• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tự truyện Michael Carrick - Giữa những lằn ranh
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 24
  • Sau

15Louis

T

ôi thấy thích thú khi nghe tin Louis van Gaal được bổ nhiệm. Đó là một tên tuổi lớn, một huấn luyện viên rất thành công với danh tiếng chẳng mấy ai bì kịp. Louis đã dẫn dắt một số đội bóng vĩ đại, đồng thời ông còn tạo dựng được danh tiếng về một huấn luyện viên có khả năng phát triển các cầu thủ trẻ. Ông đã giành chức vô địch châu Âu với một đội Ajax toàn những cầu thủ sẽ trở thành siêu sao trong tương lai, từng huấn luyện Barcelona và chính là người đã loại chúng tôi khỏi Champions League vào năm 2010 khi dẫn dắt Bayern Munich. Tôi biết ông là một nhân vật ấn tượng, một cá tính lớn. Một lý do khác để tôi háo hức chờ đón Louis là tôi vẫn luôn ngưỡng mộ bóng đá Hà Lan và phong cách chơi bóng của họ. Tôi có những trải nghiệm tuyệt vời với Martin Jol và René Meulensteen, cách họ tiếp cận trận đấu rất hợp với tôi. Tôi cũng biết, từ chuyến du đấu Hà Lan với Wallsend Boys Club hồi nhỏ, rằng văn hóa bóng đá của Hà Lan là rất khác so với văn hóa bóng đá của Anh, rằng phong cách chơi bóng của họ thiên về kỹ thuật và tính phương pháp, được phát triển dựa trên những suy xét thấu đáo thay vì bản năng. Cầu thủ Anh thì chơi máu lửa và để cho cảm xúc chi phối nhiều hơn. Thế nên tôi rất háo hức chờ đợi ngày được tận mắt quan sát cách Louis làm việc.

Khi chúng tôi trở lại sau kỳ nghỉ, Louis vẫn đang cùng đội tuyển Hà Lan chinh chiến ở World Cup, nên các huấn luyện viên của ông là Albert Stuivenberg và Marcel Bout, với cả Giggsy nữa, là những người chịu trách nhiệm tổ chức những buổi tập đầu tiên. Dưới thời Louis, chúng tôi vận hành theo cách tôi chưa từng thấy trước đó, rất chặt chẽ, lớp lang, và cực kỳ nghiêm túc. Người Hà Lan cực kỳ chú trọng tới việc chỉnh sửa những chi tiết chưa hoàn thiện - làm sao để chuyền bóng không bị lập bập, làm sao để đứng đúng vị trí. Mọi chuyển động trên sân đều phải có ý nghĩa. Chúng tôi mất khá nhiều thời gian để làm quen với phương pháp mới, bởi vì mỗi lần chúng tôi làm cái gì đó mà Louis và các huấn luyện viên của ông thấy không đúng là họ lại cho dừng buổi tập để nhắc nhở.

Tôi vẫn nhớ có lần Louis gọi tôi vào văn phòng của ông ở Carrington và hỏi, “Cậu nghĩ là cậu chơi được ở vị trí nào?” Tôi có cảm giác là ông biết thừa rồi, và cũng đã có sẵn kế hoạch cho tôi rồi, nhưng vẫn hỏi, chắc là muốn nghe trực tiếp từ tôi. Louis có kiểu nói chuyện rất căng. Ông ngồi rất sát, như muốn trấn áp người đối diện. Tôi quyết tâm mở lòng đón nhận những cái mới, và hệ quả là Louis đã thay đổi hoàn toàn cách chơi bóng của tôi. Trong vai trò một tiền vệ dưới thời Sir Alex, tôi thường xuyên lùi xuống khoảng trống ở giữa hai bên các trung vệ để nhận bóng. Nhưng dưới thời Louis, tôi được yêu cầu phải giữ vị trí ở phía trước của các trung vệ và chờ tới khi trái bóng được chuyền vào vị trí của mình.

Louis bị ám ảnh bởi việc phải tạo ra những tình huống áp đảo về quân số - ba đánh hai, hai đánh một - và để làm được điều đó, chúng tôi phải tập, tập và không ngừng tập. Những buổi tập đã hoàn toàn thay đổi, ít chú trọng vào thể lực trong khi lại tập trung nhiều hơn vào yếu tố kỹ thuật, vào các mảng miếng và những hành động lặp đi lặp lại. Louis đòi hỏi rất cao, ông ép chúng tôi tập luyện như điên mỗi ngày. Ông không thích thấy chúng tôi cười đùa trên sân tập. Tôi đồng ý là những bài tập này ít nhiều đã phát huy tác dụng khi mà đối thủ thường không thể lấy được bóng trong chân của chúng tôi; tuy nhiên, cũng bởi vì lối chơi quá nặng về cấu trúc, chúng tôi đánh mất đi sự sáng tạo và không còn nguy hiểm như trước nữa. Những bài tập dưới thời Sir Alex thường diễn ra một cách liền mạch, trong khi với Louis là tập, dừng, và tập tiếp. Louis không ngừng căn vặn, và nhiều cầu thủ tỏ ra khó khăn trong việc làm quen với điều đó.

“Tại sao anh lại làm điều đó?” Louis không ngừng đặt ra những câu hỏi kiểu như thế trong các buổi tập. Quy trình thường thấy là chúng tôi dừng tập, nghe ông nói, nghe ông nói thêm, và bắt đầu lại từ đầu. Cách tiếp cận này khiến tôi mệt mỏi về mặt tinh thần, nhưng tôi phải nhấn mạnh rằng tôi nhặt nhạnh được không ít ý tưởng hay khi nghe Louis nói. Nhiều thông tin thực sự hữu ích. Tôi như được mở mắt một lần nữa khi chứng kiến những tác động mà phương pháp huấn luyện này có thể tạo ra trên các cầu thủ. Louis giúp cho các cầu thủ hiểu rõ hơn lý do tại sao lại làm việc này, tại sao lại làm việc kia, và cũng nhờ đó họ có được một hình dung tốt hơn về vị trí tương đối ở trên sân. Phương pháp huấn luyện này đi vào từng chi tiết nhỏ nhất, nhưng mặt trái của nó là khiến cho các cầu thủ cảm thấy bức bối vì không thể chơi bóng một cách tự do, thoải mái như trước.

Nhiều cầu thủ mới xuất hiện, nhiều cầu thủ cũ bị bán đi, khiến cho sự ổn định của đội hình bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôi hiểu rằng chúng tôi cần phải thay đổi, rằng cần phải ủng hộ những ý tưởng của Louis, nhưng tôi vẫn cảm thấy rất tiếc khi chúng tôi để mất đi những người hiểu được giá trị tinh thần của việc đại diện cho Manchester United cũng như những trách nhiệm và thái độ mà đội bóng yêu cầu. Vào thời điểm đó, chơi bóng cho Manchester United trở thành một công việc nhiều hơn là một đam mê. Với Louis, chúng tôi lặp đi lặp lại một quy trình cho mọi trận đấu: trước trận thì họp hành để chuẩn bị, sau trận lại họp tiếp để đánh giá. Những buổi họp ấy rất giá trị, đầy tính thông tin, rất rõ ràng, và tôi học được rất nhiều từ chúng. Nhưng việc lặp đi lặp lại một hành động trong một thời gian dài khiến cầu thủ chúng tôi trở nên chai lì và cùn mòn. Sự cứng nhắc của quy trình này làm cho tất cả những ai liên quan đều cảm thấy mệt mỏi. Ngay cả Louis cũng từng nói rằng chơi bóng cho ông sẽ không dễ dàng vì ông là người quyết liệt và đòi hỏi rất cao. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng cũng phải nói rằng phần lớn những gì mà Louis làm đều rất chất lượng. Vấn đề là chúng tôi không tìm được sự cân bằng giữa việc khi nào thì cần phải căng mình ra để thẩm thấu hết tất cả các thông tin, và khi nào thì cần thả lỏng một chút.

Louis không bao giờ lòng vòng khi đánh giá một sai lầm. “Điều đó không cần thiết,” ông thường nói nếu có một ai đó để mất bóng. “Tại sao cậu không sút sang hai bên khung thành?” là câu hỏi dành cho những cầu thủ vừa bỏ lỡ một cơ hội. Louis luôn tìm kiếm một lời giải thích cho mọi việc. Với ông thì chỉ có trắng hoặc đen. Tôi vẫn quen với việc Sir Alex đưa ra những chỉ đạo chung chung, kiểu cần phải di chuyển hay chuyền bóng lên phía trước, hay làm một cái gì đó để thay đổi nhịp độ của trận đấu, tạo ra sự hỗn loạn và khiến cho đối thủ lưỡng lự. “Thâm nhập, thâm nhập,” Sir Alex sẽ chỉ đạo kiểu thế. Louis thì theo một phong cách khác hẳn. Ông rất chi li và muốn mọi việc phải được kiểm soát, thế nên chúng tôi phải thay đổi để thích ứng. Louis là sếp, là người đứng đầu, và nếu người đứng đầu đã muốn điều gì, thì việc của các cầu thủ là cứ thế làm tốt nhất có thể. Không cần biết là ý muốn đó đúng hay sai.

Tôi có thể thấy rõ những hiệu quả tích cực từ phương pháp huấn luyện của Louis. Chúng tôi có những tiến bộ đáng kể trong nhiều mặt. Những trận đấu lớn là những trận mà Louis thể hiện được tài năng của mình một cách rõ ràng nhất với những thay đổi và điều chỉnh về chiến thuật khiến đối phương không thể phát huy được hết sự đáng sợ của họ. Tuy nhiên, vấn đề là Louis vẫn tiếp cận theo cùng một cách đó với những trận đấu trên sân nhà trước những đối thủ yếu. Đấy là điều rất khó chịu. Tôi vẫn nhớ khi ngồi trên khán đài của sân Old Trafford để theo dõi trận đấu với Sheffield United, lúc đó còn đang chơi ở giải League One, thuộc khuôn khổ vòng 3 FA Cup. Louis chuyển sang sơ đồ ba trung vệ, vì đó là sơ đồ mà Sheffield đang chơi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng thắng được trận đấu đó nhờ quả penalty ở cuối trận của Rooney. Nhưng ấn tượng lớn nhất của tôi là sự thất vọng khi chứng kiến đội nhà phải thay đổi vì đối thủ. Tôi không có ý tỏ ra thiếu tôn trọng Sheffield United, điều tôi muốn nói là chúng tôi hoàn toàn có thể chơi theo cách của mình mà vẫn giành chiến thắng, hoặc ít nhất là phải có niềm tin vào điều đó. Trong quá khứ, việc chuẩn bị cho một trận đấu thường xoay quanh câu hỏi chúng tôi sẽ làm gì chứ không phải đối thủ chơi như thế nào. Văn hóa ấy đã thay đổi với Louis.

Louis đã dạy tôi một thứ bóng đá hoàn toàn khác, đặc biệt là trong việc thiết lập hệ thống phòng ngự, thu hẹp không gian chơi bóng của đối thủ và khiến họ “ngộp thở”. Louis quyết không bỏ sót một chi tiết nào, một khả năng nào, nên nếu chúng tôi có thể làm đúng như những gì ông muốn, thì chúng tôi sẽ là một đội bóng rất khó bị đánh bại. Giai đoạn mà chúng tôi trông có vẻ đã có được những bước tiến mạnh mẽ là tháng 3 và tháng 4 năm 2015. Chúng tôi gặp Spurs, Liverpool và City, và đánh bại cả ba một cách thuyết phục. Khi chúng tôi tới làm khách ở Anfield, huấn luyện viên Brendan Rodgers của Liverpool chủ đích thiết lập một ô vuông ở giữa sân bằng cách chỉ đạo cho Adam Lallana và Philippe Coutinho thường xuyên di chuyển từ hai biên vào trung lộ. Để chống lại chiến thuật này, Louis chỉ đạo tôi chơi như một tiền vệ khi chúng tôi có bóng, và như một trung vệ khi chúng tôi không có bóng. Lúc đó, tôi sẽ lùi xuống chơi giữa Chris Smalling và Phil Jones, và nhờ thế sẽ luôn tạo được lợi thế về quân số. Cách bố trí đó cho phép một trong hai trung vệ của chúng tôi dâng cao ở hai hành lang, còn tôi thì sẽ không phải chạy từ bên này sang bên kia nữa. Thay vì di chuyển theo chiều ngang sân, tôi chỉ phải dâng lên rồi lùi xuống. Chúng tôi thử chiến thuật này trong trận đấu tập ở Carrington với đối thủ là đội bóng của Giggsy. Giggys luôn là người được yêu cầu nắm “đội đối thủ” trong các trận đấu tập 11 v. 11. Hôm đó, đội chúng tôi đứng vị trí loạn hết cả lên. Cầu thủ của Giggsy dễ dàng xuyên thẳng vào hệ thống phòng ngự của chúng tôi. Tôi nhớ là tôi đã phải gào lên với Chris và Phil về việc chúng tôi dễ dàng bị đối phương lôi kéo khỏi vị trí. Đúng lúc đó thì Louis bước qua tôi với một nụ cười: “Tôi vừa khiến cho mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn với cậu trong trận đấu ngày mai!”

“Ý ông là sao?”

“Là dễ dàng hơn thôi. Nhìn này, Chris đứng ở đây, Phil ở đây. Còn cậu thì chả phải làm gì cả. Cậu được hai người đó ở bên cạnh và bảo vệ rồi. Chỉ cần đọc tình huống cho tốt.” Louis chỉ cho tôi vị trí ở giữa hai trung vệ, với cách sắp xếp đó, chúng tôi sẽ tạo được thế nhiều đánh ít ở trước mặt hàng thủ, đồng thời bịt được hết những không gian mà Liverpool có thể khai thác. Kết quả là chúng tôi đã có được màn trình diễn ấn tượng nhất ở Anfield mà tôi từng được chứng kiến. Tôi ghi nhớ tất cả những chi tiết mà Louis chỉ ra, ví dụ khi nào thì cần phải lùi xuống hàng hậu vệ, và phải thừa nhận là chúng đều rất có giá trị.

Đó chính là Louis khi ông hay nhất. Juan Mata ghi bàn quyết định với một pha ngả người móc bóng. Sau trận đấu, phòng thay đồ của chúng tôi như muốn nổ tung. Các cầu thủ tưng bừng chụp ảnh. Khi tôi mới tới United, văn hóa trong phòng thay đồ là hoàn toàn khác. Không có chuyện chúng tôi chụp ảnh hay vào Twitter hoặc Instagram trong đó. Tôi nghĩ Rio Ferdinand là người đầu tiên làm điều ấy, nhưng ngay cả thế thì anh vẫn rất cẩn trọng với những gì mà mình đăng lên. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, mạng thực sự đã bùng nổ một cách mạnh mẽ. Chuyện các cầu thủ lên mạng mọi lúc mọi nơi đã được xem là điều bình thường. Tôi hiểu rằng chúng ta đang có một thế hệ cầu thủ hoàn toàn khác, những người sẽ đăng bất kỳ việc gì mà họ làm lên mạng xã hội. Nhưng hiểu với chấp nhận là hai việc khác nhau. Ở Anfield hôm đó tôi đã làm một trong những hành động tồi tệ nhất, và đến bây giờ mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn cảm thấy xấu hổ. Một thành viên của ban huấn luyện có ý tưởng chụp một bức ảnh chung của toàn đội. Lúc đó tôi vừa bước ra từ nhà vệ sinh. Thấy các cầu thủ đang xúm lại chụp ảnh, tôi cũng tham gia, dù đó là điều mà tôi thường cực lực phản đối. Bức ảnh nhanh chóng tạo nên một cơn sốt. Chỉ bằng một cú click, nó đã tỏa đi khắp thế giới. Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này? Tôi tự hỏi khi thấy mình trong bức ảnh, Đây chẳng phải là những gì mà mình vẫn phản đối hay sao? Tới giờ tôi vẫn phản đối việc các đội bóng đăng những bức ảnh chụp cảnh họ đang ăn mừng trong phòng thay đồ. Có thể là tôi hơi cổ hủ. Lisa thường nói với tôi là tôi cần phải bắt kịp thời cuộc. Ở Anfield, lẽ ra chúng tôi nên ăn mừng một cách nhanh gọn, và sớm hướng tới những thử thách mới. Đừng hiểu nhầm, mỗi khi thắng trận, nhất là lại thắng Liverpool, chúng tôi sướng lắm chứ. Nhưng theo tôi thì chúng tôi chỉ nên âm thầm tận hưởng cái sự sướng ấy thôi. Chúng tôi đâu nhất thiết phải cho cả thế giới thấy. Đây là Anfield, ok, nhưng thắng ở đâu thì cũng chỉ là thắng, có gì mà phải ồn ào đến thế. Chỉ nên ăn mừng sau khi giành được một danh hiệu nào đó thôi, tôi nghĩ thế. Nếu là dưới thời của sếp thì chúng tôi sẽ chỉ nói với nhau đôi câu ngắn gọn, kiểu: “Làm tốt lắm các cậu. Tuyệt đấy. Giờ thì hướng tới tuần tiếp theo nhé.” Tôi rời Anfield trong tâm trạng thất vọng với chính mình. Tôi ghét cay ghét đắng mấy trò ảnh ọt như thế, vậy mà cuối cùng tôi lại vào hùa. Ngay khi làm thế, tôi biết là không ổn rồi.

Sau trận đấu ở Anfield, chúng tôi lại có một màn họp đánh giá mà Louis rất ưa thích. Tôi biết rằng những buổi họp như thế là cần thiết, nhưng không nhất thiết là phải sau mọi trận đấu. Những đoạn video mà Albert, trợ lý của Louis, cho chúng tôi xem là rất hữu ích. Tuy nhiên, việc cứ phải xem hết video này tới video khác sau mỗi trận đấu khiến chúng tôi cảm thấy kiệt quệ. Tôi và Wazza quyết định tới gặp huấn luyện viên để hỏi liệu có cách nào khiến cho mọi việc trở nên nhẹ nhàng và đỡ mệt mỏi hơn không. Rất may là Louis không quá cứng nhắc. Ông chấp nhận thay đổi, và từ sau hôm đó, chúng tôi không còn phải thường xuyên tham gia các buổi họp đánh giá nữa. Thay vào đó, Louis gửi e-mail cho từng người. So với việc phải tham gia hết buổi họp nhàm chán này tới buổi họp nhàm chán khác thì e-mail là một sự tiến bộ lớn. Louis cài thêm một công cụ theo dấu trên các e-mail để biết chắc chúng tôi có mở chúng ra hay không. Ông muốn biết ai có thể tiếp nhận thông tin theo cách đó, và ai cần một cách tiếp cận khác, ví dụ qua những cuộc nói chuyện trực tiếp. Một số cầu thủ không muốn nhìn lại những trận đấu đã qua bởi vì họ tin rằng việc lạm dụng phân tích có thể khiến cho bản năng của họ bị thui chột. Tôi chọn cách gom e-mail của Louis theo các nhóm ba hay bốn trận rồi xem một lượt, như thế tôi sẽ không có cảm giác quá dồn dập.

Thực sự thì tôi thấy Louis là một người ấm áp, và chắc chắn tôi không hề có mâu thuẫn gì với ông. Thi thoảng Louis cũng thể hiện khiếu hài hước, ví dụ như lúc ông bất ngờ ngã nhào để mỉa mai trò ăn vạ của các cầu thủ Arsenal. Tiệc Giáng sinh năm 2014 chứng kiến Louis tỏa sáng rực rỡ. Tiệc được tổ chức tại khách sạn The Place ở Manchester, thành phần tham gia ngoài các thành viên của đội còn có vợ hoặc bạn gái của mỗi người. Theo kế hoạch thì sau bữa tối sẽ là phần nghe nhạc và khiêu vũ. Bạn có biết ai là người đầu trò của bữa tiệc hôm đó không? Chính là Louis van Gaal. Ông biến sân khấu thành sàn diễn của riêng mình, không ngừng nhảy múa, hát hò, lôi kéo tất cả mọi người lên sàn nhảy. Không ai nghĩ là ông có thể phiêu như thế. Vậy nên đừng nghĩ rằng Louis là người lúc nào cũng khó đăm đăm, ông cũng có nhiều lúc nhí nhố lắm.

Tuy nhiên, vào những ngày diễn ra trận đấu, Louis thực sự biến thành một con người khác. Trong phòng thay đồ, ông sẽ nói về những điểm mạnh yếu của đối thủ với sự nghiêm túc của một giáo sư đại học khi giảng cho các sinh viên về một vấn đề khó. Những lúc như thế, ông không bao giờ để lộ dù chỉ là một chút cảm xúc nào. Louis không bao giờ đề cập tới yếu tố cảm xúc. Mọi chỉ đạo của ông đều gãy gọn, tới mức khô khốc: “Đây là nhiệm vụ của các anh hôm nay, đây là cách mà trận đấu sẽ phải diễn ra...” Louis muốn loại bỏ yếu tố cảm xúc ra khỏi những chỉ đạo của mình, để chúng tôi có thể thấy rõ hơn vấn đề. Tôi hiểu vì sao ông làm thế, nhưng tôi cũng nghĩ là cảm xúc rất quan trọng. Bầu không khí trên sân vận động hay cảm xúc của các cổ động viên đều là những yếu tố có thể có tác động to lớn tới phong độ của các cầu thủ nói riêng và đội bóng nói chung. Bóng đá là một môn thể thao của cảm xúc, và đó là lý do vì sao chúng ta lại yêu nó nhiều đến vậy.

Năm đầu tiên với Louis, chúng tôi hoàn thành mục tiêu trở lại top 4. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ trở lại Champions League, nhưng tôi thì chẳng thấy có lý do gì để ăn mừng. Vào top 4 thôi thì có gì ghê gớm? Mùa tiếp theo, Louis sẽ cho tôi đá chính và chơi trong khoảng một giờ, rồi sau đó Bastian Schweinsteiger sẽ chơi trong nửa giờ còn lại, và ngược lại. Chúng tôi đều biết đây là một phần của kế hoạch đã được vạch ra từ trước. Tôi thì muốn chơi cùng với Basti, bởi vì tôi có cảm giác chúng tôi đồng điệu và có thể tìm được sự gắn kết trên sân. Sự thông minh của Basti tạo ra cảm giác về sự kiểm soát. Khi chúng tôi đánh bại Liverpool 3-1 vào ngày 12 tháng 9 năm 2015, Bastia và tôi cùng có mặt trên sân, nên tôi đã nghĩ rằng, tuyệt vời, chúng tôi có thể là một cặp kể từ đây. Nhưng sau đó chúng tôi bị Arsenal vùi dập, và từ đó về sau Louis không bao giờ cho chúng tôi chơi cặp với nhau nữa. Tôi nghĩ chuyện của tôi với Basti là đúng người nhưng sai thời điểm. Giá như tôi có thể gặp Basti sớm hơn tầm ba hay bốn năm!

Giữa các trận đấu với Liverpool và Arsenal, chúng tôi gặp PSV Eindhoven ở Champions League. Trận đấu ấy chứng kiến Luke Shaw gặp chấn thương kinh hoàng khi chân anh gẫy gập sau một pha vào bóng của Héctor Moreno. Mỗi lần nhớ lại pha bóng ấy là tôi lại muốn bệnh. Tôi đã rất vui khi chúng tôi mua được Luke, vì tôi biết cậu ấy có thể làm được những gì sau khi theo dõi cậu ấy chơi bóng trong màu áo đội tuyển Anh. “Wow, chàng trai này có thể làm được mọi thứ,” tôi từng nghĩ, “Ở cậu ta có điều gì đó rất đặc biệt.” Chúng tôi vừa phải chia tay Pat Evra, và tôi nghĩ Luke sẽ là sự thay thế xứng đáng. Luke sẽ là hậu vệ trái của chúng ta trong mười hay mười lăm năm nữa nếu cậu ấy muốn. Luke gia nhập đội bóng sau World Cup 2014, lúc đó cậu ta không có được thể trạng tốt nhất. Những ngày đầu, Luke suốt ngày bị quở mắng vì có vấn đề về cân nặng, thể lực và cả thái độ. Nhưng cũng phải thông cảm vì cậu ta vẫn chỉ là một thiếu niên, và chúng tôi biết là cậu ta vẫn còn rất nhiều điều phải học. Dù vậy thì Luke cũng vượt qua được giai đoạn khởi đầu đầy trắc trở đó. Ở thời điểm chúng tôi kéo quân tới PSV, cậu ta đang thể hiện một phong độ rất ấn tượng. Nên tôi thấy rất tiếc cho Luke. Lúc chấn thương xảy ra, tôi đang ngồi trên ghế dự bị, nhưng cũng cảm nhận được nó nghiêm trọng đến thế nào qua thái độ hốt hoảng của các bác sĩ khi họ lao như bay từ vị trí của mình tới chỗ của Luke. Lúc ấy Luke đau đớn lắm, khổ thân thằng bé. Đôi lúc bóng đá dã man như vậy đấy. Tôi đã gắn bó với thế giới bóng đá đủ lâu để biết rằng với những chấn thương kinh khủng như chấn thương của Luke, người không may gặp nạn sẽ cần tới một hay thậm chí hai năm để hồi phục. Nhiều người còn không bao giờ có thể tìm lại được phong độ như trước chấn thương. Nên tất cả chúng tôi đều cảm thấy lo lắng và đều thầm cầu nguyện để Luke có thể trở lại mạnh mẽ. Tạ ơn Chúa là cậu ta đã làm được điều đó.

Mùa giải năm đó chúng tôi gặp rất nhiều chấn thương, vì thế mà các cầu thủ trẻ ở mọi vị trí thay nhau ra mắt đội bóng. Lúc đó chúng tôi không phải là một môi trường lý tưởng cho các cầu thủ trẻ. Với các cầu thủ trẻ thì thời gian khởi đầu bao giờ cũng khó khăn nhất, và ở một đội bóng đang vật lộn thì lại càng khó khăn hơn. Chúng tôi đã trải qua một chuỗi trận tệ hại gây sốc vào Giáng sinh. Khi chúng tôi thua Bournemouth, Norwich City và Stoke, tôi nghe nhiều người nói rằng: “Đây chính là Manchester United tệ nhất mà tôi từng thấy trong nhiều năm.” Nhưng chúng tôi đã chứng tỏ thế vẫn chưa phải là tệ nhất. Phong độ của toàn đội chạm đáy vào ngày 18 tháng 2 năm 2016, trong cái lạnh cắt da cắt thịt ở Midtjylland, Đan Mạch. Sau khi bị loại khỏi Champions League ngay từ vòng bảng, chúng tôi bị đẩy xuống chơi ở Europa League, và nếu như thế còn chưa đủ gây thất vọng thì lúc này đây chúng tôi đang để thua 2-1 trên sân của đội được thành lập vào đúng năm United đoạt cú ăn Ba. Tôi lại phải chường mặt lên ti vi sau khi trận đấu kết thúc, và nhận đủ gạch đá. “Michael Carrick nên ngậm mồm lại và ngừng ngay việc tham gia vào những cuộc phỏng vấn khiến người ta phát ốm.” Một cổ động viên nào đã bình luận như thế, và tôi nghĩ là anh ta đúng. Chúng tôi vừa phải chịu một thất bại tồi tệ. Nhưng chúng tôi cũng đau lắm chứ. Nếu các bạn có thể nhìn vào phòng thay đồ sau trận đấu, nhìn vào cảnh tôi ngồi như hóa đá trong góc, thì có thể các bạn sẽ nghĩ lại trước khi đưa ra những nhận xét ác ý. Với chúng tôi lúc đó, cảm giác như là ngày tận thế đã tới. Đó là một trong những thời điểm mà tôi cảm thấy tồi tệ nhất, và tôi phải mất nhiều ngày mới có thể vượt qua được. Tôi biết thua trận kiểu đó là không chấp nhận nổi. Tôi ngồi yên trong góc phòng thay đồ trong khoảng 20 phút, cố gắng tua lại trận đấu trong đầu và nghĩ xem tôi có thể làm tốt hơn ở những điểm nào. Tôi cảm thấy bực bội thay cho các cổ động viên. Tôi biết có khoảng 800 cổ động viên đã lặn lội từ Anh sang để cổ vũ cho chúng tôi. Ngoài chi phí ăn ở, đi lại, họ còn phải móc túi thêm mỗi người 71 bảng nữa để mua vé vào sân. Đáp lại, chúng tôi “dành tặng” cho họ một màn trình diễn chỉ đáng vứt vào sọt rác. Đáng xấu hổ hơn cho chúng tôi, họ vẫn cổ vũ một cách tuyệt vời. Trong cả trận đấu, họ không ngừng hát bài hát được chế từ một bài hát cũ về Ole, gì mà “Một đêm thứ Năm băng giá/ chúng ta đang phải đá với lũ gà/ cảm giác đêm nay tuyệt quá ha.” Tôi cũng chẳng biết điều gì giữ cho tinh thần của họ lên cao như vậy. Chúng tôi chuộc lỗi trong trận lượt về, là trận đấu ra mắt của Marcus Rashford. Đó là một màn ra mắt gây sốc, thực sự. Năm đó Marcus có tập trung với chúng tôi vài lần, nhưng cũng chẳng thường xuyên lắm. Khi chúng tôi tổ chức đá tập 11 v. 11 vào ngày trước trận đấu, Marcus được gọi vào đội của Giggsy. Nhưng dù vậy thì tôi cũng chẳng mảy may nghĩ rằng cậu ta đã sẵn sàng để ra mắt đội Một. Đúng là cậu ta thể hiện được rất nhiều triển vọng, nhưng hẵng còn quá sớm. Ấy vậy nhưng cậu ta đã tận dụng cơ hội của mình một cách xuất sắc trong trận đấu với Midtjylland, và từ đó không bao giờ nhìn lại nữa.

Để cho mùa giải thảm họa thêm phần... “trọn vẹn”, chúng tôi sớm dừng bước ở Europa League sau khi để thua Liverpool, phải, chính là Liverpool. Cơ hội cuối cùng để chúng tôi giành lại chút tôn trọng nằm ở FA Cup. Đội bóng ngáng đường chúng tôi ở tứ kết là West Ham. Tôi nhớ là trong phòng thay đồ trước trận đấu, tôi có nói với các đồng đội rằng, “Này các chàng trai, tôi đã ở đây 10 năm rồi nhưng vẫn chưa một lần vô địch FA Cup. Nên đừng có nghĩ là các cậu vẫn còn nhiều cơ hội. Đây có thể chính là cơ hội của chúng ta. Nên hãy nắm bắt lấy nó.” Chúng tôi vượt qua West Ham sau trận đá lại, và tiếp tục đánh bại Everton ở Wembley nhờ bàn thắng ở phút bù giờ của Anthony Martial để ghi tên vào trận chung kết. Càng đi sâu, tôi càng có cảm giác là thời cơ đã chín muồi. Đó là cảm giác mà chúng tôi đã không có trong một thời gian dài. Tôi vẫn không đồng ý với việc các trận bán kết được tổ chức ở Wembley. Có thể tôi hơi cổ hủ. Nhưng nếu nói FA Cup là giải đấu trượng trưng cho lịch sử và truyền thống, thế thì tại sao lại không tổ chức các trận bán kết ở những sân bóng như Villa Park? Tôi nhớ là từng có một trận đấu với Watford ở đó vào năm 2007 và bầu không khí là thực sự ấn tượng. Wembley cần phải được xem như là một đích đến danh giá, thôi thúc người ta làm tất cả những gì có thể để được một lần tới đó, chứ không phải chỉ là một điểm dừng chân trên đường.

Dù thế nào thì chúng tôi cũng đã tới được trận chung kết. Nhưng vào ngày trước khi diễn ra trận đấu ở Premier League với Villa trên sân Old Trafford, tôi sợ rằng tôi có thể sẽ phải vắng mặt ở Wembley. Các nhà khoa học thể thao ở United thường phát cho chúng tôi những chiếc quần tất phục hồi để tự mặc ở nhà. Hôm ấy, sau khi bước ra từ phòng tắm, tôi đứng một chân, cố gắng kéo mấy ống quần lên. Chúng rất chật, lại dài, nên mặc chúng chẳng dễ dàng gì. Sau khi mặc xong một bên chân và chuẩn bị mặc bên còn lại, tôi nghe một tiếng tách ở lưng. Và sau đó là một cơn đau kinh khủng. Ôi Chúa ơi, mình gặp vấn đề lớn rồi, tôi nghĩ. Cảnh tượng lúc đó không khác gì cảnh trong một vở hài kịch. Người tôi như bị đóng băng. Tôi không nhúc nhắc gì được, cứ thế đổ nhào xuống, và thật may là có cái giường ở gần để cú ngã không khiến tôi đau thêm một lần nữa. Tôi nhọc nhằn tìm lại nhịp thở. Sau khoảng một phút, tôi gào lên gọi Ann, người quản gia của chúng tôi. Bà lao như bay lên tầng và nhìn thấy tôi nằm đó như một gã hề, trên người chỉ có mỗi quần lót, một chân đã đút được vào cái quần tất, một chân không. Tạ ơn Chúa vì có Ann. Bà làm việc cho chúng tôi kể từ khi chúng tôi chuyển tới Manchester, và bây giờ thì đã thực sự trở thành một thành viên của gia đình. Bà làm được bao việc cho bọn trẻ con, và nếu không có bà thì mọi chuyện có lẽ lúc nào cũng bung bét hết cả lên. Hôm nay bà lại cứu mạng tôi.

“Ôi Chúa ơi! Cậu làm cái gì thế?” - bà hốt hoảng. Ann giúp tôi lôi cái quần tất ra. Tôi biết là tôi phải tới Carrington để gặp bác sĩ, nên sau khi được Ann giúp khoác tạm một bộ đồ thể thao lên người, tôi nhảy lò cò xuống tầng và cố gắng quên cơn đau đi để nhét mình vào xe. Trên đường tới Carrington, tôi bắt đầu nghĩ tới điều tồi tệ nhất, Mình sẽ bỏ lỡ trận chung kết FA Cup. Mùa nào cũng như mùa nào, tôi luôn mơ về chiến thắng ở FA Cup. Tôi đã chờ đợi quá lâu rồi. Tôi cảm giác nước mắt đang chực trào ra, nên phải hít một hơi thật sâu để ngăn không cho mình bật khóc. Tôi bắt đầu tìm cách tự trấn an. Sau khi kiểm tra, bác sĩ nói rằng lưng của tôi vừa trải qua một cơn co thắt và bây giờ thì bị khóa cứng lại rồi. Ông cho tôi ít thuốc giãn cơ, và may mắn làm sao là sau vài ngày, cơn đau đã giảm đi rõ rệt. Tôi lại ngủ được, và lại bắt đầu mơ về trận chung kết FA Cup.

Tôi trở lại thi đấu sau hai trận vắng mặt, chỉ để nhận ra rằng chấn thương vừa qua không phải là điều tồi tệ nhất. Ngày 10 tháng 5 năm 2016 là một ngày điên rồ và đen tối. Chúng tôi đang ở khách sạn Radisson, khu Canary Wharf trước trận đấu với West Ham và vừa ăn trưa xong. Khi cả đội chuẩn bị giải tán, Louis nói rằng ông muốn nói chuyện riêng với tôi. Chúng tôi bước ra khỏi phòng và tìm được một góc kín đáo. “Đêm nay cậu sẽ không đá chính,” Louis nói. Ok thôi. Nhưng những gì Louis nói ngay sau đó đã khiến tim tôi tan nát. “Cậu sẽ ra sân trong hai trận tiếp theo, trận gặp Bournemouth và trận chung kết FA Cup. Nhưng đó sẽ là hai trận đấu cuối cùng của cậu, Michael.” Wow. Louis đúng kiểu không lòng vòng, nghĩ thế nào ông nói như thế luôn, “Chúng tôi sẽ không giữ cậu lại.” Tôi đoán là người ta đã sắp xếp hết mọi chuyện từ trước rồi. David Geiss đã nói chuyện với Ed Woodward về một bản hợp đồng mới nhưng Ed cứ lần lữa mãi với điệp khúc “Để tới cuối mùa, để tới cuối mùa”. Tôi cũng đã trực tiếp nói chuyện với Ed: “Nghe này, dù thế nào thì cũng nói với tôi đi. Nếu tôi phải ra đi, thì tôi cần có thời gian để lên kế hoạch, nhất là những gì liên quan tới bọn trẻ và chuyện trường lớp.” Nhưng Ed vẫn không trả lời. Thời gian càng trôi đi, tôi càng tin rằng ở đây có chuyện không ổn. Nhưng đến khi nghe được tin từ Louis, tôi vẫn cảm thấy choáng váng. “Hai tuần,” Louis nói với tôi. Đó là thời gian còn lại của tôi trong màu áo Manchester United. Đồng hồ đếm ngược đã bắt đầu điểm rồi.

Một mặt, tôi thấy vui vì Louis đã báo tin, nhờ thế tôi biết mà tận hưởng hết quãng thời gian còn lại. Mặt khác, tôi cảm thấy buồn vì mọi chuyện thế là kết thúc; giấc mơ của tôi đang khép lại, và tôi thì chưa chuẩn bị cho điều đó. Tôi tôn trọng quyết định của Louis, tôi biết rằng ông cũng thấy không dễ dàng gì khi nói điều đó ra với tôi. Chỉ tới khi trở về phòng, nằm trên giường, nhìn chằm chằm vào trần nhà, những cảm xúc mới dồn dập ùa về xâm chiếm tâm hồn tôi. Đầu tôi xoay như chong chóng. À, hóa ra bây giờ mình đang chuẩn bị để chơi trận đấu cuối cùng ở Upton Park. Sân bóng nơi sự nghiệp của tôi bắt đầu cũng là sân bóng chứng kiến thời khắc tôi được thông báo rằng sự nghiệp của tôi với United đã kết thúc. Hết thật rồi, những ngày tươi đẹp ở đội bóng tôi yêu. Tôi gần như suy sụp. Cả buồi chiều hôm đó, tôi bị giằng xé giữa hai luồng suy nghĩ, Một bên là Buồn làm sao, tất cả kết thúc rồi, và bên kia là Nào nào, vui lên đi, tận hưởng những trận đấu còn lại, và kết thúc bằng một trận chung kết. Tôi muốn cảm thấy tự hào về những gì mình đã làm được. Tôi cố gắng trong vô vọng gạt nỗi buồn sang một bên để thể hiện tốt nhất trong những trận đấu còn lại.

Tôi gọi cho Lisa. “Thế đấy, em ạ, mọi chuyện kết thúc rồi.”

Lisa tỏ ra rất bình tĩnh. Cô ấy hẳn là đã nghĩ về đủ thứ. Chúng tôi sẽ đi đâu? Cuộc sống của chúng tôi sẽ thay đổi như thế nào? Bọn trẻ có chịu được cảnh phải chia tay bạn bè và trường lớp không? Lisa luôn ủng hộ tôi tuyệt đối, và bây giờ càng như thế. Cô ấy chỉ nói, “Anh có đi tới bất kỳ đâu thì cả nhà cũng sẽ ở bên anh.” Ngắn gọn vậy thôi, nhưng đầy sức nặng. Cô ấy lúc nào cũng biết phải làm thế nào để xử lý những tình huống khó khăn và kiểm soát tâm trạng của tôi. Tôi không biết cô ấy nỗ lực để làm thế hay đó là vấn đề bản năng. Tôi thì tôi chẳng muốn đi đâu một mình cả. Mọi quyết định của tôi đều xoay quanh Lisa, Lou, Jace và hướng tới điều tốt đẹp nhất cho cả gia đình. Tôi cũng không muốn chơi cho bất kỳ đội bóng nào khác ở Anh. Có lẽ chúng tôi sẽ ra nước ngoài để thay đổi phong cách sống một chút. Nghĩ tới đó, tôi lại tự hỏi: Như thế là tốt hay không tốt cho bọn trẻ? Tôi nghĩ đã tới lúc mình phải làm gì đó cho các con. Chúng tôi thậm chí còn tính tới chuyện trở lại Newcastle để được ở gần bạn bè và gia đình hơn. Trong vài ngày tiếp theo, Lisa luôn thể hiện được một hình ảnh mạnh mẽ trước mắt tôi, dù tôi biết rằng sâu thẳm bên trong cô ấy cũng cảm thấy khó khăn lắm. Vì cô ấy luôn hướng tới sự ổn định. Quãng thời gian khó khăn đó đã khiến cho tôi ý thức được rõ hơn mình đã may mắn thế nào khi có được một người phụ nữ tuyệt vời như cô ấy trong đời. Tôi có thể nói một cách thật lòng rằng tôi không nghĩ tôi có thể làm được tất cả những gì mà tôi đã làm nếu không có cô ấy.

Tôi cũng gọi cho cả nhà để báo tin. Graeme và bố mẹ đã có kế hoạch tới xem trận đấu khi biết rằng đó sẽ là trận đấu cuối cùng được tổ chức ở Upton Park trước khi bị đập bỏ. Sân bóng ấy luôn có một vị trí đặc biệt trong tim họ. Nó là một phần quan trọng trong cuộc đời của tất cả chúng tôi.

Trên xe buýt tới sân, tôi chọn ngồi trên tầng hai, cố gắng hướng sự chú ý tới cảnh vật ở bên đường thay vì suy nghĩ về tính biểu tượng của trận đấu sắp tới - trận đấu đánh dấu sự kết thúc của sân Upton Park, và sự kết thúc cho tôi. Đêm ấy là đêm đầy cảm xúc, nhưng buồn thay, cũng đầy bạo lực. Chúng tôi bị báo chí đánh tơi bời vì đến sân Upton Park không đúng giờ. Nhưng đó là những thông tin rác rưởi, bởi vì thực tế là chúng tôi rời khỏi khách sạn Radisson sớm hơn 10 phút so với khuyến nghị và chỉ đi sau xe buýt của West Ham có 50m. Đoạn đi qua đường Barking rất thuận lợi, nhưng khi chúng tôi chuẩn bị rẽ trái vào phố Green, tức là cách sân có khoảng 200m, thì có chuyện. Hàng nghìn cổ động viên của West Ham đã tràn xuống đứng chật cả con đường. Xe buýt của họ không hiểu làm thế nào mà đã len lỏi lách qua được. Cảnh sát dừng xe của chúng tôi để nói chuyện với tài xế và giải thích rằng họ đang cố gắng mở cho chúng tôi một lối thoát xuyên qua biển người màu vàng và xanh đang tỏ ra hết sức phấn khích trước mặt. Chúng tôi chờ trong khoảng nửa giờ đồng hồ, rồi đột nhiên hai chiếc xe cảnh sát vượt lên dọc sườn xe bên phải và khiến đám đông cổ động viên dạt ra. Chúng tôi tiến lên được một đoạn, nhưng bị chặn lại ở nơi tồi tệ nhất có thể là ngay giữa các cột đèn giao thông. Trước sau gì cũng toàn người là người. Giống như bị phục kích vậy. Cổ động viên West Ham có mặt ở khắp mọi nơi, bên ngoài quán rượu Boleyn Tavern, trên tượng Booby Moore, và tôi thậm chí còn thấy một gã đứng trên nóc xe cảnh sát.

“Tới đây mà xem này!”, tôi nghe Giggsy hét lên ở tầng một. Tôi lao nhanh xuống, và không thể tin vào những gì mà mình thấy. Có một gã, tôi không đùa đâu, cứ cố gắng chạy bám theo xe buýt, vừa chạy vừa dí mặt vào kính xe và gào lên những lời thách thức. Ban đầu thì chúng tôi thấy cảnh đó thật hài hước. Cảnh sát có lẽ cũng thấy vậy, nên họ chỉ đứng đó, hoàn toàn không bận tâm tới gã kia ngay cả khi gã bắt đầu húc đầu vào kính. Kính xe đã được tráng mờ, nhưng gã vẫn nhìn được xuyên qua và biết rằng chúng tôi đang cười gã. Tôi, Wazza và Giggsy cười dữ tới mức những người khác cũng thấy tò mò và chạy lại xem. “Nhìn gã kia đi!” - tôi nói. “Gã có biết mình đang làm cái gì không nhỉ?” Đời cầu thủ chúng tôi đôi khi lại đụng phải mấy gã kiểu như thế đấy. Gã lại tiếp tục húc đầu vào cửa kính, có thể đã khiến nó bị rạn rồi.

Tôi nhìn cảnh các cổ động viên tràn xuống từ vỉa hè và biết rằng chúng tôi đang gặp rắc rối lớn. Căng thẳng đang leo thang, tôi có thể linh cảm được là sắp có chuyện. Các cổ động viên West Ham vốn ghét Manchester United, và lúc này đây chúng tôi như cá nằm trên thớt, hoàn toàn không có khả năng phòng vệ. Trong đám đông hỗn loạn, một vài con ngựa cảnh sát chồm lên. Tôi chỉ sợ là sẽ có ai đó bị giẫm trúng; nếu điều đó xảy ra, hậu quả không biết thế nào mà lần. Chúng tôi tự nói với nhau rằng nếu có biến thì tất cả sẽ cùng lao ra. Và mở đường máu! Một kẻ nào đó trong đám đông ở đuôi xe ném về phía chúng tôi một chiếc cốc thủy tinh. “Tất cả lên tầng,” một cảnh sát hét lên. “Tránh xa các cửa sổ. Nằm xuống sàn xe.” Cảnh tượng thật hỗn loạn. Cảnh sát chống bạo động dựng khiên bảo vệ ở hai bên thành xe, nhưng không ngăn được các cổ động viên West Ham dấn tới sát cửa kính. Ai đó ném một chiếc chai trúng vào xe. Rồi một chiếc khác. Rồi đột nhiên, cả một cơn mưa chai lọ được ném về phía xe của chúng tôi từ mọi hướng. Chúng tôi đang mắc kẹt giữa một đám đông điên cuồng, tự hỏi không biết chiếc xe còn chịu đựng được bao lâu nữa. Tôi nghe thịch một cái, lại thêm một lon nước nữa được ném trúng xe, rồi nghe tiếng chai lọ vỡ loảng xoảng ở hai bên thành xe. Và tất nhiên tôi nghe đủ những lời miệt thị, chửi bới từ đám đông. Cảm giác như chúng tôi đã bị kéo ngược về những ngày xưa cũ. Một số cổ động viên dí ngón tay thối vào chúng tôi, số khác thì bận rộn với chiếc điện thoại của mình, họ cố ghi lại mọi thứ, xem đó như là một món quà lưu niệm. Tới lúc đó tôi vẫn nằm trên sàn. Rất nhiều cầu thủ nấp ở lối đi giữa hai hàng ghế vì sợ cửa sổ sẽ bị đập vỡ. Jesse Lingard và một vài cầu thủ khác lôi điện thoại ra. Những hình ảnh từ bên trong xe buýt được đăng lên các mạng xã hội và bắt đầu lan tỏa với tốc độ chóng mặt. Tôi cho rằng đó là điều không nên. Tôi cũng chụp vài tấm hình, nhưng không phải để đăng lên mạng, mà chỉ để dùng trong trường hợp phải kể lại cho Lisa những gì đã xảy ra. Chúng tôi cuối cùng cũng vào được sân Uptop Park an toàn. Lúc đó là 7 giờ 10 phút tối. Giờ bóng lăn được dời xuống 8 giờ 30. Tôi bật cười khi nghe David Sullivan nói rằng lẽ ra chúng tôi nên tới sân lúc 4 giờ. Cái gì vậy!? Để vật vờ trong phòng thay đồ gần bốn tiếng đồng hồ ấy hả? Người đồng sở hữu của West Ham cũng nói rằng người ta không tìm thấy hư hại nào trên xe buýt của chúng tôi. Hẳn ông ta cố tình không biết rằng sau trận đấu chúng tôi không thể di chuyển ngay vì phải chờ người ta điều một chiếc xe buýt mới tới thay cho chiếc cũ đã bị đập phá tanh bành. Một ngày tồi tệ, tôi nghĩ, và chỉ mong cho nó trôi qua càng nhanh càng tốt. Thất bại trước West Ham khiến cho cơ hội dự Champions League của chúng tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Trận đấu với Bournemouth vào cuối tuần tiếp theo là một sự kiện đầy cảm xúc với tôi và gia đình. Đó sẽ là trận đấu cuối cùng của tôi ở Old Trafford, như Louis đã thông báo. Không nhiều người biết đó sẽ là trận đấu cuối cùng của tôi. Tôi cố gắng không tạo ra quá nhiều ồn ào. Tôi đăng ký cho Louise và Jacey làm mascot[1] ở trận đó. Khi hai đứa đứng chờ trong đường hầm, còn chúng tôi thì đang khởi động trên sân, từ hệ thống phát thanh của sân vận động vang lên thông báo yêu cầu tất cả mọi người rời khỏi sân. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là chắc chả có chuyện gì đâu. Ban đầu mọi người cũng rất bình tĩnh. Rồi sau đó có thông tin lực lượng an ninh phát hiện ra một chiếc điện thoại di động được dán băng keo vào đường ống dẫn ga, nên tôi nhận ra chuyện này không hề đơn giản. Louise và Jacey vẫn còn đang ở trong đường hầm, còn cả nhà, tôi nghĩ, chắc là đều đã có mặt ở trên khu vực khán đài dành riêng cho gia đình cầu thủ. Tôi hơi mất bình tĩnh một chút, nên vồ ngay lấy điện thoại để hỏi mọi người đang ở đâu. Thật may là cả nhà đã ở trong bãi đỗ xe rồi, cả bọn trẻ cũng có mặt ở đó hết. Sau cùng thì đó là một vụ báo động giả. “Quả bom” thực ra là một thiết bị mô phỏng bị bỏ lại sau một bài tập do những người có trách nhiệm đã không dọn dẹp chu đáo. Vì tất cả mọi người đều đã rời sân hết rồi nên việc để trận đấu diễn ra như kế hoạch ban đầu là bất khả thi. Khổ thân tôi, tôi đã trải qua biết bao cung bậc cảm xúc trong thời gian chuẩn bị cho trận đấu, và tới khi cảm xúc chuẩn bị lên tới cao trào thì lại bị... “xì hơi”.

[1] Những cô bé, cậu bé sẽ dắt tay cầu thủ hai đội ra sân trước trận đấu - ND.

Ban tổ chức quyết định sẽ cho đá lại vào ngày thứ Ba, tức là chỉ bốn ngày trước trận chung kết FA Cup, nên tôi không có thời gian để mà đi lại hành trình cảm xúc từ đầu nữa. Điều duy nhất tôi quan tâm trước trận là làm sao có thể bước vào trận chung kết trong tình trạng tốt nhất. Khi bóng lăn, tôi cũng hoàn toàn tập trung vào trận đấu, không mảy may nghĩ về một điều gì khác. Nhưng khi trận đấu còn khoảng 5 phút nữa và chúng tôi đang dẫn trước 3-0, lòng tôi chợt dâng lên những xúc cảm. Tôi nhìn một vòng quanh sân Old Trafford và nghĩ, Hết thật rồi. Mình sắp phải rời xa nơi này rồi. Cổ họng khô khốc, tôi tự nhủ với mình rằng những gì mà tôi đang trải qua, tôi sẽ không bao giờ có cơ hội làm lại. Khi trận đấu kết thúc, Louise và Jacey, trận này lại được làm mascot, chạy ùa ra sân và cùng tôi đi một vòng quanh sân vận động để cảm ơn các cổ động viên. Đó là màn vỗ tay tri ân buồn nhất mà tôi từng tham gia. Trên đường vào đường hầm, tôi nói lời từ biệt với đội ngũ phục vụ sân và các nhân viên an ninh, những người mà tôi đã biết và gắn bó trong nhiều năm. “Tạm biệt mọi người, tôi hết việc ở đây rồi.”

“Cảm ơn vì tất cả những gì anh đã làm, Michael, chúng tôi sẽ nhớ anh lắm.” “Hẹn gặp lại mọi người sau,” tôi nói. Và cứ thế rời khỏi Old Trafford.

Mối bận tâm duy nhất của tôi là trận chung kết FA Cup. Đêm trước trận chung kết, chúng tôi kéo nhau lên tầng thượng của khách sạn Hilton hàn huyên. Thực sự là cả bọn đều cảm thấy rất thoải mái, chẳng có chút nào gọi là căng thẳng. Tôi nghĩ về những ngày mà tôi vẫn còn là một cậu nhóc; khi ấy, trận chung kết FA Cup luôn là sự kiện lớn nhất trong năm, bởi thực tế thời ấy bóng đá không thường xuyên được phát trên truyền hình. Ký ức đưa tôi trở lại hồi 5 tuổi, khoảnh khắc Keith Houchen của Coventry bay người đánh đầu tung lưới Spurs trong trận chung kết năm 87. Tôi cũng nhớ là khi lớn hơn một chút, bố có kể cho tôi nghe về Ronnie Radford, người hùng của Hereford trong chiến thắng trước Newcastle hồi năm 72. Tôi dành cả tuổi thơ để mơ mộng về FA Cup. Những chương trình làm nóng cho các trận chung kết bao giờ cũng khiến tôi háo hức. Đội ngũ phóng viên truyền hình như thể có mặt ở khắp mọi nơi, từ trong khách sạn tới trên xe buýt. Thế nên khi xem các chương trình đó, tôi có cảm giác như mình đang được mời tới thăm những nơi mà tôi không bao giờ được phép tới, và được làm những việc mà bình thường tôi sẽ hiếm có cơ hội làm, đó là nhìn cận cảnh các cầu thủ. Tôi có xem bao nhiêu cũng không thấy đủ. Tôi cũng không bao giờ quên được trận chung kết năm 90 và những ồn ào trước trận đá lại giữa Palace và United liên quan tới việc sếp thay Jim Leighton bằng Les Sealey. Đó là cả một sự kiện lớn! Vì thế tôi không bao giờ đồng ý với những nhận định rằng FA Cup đã mất đi sức hút của nó. Tôi biết rằng bây giờ Champions League mới là giải đấu được quan tâm nhất, nhưng cầu thủ chúng tôi vẫn yêu FA Cup lắm. Bất cứ cầu thủ ngoại quốc nào ở United mà tôi từng nói chuyện đều biết về FA Cup trước khi đến nước Anh. Tên tuổi của giải đấu rõ ràng đã vươn ra toàn cầu.

Trận đấu sắp tới là trận mà chúng tôi phải thắng. Tôi không muốn tỏ ra chủ quan khinh địch, nhưng thực sự đối thủ của chúng tôi hôm nay chỉ là Palace. Không như trong trận chung kết FA Cup đầu tiên của tôi khi đối thủ là Chelsea - đó là một trận chiến thực sự. Trong đường hầm, tôi xếp hàng sau Wazza và David de Gea. Không khí khá trầm lắng, thỉnh thoảng mới vang lên đôi tiếng động viên nhau lẻ tẻ từ một cầu thủ của đội này hay đội kia. Nhưng khi chúng tôi bước ra khỏi đường hầm, cả sân vận động cất lên một tiếng gầm lớn. Ngay cả khi Jason Puncheon ghi bàn, tôi cũng không bao giờ nghĩ là United sẽ thua, không bao giờ, tôi biết là chúng tôi sẽ thắng. Tôi bình thản lắm. Và tôi cũng không nhìn thấy điệu nhảy của Alan Pardew mà sau trận người ta cứ nhắc mãi. Bởi vì tôi quá tập trung vào trận đấu. Chúng tôi lập tức đáp trả bằng cách gia tăng sức ép về phía khung thành của Palace và có được bàn gỡ do công của Juan Mata. Juan là cầu thủ rất thông minh, rất kỹ thuật, mềm mại và gọn gàng, và pha dứt điểm cũng rất ấn tượng. Chris nhận thẻ đỏ rời sân trong hiệp phụ, nhưng ngay cả khi chỉ còn chơi với mười người, tôi vẫn luôn tin rằng chúng tôi sẽ giành chiến thắng. Tôi thậm chí đã có thể là người ghi bàn quyết định! Thường thì tôi sẽ không dâng lên cao đến thế, nhưng vì chúng tôi chỉ còn mười người, mà đây lại đang là trận chung kết FA Cup, nên tôi nghĩ sao không thử đánh cược? Sau này tôi còn xem lại pha bóng ấy nhiều lần, và lần nào cũng nghĩ rằng Quả đánh đầu đó mà đưa được bóng vào góc lưới thì tuyệt biết bao! Nhưng trong trận thì tôi không phải tiếc nuối lâu. Chỉ vài giây sau, Jesse Lingard ghi được một siêu phẩm. Tất cả mọi mệt mỏi của tôi tan biến khi tôi và các cầu thủ khác đuổi theo cậu ta về góc sân và ăn mừng như điên.

FA Cup thường tạo ra những người hùng, và Jesse hội tụ đủ tố chất để trở thành một người hùng mới. Cậu ta là một người United từ trong máu thịt, đến United từ khi mới lên 6 và lúc nào cũng chơi với tinh thần tấn công mà các cổ động viên thích thú. Tôi rất thích nghe Tony Whelan ở Học viện nói về niềm tự hào của ông khi Jesse ghi bàn thắng mang tính biểu tượng đó. Jesse là “đứa con chung” của bao người. Clare Nicholas và Marie Beckley lo chuyện ăn ở cho cậu ta. David Price đưa đón cậu ta ở trường. Mọi người đều đóng một vai trò nào đó trong sự phát triển đã đưa Jesse tới bàn thắng ấy ở Wembley, nên chứng kiến Jesse ghi bàn cũng mang tới cho họ những cảm xúc đặc biệt. Ở Học viện, sự tôn trọng là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Khi đã trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, thậm chí là ngôi sao rồi, nhưng mỗi khi có dịp, những Paul Pogba, Marcus Rashford và Jesse Lingard đều tới chào hỏi và bắt tay các nhân viên ở Học viện. Đó chính là sự tôn trọng. Đội bóng là một gia đình.

Có một bức ảnh được chụp ở Wembley làm tôi đặc biệt thích thú. Nó được chụp ngay sau tiếng còi chung cuộc, khi tôi biết rằng cuối cùng tôi cũng đã có được danh hiệu FA Cup cho riêng mình. Trong bức ảnh ấy, tôi đang đứng một mình, người hơi ngả về phía sau, hai tay giơ cao, mắt nhìn lên trời. Đấy là cách tôi tạo cho mình một chút không gian riêng tư để tận hưởng niềm vui chiến thắng. Cầu thủ đứng gần tôi nhất là Wayne Rooney. Tôi nghĩ là không có ai “phù hợp” hơn Wazza để là người tôi cùng chia vui đầu tiên. Chúng tôi đã chơi bóng cạnh nhau trong một thời gian dài, đã trải qua bao nhiêu thăng trầm cùng nhau, và cũng đã cùng chờ đợi quá lâu cho một chiến thắng ở FA Cup.

“Anh có muốn nâng Cúp cùng bọn em không?” Wazza hỏi. Tôi cảm thấy ngỡ ngàng. Còn vinh dự nào hơn thế! Trong đầu tôi chạy lại tất cả những hình ảnh huyền thoại mà tôi từng được chứng kiến khi còn là một cậu nhóc, trong đó những chiếc Cúp được nâng cao bởi những người hùng.

“Cậu có chắc không, Wazza?”

“Chắc chứ!” Tôi vẫn còn hơi ngần ngại. Đây là danh hiệu đầu tiên mà Wazza giành được trên tư cách đội trưởng của United, nên anh chắc hẳn cũng rất chờ đợi khoảnh khắc được nâng cao chiếc Cúp. Tôi không biết làm thế nào để cảm ơn anh cho đủ vì cử chỉ hào hiệp ấy. Rất đàn ông! Tôi có nên nói “không” hay không? Nhưng Wazza tỏ ra rất cương quyết. Tôi theo sau Wazza để bước lên khu vực trao giải trên khán đài. Chúng tôi phải vượt qua 107 bậc thang, thay vì 39 bậc như ở sân Wembley cũ. Thật tiếc khi tôi không có cơ hội ăn mừng chiến thắng trên sân Wembley cũ. Cả tuổi thơ của tôi gắn liền với nó, và tôi luôn thấy có cái gì đó độc đáo và lãng mạn trong câu chuyện về 39 bậc và Tháp đôi. Trên đường lên Khu Hoàng gia, có một đoạn ta như biến mất khỏi tầm nhìn. Đoạn đó rất tối và cũng rất yên tĩnh. Rồi sau một cú ngoặt trái, bước thêm vài bước, ta sẽ thấy ban công hiện ra. Trong cả hành trình đi lên, tôi luôn quay lưng về phía sân bóng, rồi đùng một cái, khi quay lại, cả sân vận động ở ngay trước mắt. Thật là một cảnh tượng khó quên!

Wazza và tôi chờ cho tới khi tất cả mọi người đã nhận huy chương xong rồi mới mỗi người cầm lấy một bên tay nắm của chiếc Cúp. Chúng tôi chờ thêm vài giây nữa, cùng nhìn một lượt các cầu thủ, trao cho nhau những cái gật đầu như một cách để xác nhận trong im lặng rằng “Chúng ta đã làm được.” Tôi hôn vào chiếc Cúp, và cùng lúc đó giọng xướng ngôn viên vang lên, “Chủ nhân của danh hiệu FA Cup thứ 135 là...” Những lời còn lại của ông ta chìm nghỉm trong một tiếng gầm lớn khi Wazza và tôi nâng cao chiếc Cúp. Chúng tôi nâng nhanh tới mức phần chóp của chiếc Cúp văng cả ra và rơi xuống tầng dưới, thật may là không có ai bị thương. Tôi không biết là chúng tôi đã mất cái chóp cho tới khi trở lại sân cỏ. Tôi như lạc trong thế giới của chính mình. Nâng cao Cúp FA là một cái gì đó diệu kỳ. Tất cả chỉ xảy ra trong có vài giây, nhưng cũng đủ để đầu óc tôi “tua lại” hình ảnh những người đội trưởng nâng Cúp trong quá khứ - Gary Mabbutt, Steve Bruce, và Dennis Wise. Tôi biết rằng khi tôi nâng cao chiếc Cúp này, tôi đã trở thành một phần trong một câu chuyện lịch sử mới được viết, và đây chắc chắn sẽ là một trong những khoảnh khắc không thể nào quên trong đời.

Tôi hướng về chỗ cả nhà đang ngồi và giơ cao chiếc Cúp. Mọi người đều có mặt ở đó và ai cũng như đang phát cuồng: Lisa, Lou, Jacey, mẹ, bố, Graeme, Kay, June, Doug, Glen, Jaz, Bradley, Hoody, Rutherford, Dom, cả một đội. Tôi tiến lại gần họ và giơ cao chiếc Cúp thêm một lần nữa. Đó là cách để tôi nói với họ rằng tôi biết ơn họ nhiều đến thế nào vì những ủng hộ vô điều kiện mà họ đã dành cho tôi trong suốt những năm tháng vừa qua. Đó là một trong những khoảnh khắc khiến tôi xúc động nhất, và chắc chắn là khoảnh khắc mà tôi không thể nào quên. Theo cách nào đó thì đó chính là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cả sự nghiệp của tôi, bởi cả Graeme lẫn bọn trẻ đều có mặt để chia sẻ. Ở Moscow họ không có mặt. Chiếc Cúp này, vì thế, cũng là chiếc Cúp dành cho họ. Gia đình Wazza ngồi ở khu vực ngay cạnh khu vực của gia đình tôi, nên mấy đứa trẻ con của hai nhà đang cùng nhau ăn mừng như điên. Cảnh bọn trẻ ăn mừng cùng nhau thật vô giá.

Wazza và tôi đi về phía ban huấn luyện, những người lúc này đang đứng bên ngoài đường pitch quan sát các cầu thủ ăn mừng. Chúng tôi kéo họ vào sân để họ có thể cùng chung vui. Họ hoàn toàn xứng đáng với điều đó. Chúng tôi làm việc bên cạnh những người phụ trách trang phục, các chuyên viên massage và tất cả các thành viên ban huấn luyện mỗi ngày trong cả một mùa giải dài, nên chúng tôi biết rõ những hy sinh của họ. Tôi nhìn thấy niềm tự hào và hạnh phúc trong mắt họ, và biết rằng chiến thắng này với họ có ý nghĩa nhiều như thế nào. United đã trải qua nhiều thời khắc khó khăn trong ba năm qua, nhưng rồi chúng tôi cũng đã tìm lại được thói quen chiến thắng, và họ hạnh phúc vì điều đó. Lúc đó tôi không nghĩ ra, nhưng sau này thì tôi biết rằng Spurs nhận được khoảng 400.000 bảng với việc United đoạt FA Cup. Đó là khoản trả sau cuối cùng mà United phải trả cho Spurs, nâng phí chuyển nhượng của tôi lên thành 18,6 triệu bảng.

Tôi từ từ tìm được đường trở lại phòng thay đồ với một chiếc khăn quàng United kiểu cũ quàng trên cổ và một chai champagne cầm trong tay. Chúng tôi tiếp tục màn xịt champagne trong phòng thay đồ cho tới khi có thông tin Louis sẽ ra đi. Không để cho ông ấy tận hưởng niềm vui chiến thắng được sao? Ok, đúng là chúng tôi đã trải qua một mùa giải, đúng hơn là hai mùa giải, tệ hại với Louis. Nhưng chúng tôi ít nhất cũng vẫn có được một danh hiệu cơ mà. Tôi thấy buồn cho Louis. Với một huấn luyện viên thì chẳng có gì tệ hại hơn việc vài giây trước vô địch FA Cup thì tới giây sau đã nhận được tin mình bị sa thải. Không có huấn luyện viên nào đáng bị đối xử như thế. Louis rất tức giận, nhưng cố để cơn giận của mình không thể hiện ra ngoài. Ông là một người đàn ông kiêu hãnh, nhưng chắc chắn là sự kiện này khiến ông đau đớn.

Chúng tôi trở lại khách sạn Corinthia, nơi cả nhà đang ở, và việc đầu tiên tôi làm là tặng chiếc huy chương vô địch cho bố. Tôi biết FA Cup có ý nghĩa với ông nhiều như thế nào. Tôi xem đó là một món quà nhỏ để cảm ơn bố vì đã đưa tôi đến với bóng đá và vì đã luôn luôn có mặt bên cạnh tôi, một sự hiện diện âm thầm nhưng rất mạnh mẽ. Lúc tặng nó cho ông, tôi thấy rưng rưng. Tôi biết điều này có ý nghĩa như thế nào với ông. Cuối cùng ông đưa cái huy chương lại cho tôi để tôi cất vào két, nhưng tôi biết ông thấy tự hào lắm.

Đêm ấy tôi có những cảm xúc rất khác. Nếu là trước đây thì tôi sẽ cùng các cầu thủ khác xõa một trận ra trò, hát hò, nhậu nhẹt tưng bừng. Nhưng đêm ấy, tôi dành phần lớn thời gian ngồi ở rìa của sàn nhảy. Louise đang ở trên sàn nhảy với con gái của Ashley Young, hai đứa đang chơi trò ném hình với nhau, trông có vẻ sung sướng lắm. Jacey thì không rời tôi một bước, một điều cũng rất khác thường. Tôi không biết con đang cảm thấy tự hào về tôi, hay là con cảm nhận được nỗi buồn mà tôi đang trải qua khi biết rằng mọi chuyện với tôi đang khép lại. Tôi nghĩ trực giác của bọn trẻ con rất mạnh. Tất cả những gì tôi làm là ngồi ở bàn, với Jacey ở trên đùi và một cốc rượu vang đỏ trên tay. Thế cũng hay! Đấy là bữa tiệc đầu tiên mà tôi còn nhớ rõ được. Suy cho cùng thì điều quan trọng nhất là được chia sẻ những buồn vui với cả gia đình. Cuối bữa tiệc, một vài cầu thủ kéo nhau tới quán bar ở bên cạnh, và cuối cùng thì tôi cũng thấy “sống động” hơn một chút. Trong bọn có Ashley Young và Wazza, cả Giggsy và bạn bè của anh cũng có mặt. Cuối cùng thì số người tham gia phải lên tới 60 hay 70 gì đó. Chúng tôi đã cùng nhau tạo nên một màn hát tập thể tuyệt vời nhất từ trước tới nay. Bọn trẻ đều ở trên sofa và nhảy múa xung quanh chiếc Cúp. Tôi và Wazza đứng bên một chiếc sofa khác ở đầu kia của căn phòng, cả hai chúng tôi đều say sưa hát. Rồi tôi nhìn sang phía bên kia và thấy Jacey với Lou đang đứng bên chiếc Cúp, hai đứa cũng đang ngân nga những bài hát của United. Đó là hình ảnh mà chắc chắn tôi sẽ lưu giữ mãi trong tim mình. Lúc ấy là 2 giờ 30 sáng! Lũ nhóc này đích thị con tôi rồi! Đội ngũ an ninh không hề rời mắt khỏi chiếc Cúp, và thật may là họ làm thế vì suýt chút nữa thì nó đã tìm được đường về phòng của chúng tôi. Lou và Jace muốn đi ngủ với nó.

Ngày tiếp theo diễn ra như bình thường. Chúng tôi ăn sáng với Louis, rồi ông phát cho chúng tôi kế hoạch tập luyện dành riêng cho mùa hè. Tôi nghĩ thầm trong đầu, Mình đâu cần mấy thứ đó, mình có chơi bóng nữa đâu. Rồi Louis nói: “Chúc các anh một mùa hè vui vẻ. Và cảm ơn vì tất cả.” Thế đấy. Đấy là lời tạm biệt của Louis. Cho tới giây phút cuối cùng, ông vẫn thể hiện mình là một người có phẩm cách. Tôi rất biết ơn Louis vì những gì mà ông đã mang tới cho tôi, ông dạy tôi rất nhiều điều, và tôi mừng vì ông ra đi với một danh hiệu.