấn là các cổ động viên quàng vai nhau, xoay lưng lại với sân và nhảy lên nhảy xuống. Sau này mà nhìn lại, chắc là họ sẽ nghĩ, “Mình đang làm cái quái gì vậy nhỉ? Chuyện hôm đó có liên quan quái gì tới mình đâu?” Nhìn hành động của các cổ động viên Sunderland bạn sẽ nghĩ là đội bóng của họ vừa vô địch Premier League. Thật quái lạ! Bảng điện tử hiện lên tỷ số cuối cùng của trận đấu phía City, và sự sung sướng của các cổ động viên Sunderland lúc đó giống như một cơn bão đẩy chúng tôi vào sâu trong đường hầm.
Phòng thay đồ im lìm như một nhà xác. Không ai buồn nhúc nhích, tất cả đều đóng băng trong sự tức giận. Chúng tôi đã có thể trở thành những nhà vô địch. Bóng đá thật khắc nghiệt làm sao, khi mà cả mùa giải dài có thể được quyết định chỉ với một cú chạm bóng! Leo lên xe buýt bên ngoài sân Ánh sáng, tôi thả người cái phịch lên ghế, cố gắng suy nghĩ về những gì ĐÃ có thể xảy ra. Sếp đi lên đi xuống dọc theo lối đi ở giữa xe, cố gắng để tất cả chúng tôi nghe thấy điều mà ông muốn nói: “Các anh ĐỪNG BAO GIỜ quên cảm giác của ngày hôm nay là như thế nào.” Ông cố tình nhấn mạnh mấy tiếng ĐỪNG BAO GIỜ. Thông điệp của ông chủ yếu là dành cho các cầu thủ trẻ, bởi vì sếp biết những cầu thủ đàn anh trong đội đều đang cay lắm rồi và chắc chắn là đang đếm ngược tới ngày bắt đầu mùa giải mới. “Các anh ĐỪNG BAO GIỜ quên cảm giác của ngày hôm nay là như thế nào,” sếp nhắc lại một lần nữa. “Hãy để nỗi đau này làm động lực đưa các anh tới chức vô địch Premier League mùa sau.” Sếp không nổi điên, không quát mắng, ông chỉ muốn thông điệp của mình ngấm sâu vào trong tất cả các cầu thủ.
Chúng tôi không chỉ tức giận vì để tuột mất chức vô địch, mà còn vì thái độ khó chịu của các cổ động viên Sunderland. Sau này, mỗi lần gặp lại Sunderland, chúng tôi lại nhắc nhau về cách mà họ ăn mừng trên nỗi đau của chúng tôi vào năm 2012 ấy. Sếp đương nhiên không quên. Ông nhắc lại nó trong bài nói chuyện trước trận đấu với Sunderland ở Old Trafford vào tháng 10 cũng như trong trận lượt về trên sân Ánh sáng vào tháng 3 năm sau. Đấy không phải là thứ mà bạn có thể dễ dàng quên được. Trên chuyến xe trở về nhà, chúng tôi bắt đầu thực sự cảm nhận được mình đã ở gần chức vô địch đến thế nào. Nhưng tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ tới là trận hòa với Everton và sau đó là thất bại trước Wigan. Chính chúng tôi đã tự tay ném đi cơ hội của mình. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn không giũ bỏ được cảm giác thất vọng vì điều đó.
Kết thúc của mùa giải 2011-12 để lại dư vị đắng cay còn vì một lý do khác. Khi bước vào những phút cuối ở Etihad, QPR biết rằng họ đã an toàn do Bolton đã hòa với Stoke và do đó không thể vượt qua QPR ở vị trí thứ 17. Tôi không nói là QPR bỏ cuộc, nhưng vì họ đã an toàn rồi nên trong thời gian bù giờ, ở tình huống dẫn tới bàn thắng của Agüero, họ đã không còn chiến đấu vì sự sống còn của chính mình. Họ cho phép mình thả lỏng. Nếu không, họ đã phòng ngự quyết liệt hơn, và chúng tôi đã có thể trở thành những nhà vô địch. Những chuyện như thế bạn chẳng bao giờ quên nổi.
Tôi có thể nhìn lại quãng thời gian gắn bó với United và cảm thấy tự hào. Sáu năm ở đây, tôi giành bốn chức vô địch Premier League, để mất một chức vô địch chỉ vì thua hiệu số bàn thắng - bại và một chức vô địch khác chỉ vì kém một điểm. Nhưng mùa giải năm đó có nhiều sự kiện khiến tôi đau đớn. Các kênh thể thao vẫn thường phát lại bàn thắng của Agüero, mỗi lần như thế, tôi lại quay mặt đi chỗ khác. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn chưa xem cảnh City nâng Cúp năm đó.
Mùa giải năm đó khó khăn ngay từ đầu. Nỗi sợ hãi thường trực của tôi chính là sự “tàn nhẫn” của Sir Alex. Trong trận tranh Community Shield 2011, sếp rút tôi ra ngay trong giờ nghỉ và tung Tom Cleverley vào sân. Tôi nhớ là tôi dành cả hiệp hai của trận đấu ấy để trả lời câu hỏi: Tại sao sếp lại làm dữ như vậy? Sau đó, Clevs và Ando tiếp tục được đá chính ở Premier League, tôi bắt đầu nghĩ rằng sếp đang tính chuyện thay tôi. Có phải sếp đang muốn bơm những dòng máu trẻ vào đội hay không? Một lần nữa, tôi lại phải chiến đấu để không rơi vào cảnh trầm cảm. Thành tích của tôi ở United rất tốt, rất thành công là đằng khác, nhưng tôi chưa bao giờ có ý bấu víu vào chúng. Tôi biết rằng tôi phải chứng tỏ bản thân mình mỗi ngày, và phải chiến đấu để đánh bật những thách thức từ những cầu thủ trẻ hơn.
Khi nhìn lại sự nghiệp của mình, tôi có thể thấy được một cách đầy đủ tính chu kỳ trong các mùa giải của tôi, và tôi hy vọng là điều đó sẽ giúp ích ít nhiều cho tôi khi đã chuyển sang nghiệp huấn luyện. Không có cầu thủ nào giống cầu thủ nào. Có những người khởi đầu mùa giải một cách rất mạnh mẽ, giống như Ando. Nhưng cũng có những người, giống như tôi, thường cần một khoảng thời gian nhất định để vào nhịp. Thường phải tới tháng 9 hay tháng 10 thì tôi mới bắt đầu chiếm được một vị trí chính thức, đó là khi phong độ tôi lên cao, và tôi cũng thường giữ được vị trí của mình cho tới tháng 5. Có đôi khi tôi khởi đầu muộn là vì chấn thương hay một vài vấn đề nhỏ ở đâu đó, nhưng chủ yếu là vì như sếp nói, “Cậu chỉ chơi tốt khi trời bắt đầu mưa.” Tôi nghĩ là Sir Alex đùa, mà đúng là ở một mức độ nào đó thì ông cũng đùa thật, nhưng thực ra nhận định của ông hoàn toàn có cơ sở khoa học. Ông tin rằng những mặt sân mềm phù hợp với tôi hơn. Tôi đã được nghe rất nhiều cuộc tranh cãi về phong độ của các cầu thủ, không ít trong đó liên quan tới tôi, nhưng chưa nghe ai đặt ra câu hỏi liệu những gì ở dưới đế giày của các cầu thủ có thể là một nguyên nhân hay không. Cầu thủ chúng tôi theo một cách nào đó cũng giống như những con ngựa đua, và ngựa-tôi thì chạy nhanh hơn trên những mặt sân mềm, bởi vì mặt sân cứng thường khiến cho những vấn đề với gót Achilles của tôi trở nên nghiêm trọng hơn. Nghe giống như một lời bào chữa vụng về, nhưng đúng thật là những mặt sân cứng cũng không có lợi cho kỹ thuật chuyền bóng của tôi. Tôi thích mặt cỏ phải được tưới nước thật đầy đủ, như thế thì bóng mới đi nhanh được. Có nghĩa là các đường chuyền của tôi sẽ đến mục tiêu sớm hơn, hay tôi có thể chuyền bóng từ xa hơn mà không sợ bóng bị cỏ làm cho chậm lại. Nếu có một khoảng trống xuất hiện, tôi có thể khai thác ngay. Trên những mặt cỏ bị khô quá, bóng có thể bị kéo lại. Khác biệt có thể chỉ là một tí ti thôi, nhưng cũng đủ để ra vấn đề. Tôi thích tung ra những đường chuyền bằng má đưa bóng đi xuyên qua hàng tiền vệ của đối phương tới thẳng chân các tiền đạo, và để thực hiện được những đường chuyền như thế, tôi cần được chơi trên những mặt sân êm mượt.
Khi chúng tôi tới làm khách ở Anfield vào tháng 10, tôi vẫn đang trong hành trình “tìm nhịp” quen thuộc. Thế rồi xảy ra vụ Luis Suárez có lời lẽ phân biệt chủng tộc với Pat Evra. United lập tức thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho Pat, và tất nhiên cầu thủ chúng tôi cũng vậy. Những hành vi như thế thực sự đáng ghê tởm. Chúng tôi muốn bảo vệ Pat, người rõ ràng là bị tổn thương ghê gớm. Pat với chúng tôi như anh em trong nhà, nên tất cả chúng tôi đều cảm thấy thực sự tức giận với Suárez. Cuối cùng thì anh ta cũng bị phạt. Tám trận treo giò! Tất nhiên, trận đầu tiên của Suárez sau khi mãn hạn treo giò chắc chắn phải là ở Old Trafford rồi! Khi hai đội làm thủ tục trước trận, anh ta đã từ chối bắt tay Pat. Tất cả chúng tôi lại bị đặt vào một tình huống không mấy dễ chịu, nó có lẽ, và lẽ ra, phải được xử lý tốt hơn. Tôi vẫn bắt tay Suárez, tất nhiên. Pat biết là tất cả mọi người đều đã ở bên anh ấy, và trong tình thế này, tôi không cần phải đổ thêm dầu vào lửa bằng cách từ chối bắt tay Suárez nữa. Chúng tôi vẫn còn cả trận đấu phía trước và việc làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng hơn là không đáng. Có một chút lộn xộn xảy ra trong đường hầm vào giờ nghỉ, khi Pat chạy vượt qua Suárez và một vài cầu thủ của hai đội chạy theo hai người, nhưng cuối cùng đã không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra. Chúng tôi giành chiến thắng, đó chính là cách để chúng tôi nói với Pat rằng chúng tôi ủng hộ anh.
Mùa giải đó toàn những chuyện bất ngờ, thậm chí có cả những cú sốc. Tôi sẽ không bao giờ quên được chuyện xảy ra trước khi chúng tôi gặp City ở FA Cup. Khi cả đội đang tập ở Carrington thì Scholesy bỗng dưng xuất hiện cùng với một vài cầu thủ trẻ từ đội dự bị. Sau khi treo giày, Scholesy thường làm việc với đội dự bị, vừa hỗ trợ Warren Joyce huấn luyện các cầu thủ, vừa thỉnh thoảng xỏ giày vào sân thi đấu để giữ phom. Scholesy hôm đó tham gia một trận đấu tập 10 v. 10 với chúng tôi, sự xuất hiện của anh khiến mọi người thấy hứng thú. Tôi thì chỉ nghĩ: Chắc anh ấy xin góp mặt để tìm kiếm chút cảm giác chơi bóng. Khi tôi tới khách sạn Lowry buổi tối hôm đó, Scholesy cũng đã có mặt. Một lần nữa, tôi lại nghĩ: À, chắc anh ấy đi theo đội để theo dõi mấy cầu thủ trẻ thôi. Anh ngồi cùng bàn với các huấn luyện viên, vốn không phải là chỗ ngồi quen thuộc của anh trước đây, nên tôi không còn nghĩ gì về chuyện của anh nữa. Trên chuyến xe buýt chờ toàn đội tới trận đấu, Scholesy ngồi vào đúng chỗ mà anh hay ngồi. Ở United có một quy định bất thành văn là mỗi cầu thủ đều có một chỗ ngồi riêng trên xe buýt. Vừa lên xe, Scholesy đã tiến thẳng về chỗ ngồi cũ của anh như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Cũng may là chưa ai chọn ngồi vào chỗ đó cả. Khi xuống tới phòng thay đồ ở Etihad, tôi thấy người phụ trách trang phục đã treo sẵn áo của Scholesy lên móc, và anh ngồi đó, lặng lẽ thay đồ. Điều gì đang xảy ra ở đây vậy? Có phải là Scholesy tái xuất không? Sếp cắt đứt dòng suy nghĩ của chúng tôi: “À, thông báo với anh em, hôm nay Scholesy sẽ ngồi dự bị nhé.” Cả đội cười rộ lên. Wow! Một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của Manchester United đã trở lại. Tôi từng nghĩ rằng những ngày được chơi bóng với Scholesy đã qua đi mãi mãi rồi! Chúng tôi đều cảm thấy hết sức phấn chấn. Trong khi đó, Scholesy vẫn ngồi trong góc, lặng lẽ mang giày vào, chỉ hơi cười một chút. Đúng kiểu của Scholesy, không lẫn vào đâu được, chuyện lớn vậy mà với anh cũng chỉ như là chuẩn bị ra vườn chơi đá ma với bạn bè thôi. Khi bước ra khỏi đường hầm để chuẩn bị khởi động, tôi không ngăn được mình bật cười khi thấy phản ứng của các cổ động viên lúc họ nhìn thấy Scholesy. Hôm ấy với họ như Giáng sinh, nhất là khi sếp rút Nani ra để tung Scholesy vào sân trong hiệp hai.
Chúng tôi thắng trận đấu Cúp đó, nhưng, trong nỗi đau ngàn kiếp của chúng tôi, City mới là những kẻ được nở nụ cười cuối cùng ở Premier League. Nói thẳng ra thì chính chúng tôi đã tự vứt đi cơ hội của mình khi chức vô địch đã ở trong tầm với. Chúng tôi từng dẫn Everton 4-2, rồi Pat đá trúng cột dọc, và sau đó chúng tôi để cho đối thủ gỡ hòa 4-4, đánh rơi hai điểm đầu tiên. Chúng tôi sau đó hành quân tới Wigan, biết rằng nếu thắng sẽ tạo được cách biệt tám điểm so với City trong bối cảnh mùa giải chỉ còn năm trận nữa, một trong số đó sẽ diễn ra ở Etihad. Wigan là một cơn ác mộng đối với tôi. Albert, người phụ trách trang phục, quên những miếng lót chỉnh hình đặc biệt của tôi ở nhà. Chân trái của tôi hơi dài hơn so với chân phải, nên tôi cần những miếng lót đó để giữ cho cơ thể cân bằng. Nhưng Albert lại quên chuyển những miếng lót ấy từ giày tập sang giày thi đấu cho tôi. Cảm giác đi giày mà không có những miếng lót ấy thật kỳ quái. Albert cũng quên cả những miếng lót của Giggsy nữa; ông cứ luôn miệng nói “Xin lỗi, con trai” với cả hai chúng tôi. Nhưng tôi không kể chuyện này ra để bao biện cho thất bại ở Wigan. Chỉ đơn giản là chúng tôi đã chơi không tốt, và thế là lại ném đi thêm những điểm số quan trọng nữa. Sếp điên lắm. Ông đã chuẩn bị để chúng tôi có thể đạt phong độ cao nhất vào cuối mùa, chứ không phải để chúng tôi thúc thủ trước một đội bóng đang vật lộn trụ hạng để rồi nhìn cơ hội dẫn trước đối phương tám điểm tuột qua tầm tay. Sau đó chúng tôi thua nốt City 1-0, và thế là trò chơi coi như kết thúc.
Tôi bước vào kỳ nghỉ trong tâm trạng vẫn chưa hết đau đớn. Thật may là năm đó có Euro nhưng tôi không phải tham gia, nên tôi đã được trải qua kỳ nghỉ dài nhất từ khi bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp, bảy hay tám tuần gì đó, và nhờ vậy mà tôi có cơ hội phục hồi cả về thể chất lẫn tinh thần. United là cuộc sống của tôi và đó là một cuộc sống căng thẳng, không ngừng vận động, cũng rất khốc liệt. Tôi yêu cảm giác khi mình thể hiện sự tận tâm, khi được hy sinh, và được thúc đẩy bản thân tới những giới hạn mới. Nhưng khi mùa hè tới thì “cắt đứt” được với bóng đá là chuyện mang tính sống còn. Tôi tự thấy mình là một kẻ ích kỷ khi mùa giải đang diễn ra. Tôi biết là Lisa chả thích thú gì khi nghe tôi nói, “Anh không tới bữa tiệc đó đâu” hay “Anh sẽ không đi dự đám cưới của bạn em đâu, nó ảnh hưởng tới lịch bóng đá của anh.” Cuộc sống của chúng tôi lúc đó đúng là chỉ gói trọn xung quanh tôi và bóng đá của tôi, và tới bây giờ nhìn lại, tôi thực sự cảm thấy có lỗi. Ngay cả khi đang ở nhà hay chơi đùa với bọn trẻ, tôi cũng chỉ nghĩ về việc làm thế nào để có thể thể hiện được tốt nhất trong buổi tập ngày mai hay trận đấu sắp tới và sau đó nữa. Có cố tôi cũng chẳng thể làm khác được. Tôi luôn luôn làm việc theo lịch trình và kế hoạch. Yoga, thứ Hai và thứ Năm. Hôm nay tập phần thân trên. Hôm sau tập sức mạnh cho đôi chân. Tiếp theo sẽ là các bài tập chạy. Tăng tốc. Tăng sức chịu đựng. Cứ thế...
Nếu có ai đó gọi điện hay nhắn tin cho tôi vào ngày diễn ra trận đấu, tôi sẽ nghĩ, Anh đang trêu điên tôi à? Thật là vô ý vô tứ. Anh nhắn tin vào lúc 4 giờ chiều làm gì? Tôi sẽ đá vào lúc 8 giờ đấy. Anh không biết là tôi sắp sửa có một trận đấu à? Sao tự nhiên giờ này lại làm phiền tôi? Thường những hôm đó, tôi sẽ nhắn tin cho Lisa vào lúc 1 giờ, “Anh sẽ đi nằm một chút. Đừng gọi anh. Hẹn gặp lại em sau trận đấu.” Bạn có thể cho rằng đó là một dạng ám ảnh, ừm, đúng rồi đấy. Khi mùa giải khép lại và mùa hè mở ra, Lisa thường nói, “Cuối cùng thì em cũng giành lại được Michael của em rồi.” Tôi tiếp cận mùa hè theo đúng tinh thần “xả van”, nên trong những tuần ấy, tôi trở thành một con người hoàn toàn khác. Lisa hay gọi đấy là “Michael náo nhiệt”. Trong khi mùa giải đang diễn ra, tôi rất khắt khe với bản thân, không bao giờ nhậu nhẹt, luôn ngủ đủ giấc, và luôn tập luyện nghiêm túc. Thế nên đến một thời điểm nào đó cơ thể tôi tự nhiên có nhu cầu phải xả. Mỗi năm vài lần, các bạn tôi sẽ kéo xuống từ Newcastle, và chúng tôi sẽ lôi nhau ra ngoài làm mấy vại bia. Nếu mà không được xả thì phát điên lúc nào cũng chẳng biết. Tôi cũng khá nhạy cảm trong chuyện ăn uống. Tôi không ăn đồ ăn nhanh, và hiếm khi đụng đến chất cồn, nhưng lại rất hảo ngọt. Nếu bạn mời tôi một cốc rượu vang, một cốc bia hay một cốc champagne, tôi sẽ chọn một... hộp kem, không bao giờ có ngoại lệ. Nhà tôi hay diễn ra cảnh tượng ngược đời: trong khi Lisa ngồi nhâm nhi rượu vang thì tôi ngồi bên cạnh chén lấy chén để một que Dairy Milk hay Galaxy ưa thích.
Sự ám ảnh của tôi không chỉ tác động tới tôi, mà còn ảnh hưởng mạnh tới Lisa, Lou và Jace. Tháng 6, khi tôi được tự do, là quãng thời gian đặc biệt của cả gia đình; chúng tôi có thể dành cả ngày bên nhau ở bể bơi hay trên bãi biển. Chỉ vào các kỳ nghỉ thì tôi mới có cơ hội nhìn lại để thấy bóng đá đã “lạm dụng” tôi, cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, kinh khủng đến thế nào. Có những thời điểm, tôi cần phải lùi lại một bước để nghĩ về những người khác, những người quan trọng nhất với tôi, chính là gia đình tôi. Khi ở nhà, không dễ mà đi ra ngoài với bọn trẻ. Chúng tôi sẽ khó mà được yên, cứ chốc chốc lại có người tới để xin chữ ký. Tôi không chịu nổi chuyện ấy, tôi muốn thời gian cả nhà đi với nhau là thời gian hoàn toàn riêng tư. Nhưng sau đó, khi chúng tôi đi xem đấu vật, tôi thấy Louise và Jacey cũng xuýt xoa không ngừng khi nhìn thấy các võ sĩ bước lên sàn. Chúng chỉ muốn lao lên xin chữ ký và chụp ảnh cùng với các thần tượng của mình. Nên tôi cũng phần nào thông cảm được với các cổ động viên mà chúng tôi gặp ở ngoài đường. Nhưng đôi khi tôi vẫn khó chịu vì gặp phải những kẻ hết sức thô lỗ. “Carrick, ký vào cái này đi,” thường họ sẽ chìa ra một cái gì đó trước mặt tôi và nói cộc lốc như thế. Mỗi lần như vậy, tôi lại nói, “Thêm một từ ‘làm ơn’ thì có mất gì không?” Thế là họ nhìn tôi như thể tôi là quái vật hai đầu vậy. Louise không ít lần nói với tôi: “Bố à, con chỉ mong đến lúc bố nghỉ đá bóng thôi, lúc đó thì người ta sẽ không còn làm phiền bố nữa.” Sự ngọt ngào của con bé làm tôi cảm thấy được an ủi phần nào. Con bé từng mê mẩn khu Trafford Centre. Có một lần, tôi dẫn con bé tới khu River Island để mua sắm, hy vọng bố con có chút thời gian chất lượng bên nhau. Nhưng rốt cuộc hôm đó con bé dành phần lớn thời gian đứng nhìn tôi ký tặng cho mọi người. Thế nên đến một hôm khác, khi tôi hỏi, “Con có muốn tới khu Trafford Centre không, bố con mình có thể cùng nhau tìm cho con vài món đồ xinh xinh?” Con bé lập tức lắc đầu nguầy nguậy, “Ôi không đâu bố ơi. Con không muốn tới đó đâu, vì tới đó bố toàn bị làm phiền, rồi con cũng chả được nói chuyện với bố mấy.” Nghe con bé nói, tôi thấy buồn và hối lỗi vô cùng.
Điều đầu tiên mà chúng tôi làm vào mùa hè năm đó là kéo cả đại gia đình đến Barbados. Phái đoàn năm đó có bố mẹ của Lisa, anh trai của cô ấy là Glen và vợ sắp cưới Jasmine, cùng bố mẹ tôi, Graeme và Kay. Lần đầu tiên trong một thời gian dài, tôi có thể vứt điện thoại trong phòng và dành cả ngày dài bên cạnh Lisa và bọn trẻ. Đấy là quãng thời gian tự do hiếm hoi tuyệt vời mà tôi có được trong năm, khi tôi có thể thức dậy và được quyền quyết định mình sẽ đi đâu và làm gì trong ngày. Tôi biết tôi là kẻ may mắn đến nhường nào, nhưng phải thú thực là cuộc sống của một cầu thủ bóng đá cũng hà khắc lắm. Từ mùng 1 tháng 7 tới cuối tháng 5, cuộc đời của tôi thuộc về Manchester United, và đến bây giờ thì chuyện đó vẫn không có gì thay đổi. Tôi yêu United, nhưng được thoát khỏi những yêu cầu, mệnh lệnh trong một hay hai tuần để có thể ở bên Lisa, Lou và Jacey một cách trọn vẹn cũng là điều tốt. Mùa hè ấy có thể nói là một mùa hè kỳ diệu. Sau khoảng hai tuần ở Barbados chỉ để không làm gì cả, tôi phải thừa nhận là tôi bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy. Trong tôi vang lên tiếng nói bí ẩn thúc giục tôi vào phòng gym và tập thể lực ngay lập tức. Tôi lúc nào cũng giữ cho cơ thể của mình trong tình trạng tốt ngay cả khi không tập luyện một cách bài bản.
Sau Barbados, Lisa và tôi lại tới Ibiza. Chúng tôi thuê thuyền sang Formentera và ăn trưa ở đó. Trước đó, chúng tôi đã gửi Jacey về Newcastle làm lễ rửa tội. Thế nên giờ chỉ có hai chúng tôi thôi, thật là hoàn hảo! Tôi dành thời gian còn lại của mùa hè để tới xem các cuộc đua Grand Prix và dự các... đám cưới. Khi trở lại Carrington, tôi cảm thấy cơ thể như vừa được sạc đầy năng lượng. Chỉ ước gì mùa giải bắt đầu ngay lúc này, tôi nghĩ. Tôi đã sẵn sàng rồi. Tôi đã tới một giai đoạn cảm thấy mình phải có nhiều trách nhiệm hơn. Và đây cũng là lúc tôi cảm thấy mình đạt tới đỉnh cao về phong độ. Những vấn đề với gót Achilles đã dịu đi, trong khi chuyện ở Sunderland thì vẫn khiến tôi sôi máu. “Không thể để cho điều đó xảy ra một lần nữa,” tôi không ngừng tự nhắc nhở mình khi mùa giải bắt đầu.
Tôi cảm thấy phấn khích khi biết người mà sếp sắp sửa mua về. Robin van Persie rõ ràng không phải là một bản hợp đồng điển hình của sếp, cả về tuổi tác lẫn giá cả. Sếp không mấy khi chịu trả nhiều tiền đến vậy cho một cầu thủ đã thành danh như điều ông làm với Robin, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng sếp đang suy nghĩ kiểu thời vụ vì lúc đó ông đã có kế hoạch nghỉ hưu rồi. Một bản hợp đồng lớn như Robin khiến tất cả mọi người đều cảm thấy hào hứng hơn. Robin là một tay dứt điểm thượng thặng mang trong mình sự kiên định đúng chất Hà Lan, nhưng điều quan trọng là anh hòa nhập rất nhanh và chẳng mấy chốc đã lĩnh hội được hoàn toàn tinh thần Manchester United. Anh hiểu rõ truyền thống của câu lạc bộ, và may mắn được những cầu thủ lớn trong đội hỗ trợ rất nhiều trong quá trình hòa nhập. Trong buổi tập đầu tiên của Robin, tất cả chúng tôi đều nhìn về phía anh như muốn hỏi, “Thế nào, anh có gì cho chúng tôi đây?” Những cú chạm bước một của anh có thể nói là hoàn hảo. Tôi như trong trận đấu với Fulham, khi chúng tôi đang bị dẫn 0-1 thì Robin xuất hiện với một cú volley bóng sống tuyệt vời khiến cho cả góc sân như thể sáng bừng lên. Sau đó anh còn lập một hat-trick vào lưới Southampton, trong đó hai bàn sau được ghi khi trận đấu đã trôi về cuối. Tôi nhớ là lúc ấy tôi đã nghĩ rằng, Đây chính là cầu thủ mà chúng tôi cần. Sếp còn mua cả Shinji Kagawa, Cầu thủ xuất sắc nhất Bundesliga ở mùa giải trước đó. Ngay sau tuần đầu tiên, Shinji đã tạo được ấn tượng mạnh tới mức Scholesy cũng phải lên tiếng khen ngợi: “Hắn ta cũng được đấy.” Scholesy đã khen, nghĩa là chẳng cần phải chứng tỏ gì thêm nữa. Shinji thực sự là một cầu thủ tài năng, anh lúc nào cũng muốn được nhận bóng và đóng vai trò người kết nối trong lối chơi của đội. Thật đáng tiếc là anh đã không thực sự thể hiện được hết tất cả khả năng của mình.
Ở United, những cầu thủ xuất sắc nhất không chỉ là những người thèm khát vinh quang nhất, mà còn là những người thông minh và lắm ý tưởng nhất. Một sự kiện xảy ra trong mùa giải năm đó khiến tôi nhớ mãi. Khung cảnh là thế này: Trước giờ nghỉ giữa trận ở Anfield diễn ra vào ngày 23 tháng 9 năm 2012, tỷ số vẫn là 0-0. Giggsy dốc bóng bên cánh trái, cố gắng tấn công vào vị trí của Martin Kelly, hậu vệ phải 22 tuổi của Liverpool. Khi Giggsy quay người lại, tôi đã ở đó, trong một khoảng không đủ rộng để nhận bóng, nên tôi gào lên, “Giggsy!” Anh lại quay người đi. “Giggsy! Này! Giggsy! Nghe thấy tôi không đấy?” Tôi cố gắng gào lên lần nữa. Anh vẫn tiếp tục xoay người, những cú nhanh và sắc, đẩy quả bóng hết sang trái rồi sang phải, khiến Kelly cũng phải xoay người không ngừng, nhưng nhất quyết không chuyền. “Khốn kiếp thật đấy, Giggsy!” - tôi cáu. Anh vẫn tiếp tục ngoặt bóng. Tới sát đường biên ngang, thêm một cú ngoặt và bóng đập vào chân Kelly đi hết biên. Cổ động viên United cũng không giữ được bình tĩnh. “Tạt bóng đi cho rồi,” họ làu bàu. Sau quả đá phạt góc, trọng tài nổi còi kết thúc hiệp một. Khi chúng tôi cùng đi xuống đường hầm, tôi gắt “Giggsy!?”, hy vọng sẽ được nhận từ anh một câu trả lời thích đáng. Anh cười, vỗ nhẹ vào lưng tôi rồi nói: “Bắp chân của hắn giờ này chắc đang cháy rực rồi. Chân hắn không dùng được nữa đâu.” “Khốn thật, thế hóa ra là anh đã cố tình làm như thế à?” Đúng là thiên tài! Giggsy không bao giờ để cho Kelly có cơ hội bắt nhịp. Anh bắt cậu ta di chuyển không ngừng, hết tấn công bên trong lại tấn công bên ngoài, hết giật về phía trước lại chạy vòng ra phía sau. Với những cầu thủ có thân hình to lớn thì việc phải đổi hướng liên tục là điều không hề dễ dàng. Với những hậu vệ nhỏ người hơn thì Giggsy lại thường chọn lối chơi trực diện hơn. Anh sẽ thường xuyên bám biên và đi bóng xộc thẳng vào vị trí của anh ta. Sự đa dạng trong lối chơi của Giggsy thật đáng kinh ngạc. Anh không chỉ chơi theo cách của mình, nghĩa là làm những gì anh muốn làm, mà còn có thể chơi theo yêu cầu của tình thế, nghĩa là làm những gì cần phải làm. Và đó là một khác biệt rất lớn. Trước khi làm bất kỳ điều gì, Giggsy đều suy tính rất kỹ. Trí thông minh bóng đá của anh quả thật có một không hai. Giggsy cũng giống như một võ sĩ quyền anh vậy, anh vờn cho đối thủ mệt nhoài rồi mới tung đòn quyết định. Anh áp dụng chiến thuật tương tự khi đối đầu với Micah Richards của City. Biết rõ ràng là không thể thi chạy với Micah, cũng chẳng có chút cơ may chiến thắng trong các cuộc tranh chấp bóng bổng, Giggsy chọn cách khiến cho anh ta mệt lử bằng những pha di chuyển nhỏ và lắt léo. Không ai trong số những người trực tiếp theo dõi trận đấu biết anh đang toan tính điều gì. Chỉ tới khi hết trận thì anh mới nói ra, vẻ khoái trá lắm. Khi Giggsy chuyền bóng cho Michael Owen ghi bàn quyết định ở phút bù giờ thứ sáu của trận đấu với City ở Old Trafford vào tháng 9 năm 2009, người lẽ ra phải có mặt và theo sát Owen là Micah. Khi tôi đem chuyện này ra nói với mọi người ở United, họ lập tức liên hệ với cách Solskjaer khiến Ashley Cole bơ phờ khi đá tiền vệ phải trong trận gặp Arsenal ở Highbury. Solsjkaer không ngừng kéo Ash vào trong, rồi lại ra ngoài, khiến anh ta không bao giờ có cơ hội ổn định ở vùng an toàn của mình. Sir Alex luôn muốn quy tụ dưới trướng những cầu thủ thực sự đá bóng bằng đầu.
Chúng tôi lại bước vào cuộc đi săn danh hiệu, điều mà chúng tôi vẫn luôn làm dưới thời Sir Alex. Có một trận đấu mà tôi sẽ nhớ mãi, là trận gặp Newcastle vào ngày Lễ tặng quà 2012. Đó là một trận chiến. Mặt sân sũng nước sau cơn bão và những cơn mưa không ngớt ở Old Trafford càng khiến cho trận đấu trở nên điên rồ. Theo một cách nào đó thì đấy là trận đấu đúng kiểu của Sir Alex, chúng tôi ba lần bị dẫn trước và ba lần gỡ hòa. Bàn gỡ 3-3 của Robin được ghi sau một pha kiến tạo của tôi. Sau bàn thắng ấy, chúng tôi tiếp tục dồn ép Newcastle để tìm kiếm bàn thắng quyết định. Khi thời gian chỉ còn tính bằng giây, Rio Ferdinand đẩy bóng cho tôi. Tôi không giỏi như Giggsy, Scholes hay Rooney trong việc thực hiện những pha bóng quyết định vào cuối trận; nhưng khoảnh khắc ấy, tôi thấy mọi thứ xung quanh như chuyển động chậm lại, tất cả đều rõ như ban ngày. Trong đầu của các cầu thủ vĩ đại hẳn là thường xuyên xuất hiện những hình ảnh kiểu này, tôi nghĩ. Tôi ngẩng lên quan sát nhanh và thấy Chicharito đang di chuyển; tôi biết rằng thời khắc đã tới - đấy là cơ hội để chúng tôi giành chiến thắng trong trận đấu này. Chúng tôi sẽ luôn luôn có cơ hội. Tôi bấm trái bóng vào khoảng trống trong vòng cấm, Chicha xoài cả người vào, và thế là cả sân vận động như nổ tung. Chicha nhảy vào vòng tay tôi, sếp thì ôm lấy Mick và đập tay với các cổ động viên ngồi ở gần khu kỹ thuật, chúng tôi tưng bừng ăn mừng sự kiện tạo được cách biệt bảy điểm so với đội xếp sau.
Tôi thường nhìn lại trận đấu với Newcastle và xem nó như là một minh chứng cho sự trưởng thành của tôi từ một cầu thủ bình thường thành một người sẵn sàng gánh lấy trọng trách dẫn dắt khi thời thế yêu cầu. Các cổ động viên của United cũng bắt đầu thể hiện tình cảm đối với tôi một cách rõ ràng hơn. Trận đấu ở Loftus Road vào ngày 23 tháng 2 năm 2013 là một sự kiện mà tôi sẽ không bao giờ có thể quên, bởi đó là lúc tôi nhận ra các cổ động viên bắt đầu hát bài hát dành cho riêng tôi. “Là Carrick đó, anh biết không; thật khó tin, nhưng không phải là Scholes,” đấy, đại loại thế. Tôi không hề nói quá đâu, họ đã hát bài hát dành riêng cho tôi trong khoảng 25 phút liên tiếp, và đối với tôi thì điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn. Chính xác thì bài hát này đã xuất hiện được một thời gian - tác giả của nó là Pete Boyle, một fan cuồng của Quỷ đỏ - nhưng phải tới trận đấu với QPR hôm đó thì tôi mới thực sự cảm nhận được bài hát ấy là dành riêng cho mình. Chúng tôi đang kiểm soát tốt thế trận, thời gian sắp hết, và cả một khu vực khán đài cứ thế hát vang tên tôi. Loftus Road là một sân bóng nhỏ và chật, nên từ dưới sân, tôi có thể nghe rõ mồn một từng câu từng từ của bài hát đó. Nó có tác động rất lớn đến tôi, mang tới cho tôi thêm năng lượng và sự tự tin. Trước đây chưa có ai hát bài hát nào cho riêng tôi, ít ra là cũng không phải như thế này, nên tôi thực sự vừa ngạc nhiên vừa xúc động. Và cả ngưỡng mộ tài năng của các cổ động viên nữa. Đâu có dễ kiếm được từ hợp vần với cái tên Carrick! Tôi vẫn thể hiện như bình thường trong khi trận đấu diễn ra, nhưng tới cuối trận, tôi đã tiến về phía các cổ động viên để vỗ tay và tri ân họ. Đó thực ra là điều mà tôi vẫn luôn luôn làm sau các trận đấu, nhưng ở Loftus Road hôm đó, tôi cảm giác hành động của mình mang tính cá nhân và đặc biệt hơn so với thường lệ. Tôi không phải kiểu người thích tự tìm kiếm thông tin về mình trên mạng, nhưng đêm đó, tôi đã lên các mạng xã hội, gỡ từ khóa “Carrick + bài hát”, và phát hiện ra rằng các cổ động viên đã hát về tôi không chỉ trong trận đấu mà còn sau trận, khi họ đang trên đường rời khỏi sân vận động, và cả khi họ đang ở trên phố.
Sau đêm Loftus Road, tới lượt khu Stretford End hát bài hát của tôi, và thế là nó lại càng trở nên nổi tiếng. Ngay cả tới bây giờ vẫn có những người nhắc lại chuyện ngày hôm đó khi gặp tôi trên đường: “Tôi ở QPR hôm ấy, mọi người ai cũng hát bài hát về anh.” Tôi thực sự biết ơn họ, bởi vì việc họ làm rất có ý nghĩa với tôi, ngày ấy là thế mà bây giờ vẫn vậy. Cho tới trước sự kiện Loftus Road, tôi vẫn thường cảm thấy các cầu thủ trân trọng tài năng của tôi hơn là các cổ động viên. Tất nhiên tôi không lấy thế làm khó chịu. Nhưng khi biết rằng các cổ động viên cũng trân trọng mình, tôi cảm thấy rất đặc biệt. Thực tế bài hát được các cổ động viên hát lên trên sân khách càng khiến cho sự đặc biệt tăng lên. Không có lời khen nào giá trị hơn việc 4.000 cổ động viên hát vang tên của bạn trong một trận đấu trên sân của đối thủ. Tôi đã được nghe họ hát những bài hát về Cantona, Butty, Wes, Scholesy và Georgie Best. Và cả bài hát tuyệt vời về Sheasy nữa. Thế nên khi thấy tên mình được xướng lên, cảm giác thật khó tả. Các cổ động viên của United mỗi khi xa nhà luôn có cảm giác phải có trách nhiệm phải bảo vệ đội bóng của mình, và một trong những vũ khí của họ chính là những bài hát cũ. Đó giống như là cách họ khẳng định, một cách đầy tự hào, rằng đây chính là những gì bọn ta đã làm được, đây chính là lịch sử của bọn ta, và hãy xem xem ai đang chiến đấu trong hàng ngũ của bọn ta. Trong sự ồn ào mà họ tạo ra chất chứa cảm giác tự hào, họ muốn thông qua những lời ca tiếng hát để khẳng định với cổ động viên đối thủ, rằng “Hôm nay ta đến đây, ngay trước cửa phòng các người, và ta ồn ào hơn các người.” Tôi biết họ đã phải hy sinh nhiều đến thế nào, cả về thời gian lẫn tiền bạc, để có thể theo đội trên những chuyến đi xa. Đó chính là tình yêu đích thực. Tôi để ý là các cổ động viên của chúng tôi khi tới sân khách thường đứng trong cả trận đấu. Không phải ai cũng sẵn sàng làm điều đó. Những cổ động viên mong muốn có một buổi chiều nhẹ nhàng, thoải mái chắc chắn sẽ không nghĩ tới chuyện vất vả vượt qua những quãng đường dài chỉ để được... đứng suốt 90 phút không nghỉ. Mà họ có lẽ cũng chẳng thích bầu không khí ồn ào, lộn xộn đó đâu. Các cổ động viên United trên sân khách chính là những cổ động viên tuyệt vời nhất, những “fan cứng” đích thực. Đôi khi, chúng tôi quên mất rằng Manchester United chính là cuộc sống của không biết bao nhiêu người. Điều này quả thật điên rồ, nhưng đó cũng chính là điều làm nên vẻ đẹp của bóng đá. Manchester United chính là tôn giáo của hàng triệu người. Tôi thấy hơi rùng mình khi nghĩ rằng mình ra sân không chỉ để thắng một trận đấu bóng, mà thực tế là để đại diện cho cuộc sống của không biết bao nhiêu con người. Tôi hiểu rằng với nhiều người, United đơn giản là tất cả.
Càng vào sâu trong mùa giải, người ta càng thường xuyên đặt ra những câu hỏi liên quan tới tương lai của Sir Alex, rằng liệu có phải đây là mùa giải cuối cùng của ông hay không. Nhưng vì những câu hỏi kiểu ấy năm nào cũng xuất hiện, nên tôi cũng không mấy bận tâm lắm. Trong nhận thức muộn màng, tôi đoán là khi David Gill tuyên bố, vào tháng 2, rằng ông sẽ rút lui vào tháng 6, ông đã biết trước chuyện Sir Alex sẽ nghỉ hưu khi mùa giải kết thúc. David và sếp đã làm việc với nhau rất ăn ý trong một thập kỷ, tới mức tôi luôn có cảm giác nếu một người là cánh tay trái thì người kia chính là cánh tay phải. Họ lúc nào cũng phối hợp một cách nhịp nhàng, và chính điều đó đã mang tới sự ổn định và bình yên cho Old Trafford. Sếp thường xuyên phàn nàn với David về trọng tài sau các trận đấu sân khách. “Này David, chúng ta phải làm gì đó với mấy tay trọng tài này,” ông thường nói ngay khi David vừa kịp đặt mông xuống ghế. Chuyện là David là thành viên của một ủy ban phụ trách các vấn đề về trọng tài của FA. Những lúc như thế, David luôn biết cách để xoa dịu sếp. Ông sẽ ngồi đó, kiên nhẫn lắng nghe hết những lời phàn nàn của sếp, và tới một thời điểm thích hợp, ông sẽ nói: “Được rồi, Alex, thế là đủ rồi.” Không phải David ngắt lời sếp một cách phũ phàng, ông chỉ muốn nói rằng ông đã hiểu được hết những tâm tư của sếp, và giờ là lúc họ có thể khép chủ đề này lại. Hai người luôn dành cho nhau sự tôn trọng không giấu giếm. Sau khi quan sát David với Sir Alex trong một thời gian dài, tôi có cảm giác ông là người duy nhất có thể kiểm soát được sếp. Ở David tỏa ra một khí chất đặc biệt, khiến người khác nhìn vào tự nhiên phải thấy tôn trọng, và điều đặc biệt là ông lúc nào cũng giữ được sự điềm tĩnh. Đội có thắng, hòa hay thua thì ông vẫn bước vào phòng thay đồ với một phong thái không đổi, vẫn hỏi han chuyện gia đình của các thành viên đội hậu cần, vẫn cho thấy được sự bặt thiệp của mình. Lúc này thỉnh thoảng David vẫn đi vào phòng thay đồ chỉ để nói dăm ba câu chuyện vu vơ và hỏi những câu như “Mọi việc vẫn ổn chứ?” Tôi luôn thấy ông là người dễ bắt chuyện. Ông không phải kiểu đao to búa lớn. Những gì ông làm thường dừng lại ở vài câu chuyện đùa, những cái bắt tay, và đôi ba bình luận chung chung về trận đấu. Ông tôn trọng không gian của chúng tôi. Dù sự hiện diện của ông là điều mà ai cũng có thể dễ dàng cảm nhận được. David là một nhân vật đầy quyền uy, nhưng lại rất dễ mến. Ông làm gì cũng thể hiện được sự đẳng cấp, dù là trong các cuộc nói chuyện kiểu xã giao sau một trận đấu hay khi thương thảo các điều khoản trong hợp đồng. Điều quan trọng nhất là ông yêu United với tình yêu của một cổ động viên bình thường.
Ngay cả sau tuyên bố của David, tôi vẫn không nhận ra sự liên hệ với các kế hoạch của sếp. Sau này nhìn lại, xem xét kỹ từng gợi ý ở thời điểm đó, tôi nghĩ lẽ ra mình phải suy ra được nhiều điều hơn từ phản ứng của sếp sau khi chúng tôi bị Real Madrid loại khỏi Champions League vào tháng 3. Chính thẻ đỏ của Nani ở Old Trafford đã đánh sập mọi hy vọng của chúng tôi. Khi tỷ số của trận lượt về đang là 1-0, và chúng tôi vẫn đang chơi rất tốt, thì Nani va chạm với Álvaro Arbeloa, vô tình đạp vào người cầu thủ Tây Ban Nha. Lúc ấy Nani không nhìn thấy Arbeloa, và ai cũng có thể thấy rõ đó chỉ là một tai nạn. Nhưng trọng tài Cüneyt Çakir không nghĩ thế, và ông ta rút ra một chiếc thẻ đỏ trực tiếp. Ok, cứ cho là có lỗi đi, nhưng thẻ vàng là được rồi. Thẻ đỏ ư? Quyết định ấy đã giết chúng tôi. Chúng tôi từng có cảm giác đây sẽ là mùa giải mà chúng tôi có thể tiến sâu, sếp cũng thế, nên ông gần như bị sốc sau thất bại. Champions League luôn là danh hiệu mà ông khao khát, và ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó khi thấy ông phản ứng một cách dữ dội ngoài đường biên. Thường thì sau những thất bại như thế này, phòng thay đồ sẽ rất lặng lẽ, nhưng hôm ấy sếp đã nói rất nhiều về quyết định của trọng tài. Ông giận tới mức không thèm tham gia buổi họp báo sau trận. Hẳn là Sir Alex đã biết rằng cơ hội cuối cùng của ông ở Champions League đã tuột khỏi tầm tay.
Tôi thường không để ý lắm tới các trọng tài. Tôi cho là họ cũng chỉ làm việc của mình thôi. Nhưng Pierluigi Collina vẫn tạo được cho tôi nhiều ấn tượng. Có thể xem ông như là một hình ảnh biểu tượng cho giới trọng tài. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông mặt đối mặt với Tomás Repka khi điều khiển trận Cộng hòa Czech gặp Hà Lan ở Euro 2000. Cổ ông nổi gân xanh, mắt thì nhìn trừng trừng vào cầu thủ người Czech. Nhìn thấy một trọng tài như thế, ai còn dám ho he gì. Tôi cũng biết khá rõ Mark Clattenburg, một người vùng Đông Bắc. Ông từng bắt không ít trận chung kết giải địa phương mà tôi tham dự khi còn thiếu niên. Ông vẫn còn trẻ, chỉ nhiều hơn tôi có sáu tuổi. Đó là một trọng tài tốt, từng có thời gian gặp khó khăn, nhưng sau đó đã trở lại được. Mark là người mà ta có thể nói chuyện. Không như nhiều trọng tài khác. Mỗi khi tôi cố gắng nói chuyện với một trọng tài nào đó, ông ta lại cố tỏ vẻ không quan tâm, nhiều khi tới mức thô lỗ theo cách của những tay giám thị khó tính ở các trường học. Tôi thường chỉ đến gần các trọng tài khi có điều gì đó xảy ra. Khi bóng đã đi ra ngoài sân và bóng chuẩn bị được phát lên, tôi sẽ chạy một cách từ tốn về phía trọng tài, cố gắng tỏ ra lịch sự nhất có thể. “À, nhân tiện đây tôi muốn hỏi, làm sao mà ngài lại không nhìn thấy tình huống đó?” Ấy thế nhưng nhiều trọng tài vẫn cố tình phớt lờ tôi, coi như không biết gì. Họ thậm chí chẳng buồn trao đổi. “Không. Anh đi đi. Đừng đứng chắn trước mặt tôi.” “Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu tại sao...” “Không! Đi ngay!” Vừa nói họ vừa vẫy tay xua đuổi. Một chiếc barie vừa được dựng lên, và điều đó khiến tôi cảm thấy rất khó chịu. Tôi không nói là các trọng tài có nghĩa vụ phải giải thích mọi quyết định của họ, nhưng một chút trao đổi thì nào có chết ai. Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu logic nào đằng sau quyết định của họ thôi mà. Cũng có một vài trọng tài chịu khó trò chuyện, nhưng đa phần tỏ rõ thái độ là họ không có thừa thời gian đi trả lời mấy anh cầu thủ. Trở lại với Old Trafford ngày hôm đó, không may cho chúng tôi, Çakir lại đúng là mẫu trọng tài không thích nói chuyện - Nani cứ thế rời sân, và chúng tôi cứ thế bị loại.
Chúng tôi vẫn còn Premier League, và điều an ủi cũng như niềm tự hào của tôi là năm đó, tôi đã chơi thứ bóng đá hay nhất trong sự nghiệp. Tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi biết rằng mình có tên trong danh sách đề cử rút gọn cho giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của PFA. Đây là giải thưởng do chính các cầu thủ bầu chọn. Trong danh sách rút gọn năm đó, ngoài tôi còn có Robin van Persie, Luis Suárez, Eden Hazard, Juan Mata và người sau này sẽ giành chiến thắng - Gareth Bale. Không dễ mà chen chân vào một danh sách như thế. Năm đó, tôi cũng giành giải Cầu thủ United xuất sắc nhất mùa giải do các đồng đội bầu chọn, và đó là một trong những khoảnh khắc đáng tự hào nhất trong sự nghiệp của tôi. Được chiến đấu bên cạnh các đồng đội trong suốt mùa giải, rồi đến cuối mùa lại được họ bầu chọn cho giải thưởng cao quý, tôi chẳng thể đòi hỏi gì nhiều hơn thế. Đối với tôi thì sự tin tưởng và tôn trọng từ các đồng đội chính là phần thưởng cao quý nhất. Bạn không bao giờ có thể lòe được các đồng đội của mình, họ quan sát thấy tất cả. Nhưng điều mà tôi quan tâm nhất vẫn là chức vô địch Premier League, và sau hat-trick của Robin vào lưới Aston Villa hồi tháng 4, chúng tôi đã có được điều mình cần. Đó cũng là danh hiệu Premier League thứ năm mà tôi có được. Ngay cả bây giờ, khi nhớ lại bàn thắng thứ hai của Robin, một pha volley không thể tin nổi, tôi vẫn cảm thấy ngộp thở. Đó là sự hoàn hảo. Nhưng cũng không thể không nhắc tới đường chuyền của Rooney. Nói chung, tất cả - từ đường chuyền tới pha dứt điểm - đều hoàn hảo, đó là một siêu phẩm và thủ thành Brad Guzan không thể làm gì khác ngoài việc vào lưới nhặt bóng. Robin sở hữu khí chất và sự tự tin chỉ có ở những cầu thủ hàng đầu.
Sáu ngày sau, các cổ động viên của Arsenal đã làm tất cả mọi cách mà họ có thể nghĩ ra để lăng mạ Robin khi chúng tôi tới Emirates nhưng anh không mảy may bận tâm, và chúng tôi cũng vậy. Tôi sẽ không nói là chúng tôi bước vào trận đấu trong tình trạng thể lực tốt nhất, bản thân tôi cũng không ổn lắm. Sau trận đấu với Aston Villa, chúng tôi đi thẳng lên phố và ăn mừng chức vô địch trong suốt ba ngày liền. Không hiểu sao, nhưng ngay trong lúc ăn mừng, tôi đã có cảm giác đây không phải là một danh hiệu bình thường, mà là một danh hiệu đánh dấu chấm hết cho cả một kỷ nguyên. Dù chúng tôi vẫn chưa biết được ý định của sếp, tôi vẫn linh cảm được về một sự kết thúc, và chính linh cảm ấy đã thôi thúc tôi tận hưởng niềm vui chiến thắng càng nhiều càng tốt. Scholesy đã quyết định là sẽ treo giày vĩnh viễn sau mùa này, nên cảm giác về sự chia ly lại càng rõ ràng hơn. Trong khi đang ngồi làm với nhau mấy cốc bia, tôi quan sát một vòng các đồng đội của mình ở United, và chợt nghĩ rằng điều tốt đẹp nào rồi cũng sẽ phải kết thúc.
Tôi cố gắng xua đi dự cảm về một sự kết thúc khi cả đội tập trung chơi golf ở rừng Dunham, gần Altrincham vào ngày thứ Ba, 7 tháng 5 năm 2013. Chúng tôi chơi theo luật của Ryder Cup, mười hai cầu thủ đấu với mười hai thành viên của ban huấn luyện, 18 lỗ buổi sáng và 9 lỗ vào buổi chiều. Tất cả mọi diễn biến của trận đấu đều được cập nhật liên tục trên MUTV. Trong khi chúng tôi đang vung gậy, tôi để ý là Sir Alex không có mặt ở đó, nhưng lúc ấy tôi không cho rằng có điều gì bất thường. Ông vốn có rất nhiều việc để làm mà. Thế nên tôi cứ tập trung tận hưởng trận đánh của mình, cho tới tận 7 giờ tối. Khi chúng tôi trở lại nhà câu lạc bộ, bằng cách nào đó, tin tức sếp sẽ nghỉ hưu bắt đầu lan ra. Tôi không thực sự tin, hay đúng hơn, không muốn tin đó là sự thật. Một vài cầu thủ tìm mọi cách để xác minh xem liệu thông tin đó có đáng tin cậy hay không. Cuối cùng thì không ai kết luận được điều gì, nên tôi lái xe về nhà trong niềm hy vọng rằng tất cả chỉ là một sự nhầm lẫn. Ông ấy làm sao mà nghỉ được, làm sao mà nghỉ được! Về tới nhà, tôi vồ lấy điều khiển ti vi, và thứ đầu tiên tôi thấy là dòng chữ “BREAKING NEWS” được phóng to, sau đó là thông tin “Nhiều nguồn tin khẳng định Sir Alex sẽ rời câu lạc bộ”. Đó là một thông tin gây chấn động. Sir Alex với chúng tôi như trời như bể. Chẳng có chút biểu hiện nào về việc Sir Alex đang dự định nghỉ hưu trong cách hành xử hằng ngày của ông. Tôi cố gắng lục lọi đầu óc để xem liệu có bỏ sót điều gì không, nhưng không, sếp lúc nào trông cũng ngon lành, mạnh khỏe, và đầy khát khao. Cơn điên mà ông thể hiện sau khi bị loại khỏi Champions League chỉ cho thấy ông muốn một lần nữa đăng quang ở giải đấu ấy nhiều đến nhường nào. Tôi không thể nào hiểu nổi.
Ngày hôm sau tôi đến Carrington sớm hơn thường lệ, nhưng có nhiều cầu thủ còn đến sớm hơn cả tôi. Cả bọn đang xúm đầu vào các tờ báo. Tin tức Sir Alex sẽ chia tay tràn ngập các mặt báo. “Sẽ chia tay”, “sẽ chia tay”, chỉ mấy tiếng thôi mà đầy sức nặng. Đầu tôi như ong lên. Thế này thì chắc là đúng thật rồi. Sếp đã đến từ trước, nhưng chúng tôi không có cơ hội gặp ông cho tới khi được triệu tập vào họp trong phòng thay đồ lúc 9 giờ 45 sáng.
Sếp bước vào, và thật kỳ lạ, tôi nhớ rõ từng chi tiết nhỏ nhất của khoảnh khắc ấy, như là việc ông ăn mặc thế nào. Hôm ấy sếp ăn vận rất thoải mái, với áo polo, quần kaki, giày loafer (không dây) phối với tất sáng màu. Như thể là ông lên đồ để chuẩn bị đi du lịch vậy. Tôi tự hỏi không biết ông kiếm đâu ra mấy chiếc tất đó. Sáng gì mà sáng thế! Nghe có vẻ hơi nhỏ nhặt, nhưng vì tôi biết tầm quan trọng của cuộc gặp hôm ấy, nên tôi để ý và cố ghi nhớ tất cả các chi tiết. Sếp bắt đầu nói, càng nói ông càng xúc động.
“Nghe này, các chàng trai, ta không muốn chuyện xảy ra theo cách này. Ta muốn các con là những người đầu tiên biết chuyện. Nhưng không hiểu làm thế nào mà tin tức lại bị rò rỉ ra ngoài. Ta cảm thấy thực sự thất vọng. Ta luôn muốn chủ động nói chuyện này với các con, và các con phải là những người biết đầu tiên. Có kẻ nào đó đã tuồn tin ra ngoài, nên bây giờ, chúng ta có mặt ở đây.” Sếp tỏ ra rất tức giận khi nhắc tới “kẻ nào đó”. Hẳn là ông đã biết “kẻ nào đó” là ai; làm gì có nhiều người biết chuyện này. Sir Alex tiếp tục, “Nghe này, các chàng trai, đây không phải là chuyện ta đột nhiên nghĩ ra.” Ông nhắc tới chuyện chị gái của Lady Cathy vừa mới qua đời. “Ta cảm thấy rằng ta nợ vợ ta quá nhiều, đã tới lúc ta phải ở bên và chăm sóc cho bà ấy. Những gì đã qua thật sự không thể tin nổi, cảm ơn các con vì tất cả, ta yêu từng phút từng giây mà ta đã trải qua ở đây. Ta thực sự không muốn chia tay, nhưng đã tới lúc ta phải đưa ra một quyết định.” Khó khăn lắm ông mới có thể nói ra được lời chia tay.
Cảm giác của tôi lúc đó thật kỳ lạ. Tôi biết những gì mà Sir Alex đang nói sẽ khiến cho cuộc sống của tôi thay đổi mãi mãi. Đây là một trong những khoảnh khắc vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá. Mọi người đều yên lặng. Tất cả đều bị sốc. Giờ không phải là lúc mở miệng. Sir Alex là người duy nhất nói. Đứng trước mặt tôi đây là người đàn ông chưa bao giờ cảm thấy khó khăn với vấn đề ngôn từ, là người mà những bài nói chuyện chẳng khác nào những màn bắn pháo hoa khiến cho trí tưởng tượng của người nghe rực sáng, nhưng lại đang bối rối không biết phải bắt đầu nói lời chia tay như thế nào. Cũng phải thôi. Người đàn ông vĩ đại ấy đang phải nói lời chia tay với đội bóng mà ông yêu quý, với những cầu thủ mà ông xem như con. Nhưng ông biết là mình không thể né tránh được mãi. “Nghe này các chàng trai,” ông nói, “dù nghỉ rồi nhưng ta sẽ luôn theo dõi và ủng hộ các con. Ta sẽ là cổ động viên lớn nhất của các con. Ta sẽ cố gắng đến xem nhiều trận đấu nhất trong khả năng, nhưng ta sẽ không bao giờ vào phòng thay đồ hay xớ rớ ở đường hầm, bởi vì như thế là không công bằng với huấn luyện viên mới.” Ông dừng một chút, rồi nói tiếp, “Có những người trong các con, ta đã biết từ rất lâu rồi. Có những người thì mới. Nhưng ta muốn nói lời cảm ơn tới tất cả, vì tất cả.” Nói rồi ông bước ra khỏi phòng. Cánh cửa của kỷ nguyên rực rỡ nhất trong lịch sử Manchester United đã khép lại.
Chúng tôi ngồi bất động trong khoảng một phút. Một phút thôi mà dài như cả thế kỷ. Chẳng ai nói gì. Cảm giác như cả đội đang trải qua một phút mặc niệm. Không khí ủ dột như thể vừa có tin ai đó mới qua đời. Chân chúng tôi như hóa đá hết. Người đầu tiên phản ứng là Giggsy, lúc đó ngồi ngay cạnh tôi. Giggsy đứng dậy, tiến về phía những chiếc máy đạp xe, và bắt đầu khởi động. Giggsy là người có thâm niên nhất ở thời điểm đó, anh là một huyền thoại, là người dẫn dắt cảm xúc cho toàn đội. Giggsy là người luôn luôn nghĩ về Manchester United, về đội bóng, và về con đường để tiếp tục tiến lên. Giggsy không nói gì, anh chỉ làm những việc mà anh vẫn làm. Những người còn lại rục rịch làm theo. Cả đội lê bước dọc hành lang như một lũ xác sống. Trái Đất vẫn xoay, cuộc sống vẫn tiếp diễn, buổi tập vẫn phải bắt đầu, nhưng bao trùm tất cả vẫn là sự im lặng. Ngay cả trong buổi tập, cũng chẳng ai nói với ai câu nào. Một phần vì tất cả chúng tôi đều cảm thấy sốc, một phần vì chúng tôi muốn thể hiện sự tôn trọng với Sir Alex. Đầu óc tôi nhộn nhạo hết cả. Tôi nhảy cóc từ suy nghĩ này tới suy nghĩ nọ, từ ký ức này tới ký ức nọ. Tôi nhớ lại hết tất cả những sự kiện và những danh hiệu mà tôi may mắn được chia sẻ với sếp. Tôi hiểu được lý do vì sao ông nghỉ hưu, tất nhiên, nhưng tôi cũng lo lắng về những hậu quả của nó. Tôi có thể thấy trước được tác động to lớn của quyết định này lên vận mệnh của Manchester United. Không phải ngẫu nhiên mà Sir Alex quyết định nói với chúng tôi ngay trước khi đội bóng đưa ra thông báo chính thức trên Thị trường chứng khoán lúc 10 giờ sáng. “Hệ lụy sẽ rất khủng khiếp,” tôi tự nói với bản thân mình trong lúc đang đạp xe. Scholesy quyết định treo giày vĩnh viễn vốn đã là một mất mát quá lớn rồi. Nay lại tới Sir Alex, người lãnh đạo mà tất cả mọi thành viên của câu lạc bộ đều nhìn vào khi cần được dẫn dắt, người đàn ông đã đưa tôi về United và dẫn dắt tôi tới 5 chức vô địch Premier League và 1 chức vô địch Champions League. Tôi như một bóng ma vật vờ lết qua các bài tập. Nói thật ra là cả đội cũng chẳng ai có tâm trí nào mà tập tành cho đàng hoàng, dù sắp tới là trận đấu với Swansea. Sau khi buổi tập kết thúc, cả bọn kéo nhau đi Chester xem đua ngựa. Sếp có một con ngựa cũng tham gia đua, nhưng hôm ấy ông không xuất hiện vì quá bận rộn với việc nói lời chia tay với mọi người ở Carrington. Nhất cử nhất động của chúng tôi ở Chester đều được các phóng viên ảnh và truyền hình theo sát. Một số cầu thủ xuất hiện trong những bộ vest mới. Một số thì không, và nếu xem lại các bức ảnh, họ hẳn là đều ước rằng giá như mình làm điều đó.
Phần còn lại của tuần chúng tôi dành để chuẩn bị cho trận đấu với Swansea, trận đấu cuối cùng của Sir Alex ở Old Trafford. Cả đội chưa bao giờ ở trong tâm trạng như thế. Một mặt, chúng tôi háo hức chờ tới thời khắc được trao danh hiệu Premier League. Mặt khác, chúng tôi biết rằng trận đấu này sẽ chứng kiến một trong những màn chia tay vĩ đại nhất trong lịch sử. Đêm trước trận đấu cuối cùng của Sir Alex ở Old Trafford, chúng tôi tập trung ở sân để cùng nhau lên xe buýt tới khách sạn Lowry như thường lệ. Đêm đó Wigan gặp City ở chung kết FA Cup, trận đấu được tường tuật trực tiếp trên truyền hình. Khi xe di chuyển, tín hiệu truyền hình rất tệ, nên chúng tôi quyết định dừng xe, đóng hết cửa lại và xem nốt 10 hay 15 phút gì đó cuối trận trong bãi đỗ xe. Ben Watson ghi bàn thắng quyết định cho Wigan ở phút cuối và cả xe buýt như phát điên. Chúng tôi nhảy nhót và la hét ầm ĩ, một số người còn quá khích đập ầm ầm vào cửa kính. Cảnh tượng lúc đó điên rồ hết chỗ nói! Chẳng có gì ngọt ngào hơn việc City để thua trong một trận chung kết vì một bàn thắng ở phút cuối. Bên ngoài xe lúc ấy có khoảng 50 cổ động viên, họ hẳn là đã tự hỏi nhau không biết chuyện quái gì đang diễn ra bên trong xe buýt. Ngày hôm sau, khi chúng tôi đang ở trong phòng thay đồ chuẩn bị cho trận đấu với Swansea cũng là lúc trận bán kết play-off Championship giữa Watford và Leicester được phát trên truyền hình. Đó là một trận đấu điên rồ. Chúng tôi vừa xem vừa gào thét ầm ĩ, và khi Manuel Almunia cản được cú sút penalty của Anthony Knockaert thì sự ồn ào lên tới cực đỉnh. Nhưng ngay sau đó là một khoảnh khắc im lặng dài khi Watford tổ chức phản công. Ai đó nói “chờ đã nào, chờ đã nào”, rồi Troy Deeney ghi bàn và cả đội như phát điên. Một trận đấu kỳ lạ. Nhưng dù thế nào thì nó cũng chẳng liên quan gì tới chúng tôi. Khi không khí trong phòng lắng lại, tôi chờ sếp thông báo đội hình ra sân, vừa chờ vừa thầm cầu xin:“Làm ơn, sếp ơi, cho em đá cặp với Scholesy một lần nữa đi.” Nghe thật thảm hại, đúng không? Nhưng đó là điều mà tôi thực sự mong muốn, nên tôi đã mừng muốn phát khóc khi ông cho cả hai chúng tôi đá chính.
Bài phát biểu của ông không có gì đặc biệt, ông chỉ dặn chúng tôi ra sân và chơi bóng “như bình thường”. Không khí bên trong sân Old Trafford hôm ấy, như bạn có thể đoán được, là không thể tin nổi. Tất cả những ai có mặt ở sân vận động hôm ấy đều cảm thấy mình may mắn khi có được đặc ân chứng kiến một sự kiện lịch sử như thế. Trên các khán đài là một cảnh tượng kỳ vĩ khi 70.000 lá cờ đỏ được các cổ động viên vẫy không ngừng. Hệ thống âm thanh của sân vận động cũng phát đi phát lại hai bài hát ưa thích của Sir Alex là My Way của Frank Sinatra và Unforgettablecủa Nat Cole King. Quả là những lựa chọn hoàn hảo! Chúng tôi lập thành một hàng rào danh dự để chào đón Sir Alex. Khi ông bước ra, xướng ngôn viên của sân vận động Alan Keegan hô vang, “Xin chào người đàn ông đã biến những giấc mơ không tưởng trở thành sự thật.” Câu nói ấy đã tóm gọn được hết di sản của sếp. Khi ông tiếp quản, không ai có thể dự báo về những gì mà ông sẽ làm được. Tôi nhìn lên và thấy hai con số trên bảng điện tử: 26, 38. Tất cả chúng tôi đều biết ý nghĩa của chúng là gì: 26 năm, 38 danh hiệu. Tôi cũng cảm thấy rằng sếp đã có được cái kết viên mãn khi trận đấu cuối cùng của ông ở Old Trafford cũng là trận đấu ban tổ chức chọn để trao cho ông danh hiệu Premier League cuối cùng, danh hiệu thứ 13, và tất nhiên là trận đấu ấy kết thúc bằng một thắng lợi, nhờ bàn thắng muộn của Rio Ferdinand. Sir Alex có lẽ cũng không thể tự mình lên được một kịch bản hợp lý hơn thế.
Trong khi đó, tôi dành phần lớn thời gian của trận đấu chỉ để chuyền bóng cho Scholesy, cho tới khi anh rời sân. Và có lẽ, hành động tri ân có ý nghĩa nhất với sếp là chúng tôi đã bật dậy mạnh mẽ sau nỗi buồn ở sân Ánh sáng và làm được điều mà ông đã chỉ đạo: “ĐỪNG BAO GIỜ quên cảm giác của ngày hôm nay là như thế nào.” Chúng tôi đã không khiến sếp thất vọng. Vào cuối trận, Sir Alex nắm lấy microphone và thực hiện một trong những bài phát biểu kinh điển của mình. Tôi không nghĩ là ông thực sự chuẩn bị trước bài phát biểu ấy. Ông là một diễn giả bẩm sinh, không cần phải cố gắng quá nhiều để có thể làm chủ được khán giả của mình. Tôi nhận ra sức mạnh ngôn từ trong ông ngay từ những ngày đầu ở United, khi ông phải nói cái gì đó trong bữa ăn tối cùng toàn đội. Sếp cứ thế đứng dậy và nói, ngắn gọn nhưng đủ ý và đầy sức mạnh. Ngay cả trong các bữa tối của UNICEF, ông cũng thường đứng lên nói về việc làm từ thiện, về những đứa trẻ và tầm quan trọng của việc quyên góp tiền bạc. Không cần ghi chú gì cả, ông cứ thế nói thôi. Với tôi, Sir Alex còn hơn cả một nhà quản lý bóng đá. Hơn nhiều. Ông là một người đàn ông vĩ đại, một nhà lãnh đạo, khi ông đứng dậy bắt đầu bài nói chuyện của mình, ông khiến mọi người phải lắng nghe, và ở một mức độ nào đó, ông có thể thao túng họ. Người ta tin tưởng hoàn toàn vào những gì ông nói. Đấy là một cảnh tượng luôn đáng kinh ngạc. Chúng tôi cũng thế thôi; một khi ông đã nói, chúng tôi sẵn sàng vì ông mà lao qua tường gạch. Ông đã tạo được một văn hóa mà trong đó mỗi cầu thủ đều muốn làm ông hài lòng, đều không muốn khiến ông phải thất vọng. Đấy không hề là điều dễ dàng trong một thế giới đầy rẫy những cái tôi và trong một đội bóng gồm toàn những ngôi sao hàng đầu thế giới. Đó chính là dấu ấn của sự tôn trọng mà chúng tôi dành cho sếp.
Sau bài phát biểu cuối cùng của sếp ở Old Trafford, chúng tôi lại thêm hiểu tình yêu mà ông dành cho các cầu thủ và cho Manchester United là lớn đến nhường nào. Ông như muốn gửi tới các cổ động viên một thông điệp: “Nếu các bạn đã từng đứng bên tôi, thì bây giờ, đã tới lúc các bạn đứng bên vị huấn luyện viên mới.” Hôm ấy tôi không có cảm giác ông bị xúc động. Tôi thấy ông hài lòng thì đúng hơn. Ông hài lòng vì đã có thể ra đi trong vinh quang, như thể là ông đã từng nghĩ, Giờ là lúc rồi. Khi bắt đầu, mục tiêu của sếp là “đánh bật Liverpool khỏi đỉnh cao của họ”. Ông đã làm được điều đó. Ông đã giúp Manchester United vượt qua thành tích giành 19 chức vô địch quốc gia của Liverpool. Ông xứng đáng được kết thúc trong vinh quang. Với tôi, điều đặc biệt là Louise và Jacey đã đủ lớn để có mặt trên sân hôm đó và có thể hiểu được phần nào những gì đang diễn ra. Tôi cũng cảm thấy tự hào vì đã đóng góp một phần không nhỏ trong chức vô địch Premier League, vì tôi đã cố gắng hết sức vì sếp.
Trước trận đấu cuối cùng của mùa giải ở West Brom, sếp gọi tôi vào văn phòng của ông. “Cảm ơn vì tất cả,” ông nói. Chúng tôi nói chuyện về huấn luyện và quản lý, rồi ông hỏi, “Con muốn làm gì?”
“Có lẽ con sẽ theo nghiệp huấn luyện.”
“Khi bắt đầu, hãy nhớ lùi lại một bước để có thể quan sát được tất cả mọi người. Đừng để mình mắc kẹt ở giữa, nơi con có thể bỏ lỡ tất cả.”
Tôi biết là mình sẽ không bao giờ được phép quên những lời khuyên này. Đấy không phải là một cuộc chia tay kiểu sến sẩm, không có nước mắt mà cũng chẳng có những cái ôm, nhưng cả sếp lẫn tôi đều biết rõ rằng mối quan hệ công việc giữa chúng tôi có ý nghĩa nhiều đến thế nào. Đấy là vấn đề tôn trọng. Vả lại sự tôn trọng mà chúng tôi dành cho nhau không nhất thiết phải nói ra thành lời. Một cái bắt tay kiểu Anh khi tôi đứng dậy để rời đi. “Cảm ơn con vì tất cả, và chúc con may mắn trong tương lai,” Sir Alex nói. “Cố gắng giữ liên lạc nhé.”
Đêm trước trận đấu cuối cùng của Sir Alex ở The Hawthorns, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc đặc biệt trong khách sạn Hyatt ở Birmingham. Trong bữa tiệc sẽ có màn tặng quà. Tôi và Rio đã nhờ Tom Bolt, một chuyên gia săn đồng hồ, tìm cho chúng tôi một chiếc được sản xuất vào năm 1941, là năm Sir Alex chào đời. Chúng tôi đã tặng nó cho sếp, kèm theo một album tổng hợp lại sự nghiệp của ông. Rio là người nhận trách nhiệm trao quà, và đó là lần đầu tiên tôi thấy sếp không nói nên lời. Tôi chưa từng thấy sếp trong tình trạng không biết phải làm gì hay nói gì. Ở ông lúc nào cũng toát ra vẻ quyền uy. Nhưng trong một khoảnh khắc, ngắn thôi, chúng tôi đã được chứng kiến phần mềm yếu trong con người sếp. Rõ ràng là ông bị xúc động mạnh bởi những món quà của chúng tôi. Đấy không phải là những món quà có giá trị to lớn gì cho lắm, nhưng Sir Alex biết chúng mang theo sự tôn trọng mà chúng tôi dành cho ông, và đó chính là điều đã khiến ông bị xúc động mạnh. Giống như những học trò bày tỏ lòng biết ơn với người thầy của mình. Ông cuối cùng cũng nói được lời cảm ơn, nhưng ngoài ra thì không nói thêm được gì nhiều.
Và sau đó là màn chia tay điên rồ ở West Brom. Sir Alex cho tôi mang băng đội trưởng trận đấu. Không thể diễn tả hết cảm giác tự hào của tôi lúc đó, khi được dẫn các cầu thủ United ra sân trong trận đấu cuối cùng của sếp. Tới giờ tôi vẫn giữ cái băng đội trưởng ấy. Bài phát biểu cuối cùng của sếp là về sự nỗ lực. Tới tận những giây phút cuối cùng trong vai trò huấn luyện viên của Manchester United, sếp vẫn thể hiện được sự nghiêm túc tối đa. Ở tuổi 71, trong trận đấu cuối cùng của sự nghiệp, ông vẫn có thể gieo sự sợ hãi vào đầu những chàng trai 20, 30. Sếp chưa bao giờ đánh mất ngọn lửa quyết tâm chỉ có ở những người sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động như ông. Phương châm của ông là làm việc thật chăm chỉ để có được những gì có thể có, và sau đó làm việc chăm chỉ hơn nữa. Sẽ là tuyệt vời hơn nếu chúng tôi có thể giành chiến thắng trong trận đấu cuối cùng của sếp, với tỷ số 5-4 chẳng hạn. Nhưng tỷ số 5-5 cũng hoàn toàn hợp lý, ở một chừng mực nào đó. Sir Alex luôn yêu thích những khoảnh khắc điên rồ như thế.
Chúng tôi lên xe trở lại Carrington ngay sau trận đấu. Hôm ấy là Chủ nhật. Chưa đến 7 giờ tối, nhưng đã có người rủ rê, “Có ai có nhã hứng đi làm vài cốc bia không nhỉ?”
Tôi hưởng ứng ngay. Rồi tôi quay sang Scholesy, “Nào, Scholesy. Làm vài cốc chứ?”
“Chơi luôn,” Scholesy nói.
“Đi với, đi với,” đến lượt Rio lên tiếng. Thêm Strudders, bếp trưởng Mike, Mick Phelan và Simon Wells - chuyên gia phân tích, nhập bọn. Ai đó gợi ý tới quán Barton Arms ở Worsley, thế là chúng tôi vứt hết xe lại Carrington và leo cả lên xe của Giggsy, vì anh sống ở Worsley. Hậu quả của cảnh nhồi nhét đó là tôi bị giẫm bẹp cả chân. Cũng may là Barton Arms không ở quá xa. Chúng tôi uống vài cốc ở đó, rồi lại kéo nhau vào phố. Đêm đó có thể là lần cuối cùng chúng tôi có cơ hội đi xõa với Scholesy, nên cả đội quyết định phải chơi tới bến. Bên cốc bia, chúng tôi cùng nhìn lại cả mùa giải vừa qua, cũng như sự nghiệp tuyệt vời của Scholesy. Scholesy sắp sửa treo giày, sếp thì cũng chuẩn bị nghỉ hưu, và Mick cũng sẽ chia tay vào cuối mùa, nên đêm ấy có cảm giác như chúng tôi đang cùng nhau ăn Bữa tối cuối cùng, chỉ khác ở chỗ là so với Chúa và các môn đồ, chúng tôi có bia.
Chúng tôi không chuẩn bị gì để chia tay Scholesy. Thực ra thì anh cũng chẳng bao giờ thích những thứ quà cáp như thế. Ngày tiếp theo, chúng tôi còn màn diễu hành với chức vô địch. Chúng tôi có thừa thời gian để chuẩn bị cho sự kiện này, do đã vô địch Premier League từ hai tuần trước. Cả đội gặp nhau ở Old Trafford, rồi leo lên xe buýt trước sự chứng kiến của tất cả các gia đình. Xe chở chúng tôi chầm chậm lăn bánh dọc theo đường đôi từ Old Trafford dẫn tới tận Deansgate. Chuyến đi kéo dài trong hai tiếng. Thời điểm tới được Deansgate thì tôi đã lạc cả giọng sau khi hát hò không ngừng suốt đường đi. Đó chắc chắn là một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất mà tôi có được trong đời. Tôi buộc máy quay vào cổ, ngoài ra còn dùng cả điện thoại nữa, để đảm bảo rằng mình sẽ không để lọt bất kỳ khoảnh khắc nào. Khi xe rẽ vào Deansgate, tôi như muốn nín thở với cảnh tượng trước mắt. Ở Deansgate có một tòa nhà, năm hay sáu tầng gì đó, và phía trước tòa nhà người ta dựng lên một giàn giáo cao. Các công nhân xây dựng đã che cái giàn giáo bằng một tấm bạt lớn, nhưng ai đó đã kéo tấm bạt xuống, và thế là cái giàn giáo trở thành một kiểu khán đài lưu động, tầng nào tầng nấy đều đặc kín người. Chỉ có Chúa mới biết làm thế nào mà lại không có ai rơi xuống. Các cổ động viên một tay bám vào giàn giáo, một tay vẫy chào chúng tôi. Họ phát cuồng hết rồi. Cảnh tượng điên rồ ấy một lần nữa nhắc tôi nhớ, Manchester United có thể có những tác động to lớn như thế nào lên tinh thần của người dân. Tôi cũng sẽ không bao giờ quên cảnh tượng ở quảng trường Albert. Cả một khu vực rộng lớn đã được nêm chặt bởi người là người. Trên sân khấu, ban nhạc Courteneers vẫn đang biểu diễn say mê. Ồn ào và náo nhiệt kinh khủng! Các cổ động viên hẳn là đã chờ chúng tôi trong nhiều giờ rồi. Tất cả những ai có mặt trên chiếc xe buýt hôm đó đều không tin rằng những gì đang diễn ra trước mắt mình là sự thật. Bữa tiệc này là sự bù đắp xứng đáng cho việc chúng tôi không được đi diễu hành sau chiến thắng ở Moscow.
Chúng tôi leo lên sân khấu và bắt đầu nhảy nhót như điên. Cả bọn chẳng ai muốn rời khỏi sân khấu, nhưng đành phải làm thế sau khi được ban tổ chức yêu cầu vì họ thấy sân khấu sắp sập đến nơi. Tàn tiệc, một số cầu thủ tách đoàn trở về nhà, còn ban huấn luyện thì lên ban công của tòa Thị chính để nói lời tạm biệt. Những ai chưa muốn về thì kéo nhau tới Rosso, nhà hàng của Rio, để tiếp tục tiệc tùng. Tôi đã không đi chơi thì thôi, một khi đi rồi thì sẽ không bao giờ có chuyện bỏ về sớm. Hoặc là không chơi, hoặc đã chơi thì phải hết mình, và bây giờ là thời điểm phải hết mình. Những chuyện sau đó, để sau!