• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tự truyện Michael Carrick - Giữa những lằn ranh
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 24
  • Sau

3Trưởng thành

N

hìn lại, tôi nhận ra mình đã may mắn thế nào. May mắn của tôi là được lớn lên một cách bình thường trong một gia đình yên bình nơi mà bố mẹ chưa bao giờ tranh cãi hay động chân động tay. Bố mẹ vừa khiến cho Graeme và tôi cảm thấy hạnh phúc và được bảo vệ, lại vừa cho phép chúng tôi theo đuổi những giấc mơ của mình trong thế giới rộng lớn bên ngoài, và đó luôn là điều mà tôi trân trọng nhất.

Nhà chúng tôi ở Howdon, một khu vực thuộc Wallsend, cách sân St James’ Park khoảng gần 10km. Chúng tôi sống trong một căn hộ thuộc tầng hai của một ngôi nhà chung tường. Tôi và Graeme ngủ giường tầng, vì là anh, tôi được nằm tầng trên. Ở thời điểm đó Howdon bị xem là một khu vực khó khăn, nhưng chúng tôi chưa bao giờ phải sống trong cảnh thiếu thốn. Bố làm việc rất chăm chỉ trong vai trò người quản lý ở các nhà máy điện hạt nhân trên toàn thế giới, chịu trách nhiệm kiểm soát những thiết bị được đưa vào các lò phản ứng khác nhau. Có những thời điểm bố phải đi làm xa nhà, có thể là xa nhà ba tuần và ở nhà một tuần, hoặc xa nhà từ thứ Hai tới thứ Sáu và ở nhà vào cuối tuần. Những lúc được ở nhà, ông sẽ dành nhiều giờ để chơi bóng cùng với chúng tôi trong vườn nhà. Mẹ chắc là đã cảm thấy khó khăn lắm khi bố liên tục xa nhà, buộc bà phải bất đắc dĩ đóng vai người bảo vệ pháo đài. Khi bố về thì hai thằng chúng tôi lại lập tức quấn lấy ông, thi nhau biểu diễn những chiêu trò mà chúng tôi vừa mới học được. Mẹ, cầu Chúa phù hộ cho bà, lại phải chờ đợi thêm nhiều tiếng nữa trước khi có thể có được đôi chút thời gian riêng tư với ông. Việc phải làm xa nhà và không thể có mặt trong nhiều sự kiện quan trọng có thể đã khiến bố phát điên, nhưng mẹ thì cũng không khá hơn khi phải quản lý hai thằng con trai cuồng thể thao trong khi vẫn phải hoàn thành công việc của bà ở một trường học.

Do ngôi nhà trong đó có căn hộ của chúng tôi nằm ở góc đường, nên chúng tôi có một cái vườn lớn hơn một chút, và đó chính là điều khiến chúng tôi cảm thấy tuyệt vời nhất. Chúng tôi dùng các cọc gôn cricket để làm khung thành, dùng hàng rào làm lưới, và thế là chúng tôi đã có Wembley của riêng mình. Graeme và tôi thường chơi với nhau trong nhiều giờ đồng hồ liên tục. Chúng tôi cùng nhau tạo ra những pha phối hợp mới, những tình huống 1-2 rồi ghi bàn vào lưới trống trong khi không ngừng bình luận về mọi thứ. Trong tưởng tượng của mình, chúng tôi đang chơi tất cả những trận đấu mà chúng tôi xem trên ti vi. Ngay từ nhỏ Graeme đã là một cầu thủ giỏi, thế nên nó nhanh chóng được chơi bóng cùng với tôi và các bạn của tôi, đều lớn hơn nó bốn hay năm tuổi cả. Mỗi khi Graeme tham gia cùng, tôi luôn cảm thấy rất tự hào. Các bạn tôi đều chấp nhận thằng bé bởi nó không bao giờ là gánh nặng của cả bọn. Tôi và Graeme thường về một phe và đấu với ba hay bốn bạn của tôi, thi thoảng Graeme làm thủ môn còn tôi phải một mình chống lại tất cả các cầu thủ còn lại, như thế sẽ khó hơn và tôi sẽ có cơ hội để luyện tập khả năng rê dắt cũng như tự kiểm tra trình độ của bản thân. Chúng tôi có thể chơi bóng trong ba hay bốn tiếng liên tục, và chính trong thời gian đó, tôi thường chợt nảy ra những ý tưởng, kiểu như Hôm nay mình sẽ thử dùng chân trái nhiều hơn xem sao. Tôi tự huấn luyện cho mình rất nhiều. Tôi sẽ cố tạt bằng chân phải, rồi chân trái, làm sao để có thể đạt được cùng một kỹ thuật với cả hai chân. Tôi cố gắng hoàn thiện cả kỹ năng chuyền bóng lẫn bấm bóng, vừa tập luyện vừa tự nhủ rằng, “Nếu mình có thể làm được điều này, mình sẽ trở thành một cầu thủ, hay giành được một danh hiệu”. Tôi không ngừng thách thức bản thân.

Tôi thường luyện tập với một quả bóng nhỏ bằng bọt biển trong nhà - tôi đá quả bóng vào ghế sofa, chờ nó nảy lên hai nhịp rồi tung ra một cú đá nửa nảy, và lặp lại chu trình. Tôi thường cố sút trúng một cánh cửa tủ hoặc bấm quả bóng tới một tấm đệm xác định trước, vừa làm vừa đặt ra những thách thức, “Làm được cú này, mày sẽ chơi cho đội tuyển Anh” hoặc “Làm được cú này, mày sẽ ghi bàn ở St James’.” Mỗi động tác tôi chỉ thực hiện một lần, vì tôi biết rằng khi đã bước vào một trận đấu thực sự, thì tôi sẽ chỉ có một cơ hội mà thôi.

Tôi nhận ra rằng khi dùng chân trái, tôi toàn đá bóng xuống sàn nhà, nên tôi tự điều chỉnh kỹ thuật của mình và luyện tập nhiều hơn nữa. Bây giờ, mỗi khi nhìn thấy Jacey chạy quanh nhà với một trái bóng, tôi lại nghĩ, Đó, chính xác là ngày xưa mình đã từng như thế. Tôi luôn có ý thức cải thiện kỹ thuật của bản thân. Tôi thường suy nghĩ theo kiểu, Sao mình không làm cho bóng xoáy hơn một chút nhỉ? Và sau đó tôi sẽ dành ra hai hay ba lượt để thử sức với cú đá xoáy đó. Ngay sau khi vừa từ trường về, tôi thường chơi đập tường xuyên qua các cột đèn. Tôi yêu việc chuyền bóng, vừa cảm nhận sức nặng của trái bóng khi nó chạm vào chân tôi, vừa suy nghĩ xem mình có thể làm gì với nó. Nếu trái bóng không rời khỏi chân tôi theo cách mà tôi mong muốn, tôi sẽ cảm thấy thực sự bực bội. Đường chuyền phải trông thực sự gọn ghẽ. Để làm được thế thì kỹ thuật phải chuẩn, và tôi gần như bị ám ảnh về điều đó. Mẹ phát điên lên vì Graeme và tôi đã cày cho cỏ chết hết và bãi cỏ đẹp đẽ sớm bị biến thành một thửa đất bùn nơi có cái khung thành mà chúng tôi tự tạo. Khi trời mưa, chúng tôi phải kéo nhau ra đường để chơi bóng vì cả khu vườn đều đã bị hủy hoại. Graeme và tôi luôn rất thân thiết, gần gũi với nhau, dù chúng tôi rất khác biệt về tính cách. Tôi hơi lạnh lùng, có chút lãnh đạm hơn và luôn cố gắng nhìn sự việc một cách khách quan. Trong khi đó, Graeme lại rất dễ nổi nóng, nhất là khi tôi cướp được bóng từ trong chân của nó. Những lúc như thế, tôi lại đặt tay lên trán của nó. Vì tay của tôi dài hơn, nên mặc cho cố gắng vươn tay hết mức nó cũng chỉ có thể đấm được vào khoảng không trước mặt tôi. Nên nó lại càng cáu tiết. Bố và tôi sẽ cùng cười, và cơn giận của nó lại được đẩy lên một nấc mới. Nhưng chuyện đó thường không kéo dài lâu. Mẹ sẽ nhanh chóng đứng về phía Graeme, em bé bé bỏng của bà. “Để nó yên đi, đừng làm nó điên lên nữa,” bà nói. Một ngày nọ, chúng tôi đang chơi bóng ở trung tâm thể thao Wallsend thì một cậu nhóc, tên là Skiv, đẩy Graeme ngã vào các tấm bảng. Graeme bật dậy gần như ngay lập tức, vừa khóc nhưng vừa muốn đánh lại Skiv, người to gần gấp đôi nó, khiến cho chúng tôi cảm thấy vừa thương vừa buồn cười. Tôi thì không bao giờ dám làm như thế. Tôi là kẻ mềm yếu.

Graeme rất dễ nổi nóng, trong khi tôi tự thấy chẳng điều gì có thể làm cho tôi giận dữ. Rất hiếm khi tôi rơi vào tình trạng không kiểm soát được bản thân. Khi còn là trẻ con, điều khiến tôi bực mình nhất là trong số những đứa trẻ chơi bóng ngoài đường, anh em tôi luôn là những đứa phải về sớm nhất. Tại sao? Một số đứa bạn tôi được chơi tới tận 9 giờ tối. Có thể thế là hơi muộn, tôi biết. Nhưng mẹ tôi thì lúc nào cũng chỉ một điệp khúc, “Không, hai đứa phải có mặt ở nhà trước 7 giờ 30. Mẹ không quan tâm lũ bạn con làm gì, đó là việc mà các con phải làm.” Nếu mà được quyền quyết định, chúng tôi có thể chơi bóng xuyên đêm. Tôi thích chơi với lũ bạn lắm.

Khi lên 9 tuổi, tôi bắt đầu thi đấu các trận sân 11 ở Boyza. Chất lượng của các trận đấu không tồi, nhưng cũng có những trận đấu diễn ra như một trận chiến trên những mặt sân tồi tệ trong điều kiện thời tiết tồi tệ chẳng kém. Ken Richardson và Alan Train, cũng là những tình nguyện viên như Bob, là những huấn luyện viên của tôi trong hai hay ba năm gì đó, và đấy là quãng thời gian mà tôi lần đầu được đào tạo một cách bài bản. Cả Ken lẫn Alan đều rất tuyệt. Ken làm việc bán thời gian ở Newcastle United, đồng thời còn làm thêm công việc giao sữa, ông có một chiếc xe tải nhỏ với một bên thùng xe để mở để ông có thể chuyển sữa lên và xuống dễ dàng. Vào các ngày Chủ nhật, ông sẽ dọn sạch các thùng sữa để tất cả chúng tôi có thể trèo lên thùng xe. Tôi vẫn còn nhớ cảnh chúng tôi chen chúc trên chiếc xe tội nghiệp - đôi lúc số người lên tới 12 nên một đứa phải ngồi lên ốp chắn bánh xe - và huyên thuyên đủ thứ chuyện trong khi đang trên đường tới trận đấu với Cramlington Juniors hay một đội nào đó khác. Bây giờ nhìn lại thì thấy chúng tôi đã quá liều lĩnh, nhưng ở thời điểm đó chúng tôi đều cảm thấy mình được sống trong một quãng thời gian rất tuyệt, khi mọi thành viên trong đội đều rất gắn bó. Được đại diện cho Wallsend Boys Club là một niềm tự hào thực sự. Chúng tôi thậm chí còn phải nộp phạt 10 đồng nếu mang giày bẩn tới các trận đấu. Tôi vẫn nhớ trận đấu với Ponteland trên sân khách. Hôm đó có mưa đá kèm ít tuyết, gió mạnh và rất lạnh - nói chung là thời tiết rất tệ - nhưng chúng tôi vẫn dẫn trước đối thủ 3-0, và tôi chuẩn bị được thay ra. Tôi cũng chỉ mong được ra sân sớm để có thể nhét lên người càng nhiều đồ càng tốt - chân và tay của tôi gần như đã mất cảm giác rồi, thế rồi bỗng nhiên một trong các đồng đội của tôi bật khóc. Cậu ta quá lạnh, và thế là cậu ta được ra sân. Tôi như muốn phát điên. Ngày đó chúng tôi đâu có đồ giữ nhiệt mà mang như bây giờ!

Ken là một “cảnh sát tốt”. Ông là người dạy cho tôi về kỷ luật chiến thuật, về cấu trúc của đội bóng, dù tôi lúc đó chỉ mới 9 tuổi. Alan thì lại đóng vai một “cảnh sát xấu”. “Michael, cháu mà không sút banh thủ môn đối phương ra, thì cháu không có cơ hội làm cầu thủ đâu”, Alan nói với tôi như thế hết ngày này tới ngày khác. Lúc đó tôi đang chơi trung phong, nhưng không tài nào hiểu nổi, “Sút banh thủ môn ra thì để làm gì?” Tôi nghe Alan nói với bố mẹ, “Michael lành quá, nó sẽ không thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp nếu không hạ gục được thủ môn...” “Nó sẽ không bao giờ làm thế,” bố trả lời. Còn mẹ thì nói, “Không đời nào. Tôi sẽ không bao giờ cho phép Michael làm điều đó,” bà tỏ ra rất giận dữ. “Và nó sẽ không bao giờ làm điều đó.” Tôi chưa bao giờ là mẫu cầu thủ bạo lực. Alan thì không có ý nói tôi phải gây chấn thương cho thủ môn, ông chỉ cảm thấy tôi hơi thiếu quyết liệt. Những đứa khác ở Boys Club thường lao chỗ này, húc chỗ kia, tranh chấp quyết liệt khắp nơi trên sân. Tôi thì khác. Tôi thích xem Jacey chơi bóng và thấy rằng nó cũng không khác tôi ngày xưa là mấy. Nếu thủ môn đối phương lao ra, nó cũng sẽ cố gắng lách người và thoát đi. Jacey có phong cách giống của bố tôi, cũng chân trái, cũng chơi một chạm, hoặc chạm và chuyền. Theo một cách nào đó, tôi nghĩ rằng nhà Carrick có một phong cách chơi bóng riêng. Ông nội thường hay bảo tôi phải “chuyền bóng” và “chuyển hướng”. Đó là điều mà ông từng dạy bố, và ông cũng muốn dạy cả tôi luôn. Giống với ông, bố luôn bảo tôi phải “chuyền, chuyền, chuyền cho ai đó khác ở vị trí tốt hơn”. Với bố thì “chơi bóng vì tập thể” là điều hết sức quan trọng. Ông không thể chịu đựng nổi những cầu thủ chơi bóng cá nhân. Với ông thì đội bóng phải luôn được đặt lên trên hết. Gần đây, chúng tôi tổ chức một trận đấu giữa nhân viên và khách mời trong một khách sạn ở Dubai, đội tôi có bố, tôi, Graeme và Jacey. Ở tuổi 66, bố vẫn là người chơi tốt nhất!

Ngay từ khi còn bé, tôi đã biết rằng bố thích xem tôi chơi bóng nhiều đến thế nào, ông luôn động viên tôi cố gắng, dù không bao giờ muốn thể hiện quá nhiều tình cảm. Tôi may mắn có những phụ huynh luôn yêu thương và ủng hộ mình. Họ chưa bao giờ bỏ lỡ một trận đấu nào của tôi hay của Graeme. Chúng tôi là tất cả với hai người. Nhìn thấy họ, biết được những hy sinh mà họ phải trải qua, là điều tuyệt vời với chúng tôi. Một điều tuyệt vời khác là họ không bao giờ đặt lên chúng tôi bất kỳ áp lực nào. Bố sẽ chỉ nói, “Cứ tận hưởng thôi. Nỗ lực hơn nữa. Dồn hết tâm trí. Cố gắng hết sức. Tốt lắm.” Tới tận bây giờ bố vẫn thế. Nếu Manchester United thất bại, ông sẽ chỉ nói, “Thôi, cố gắng lần sau làm tốt hơn.” Bố không phải mẫu người hiếu thắng, thực sự như thế, ông quá hiền để có thể trở thành như vậy. Tôi tự nhìn lại mình và nghĩ, đúng rồi, mình đang sở hữu hai nhân cách: trong bóng đá, tôi là người cực kỳ hiếu thắng, sẵn sàng làm tất cả vì chiến thắng, nhưng ngoài đời, tôi lại rất, rất dễ tính. Nếu tôi thua một trận golf nhưng biết rằng mình đã chơi tốt, thì tôi thấy rất bình thường. Tôi đoán đó là phần xuề xòa trong tôi, nhưng tôi còn một phần khác nữa, mà nhờ nó, ở những thời điểm quan trọng trong các trận đấu, tôi luôn được thôi thúc bởi khát khao phải thắng. Tôi chỉ không bao giờ cảm thấy cần phải hò hét hay gào thét.

Tuổi thơ của tôi là những mảng ký ức đầy hạnh phúc mà ở trung tâm luôn là bóng đá, nếu không phải là chơi thì cũng là xem. Tôi sẽ không bao giờ quên được trải nghiệm đầu tiên của tôi về một đám đông (xem) bóng đá, khi tôi được 6 tuổi. Tới giờ tôi vẫn còn cảm nhận được sự phấn khích khi lần đầu tiên bước nhanh ra khỏi ga Metro và choáng ngợp trước sự kỳ vĩ của sân St James’ Park. Sân nhà của Newcastle United được dựng lên trên một ngọn đồi và với tôi thì đó là nơi tuyệt nhất trên đời. Tôi cũng nhanh chóng “phải lòng” bầu không khí ở đó. Chúng tôi tới sớm. Bố lúc nào cũng tới sớm. Lúc đó chỉ có tôi và bố đi thôi, vì Graeme chỉ mới 2 tuổi. Hai bố con xếp hàng trước một cái lỗ nhỏ và hẹp trên tường. Ngày đó chúng tôi không cần mua vé vào cửa, tôi chỉ phải trả 3 bảng, đẩy mạnh cái cửa quay màu đen nặng nề, và sau đó đã có thể bước vào thiên đường có tên Gallowgate. Cảm giác hồ hởi khi leo lên những bậc thang bên trong Gallowgate sẽ không bao giờ rời bỏ tôi. Tôi nóng lòng muốn được ngắm nhìn sân bóng và hòa mình vào đám đông đang ca hát trên các khán đài ngay. Khi đã bước qua bậc thang cuối cùng, tôi lao ngay về khán đài, nhìn xuống dưới, và một cảnh tượng khó tin mở ra trước mắt tôi - một sân bóng khổng lồ! Tôi như bị ngộp thở, sân bóng lớn tới mức tôi không thể thốt lên một lời nào trong 1 hay 2 phút gì đó. “Thật không thể tin nổi!”, tôi thì thầm, chỉ vừa đủ để mình nghe thấy. “Chính là nó! Sân bóng tuyệt vời nhất trên thế giới!” Bố bế tôi đặt lên cái barie bằng bê tông để tôi có thể nhìn rõ các cầu thủ Newcastle. Mirandinha tạo được ấn tượng ngay lập tức, và lâu bền, với tôi, bởi vì ông trông hoàn toàn khác biệt. Thực sự thì tôi cũng không biết là ông có giỏi như người ta nói hay không, nhưng tôi có thể cảm nhận được việc tất cả những người có mặt ở Gallowgate hôm ấy đều hy vọng vào một điều gì đó đặc biệt từ ông. Một người Brazil ở Newcastle cơ mà! Âm thanh trong sân vận động khiến thằng nhóc 6 tuổi là tôi cảm thấy thích thú. Tôi chưa từng tới chỗ nào ồn ào như vậy. Tôi không hề thấy sợ hãi hay lo lắng, chỉ thấy yêu thôi. Tôi thấy như ở nhà, cảm nhận rõ sự thân thiết, chúng tôi cùng hát Blaydon Races và tôi có thể thấy rõ bài hát ấy có ý nghĩa với các cổ động viên của Newcastle nhiều đến thế nào. Tôi có thể hát thoải mái dù đang ngồi trên cái barie bê tông không mấy tiện nghi ở khu vực phía sau cầu môn. Tôi luôn cảm thấy an toàn, bởi vì tôi biết rằng bố luôn đứng ở phía sau tôi, sẵn sàng giữ lấy tôi nếu đám đông có bất ngờ ùa lên. Tôi nhớ là tôi luôn ngồi trên cùng một cái barie, cái barie ở ngay phía trước bảng tỷ số. Bầu không khí thật khó tin, tôi bị cuốn vào ngay lập tức.

Tôi lưu giữ rất nhiều ký ức về St James’ Park, từ những tiểu tiết như việc họ thường ném hạt quả hạch từ dưới sân qua hàng rào lên khán đài, tới những sự kiện trọng đại mang tính lịch sử. Khi Kevin Keegan trở lại làm huấn luyện viên vào năm 1992, tôi mới 10 tuổi, nhưng vẫn nhớ rõ là St James’ hôm đó như phát cuồng. Bầu không khí phấn chấn ngập tràn. Ông ấy có thể bán được cả giấc mơ, đúng không? Keegan cứu cho đội bóng khỏi rớt xuống hạng ba, Rob Lee được mang về, Steve Watson và Lee Clark đã ở đó, và Peter Beardsley cũng sớm trở lại. Đó là một quãng thời gian thực sự đặc biệt. Chúng tôi đã chơi thứ bóng đá tuyệt vời nhất, lúc còn ở giải hạng nhất ấy, bởi vì đơn giản là chúng tôi thắng suốt và ghi được rất nhiều bàn thắng. Andy Cole ghi bàn không ngừng. Chúng tôi bay thẳng lên Premier League. Những ngày tươi đẹp đã trở lại. Cả thành phố hân hoan. Ở nơi này, sự khác biệt giữa việc Newcastle chơi tốt và không tốt là rất lớn. Trong khoảng ba hay bốn năm sau đó, thành phố lúc nào cũng tưng bừng.

Bố tôn thờ Newcastle. Ông hiện đang là một thành viên của câu lạc bộ Fairs Club, nơi các các cổ động viên của Newcastle chia sẻ cảm xúc về các trận đấu trước đây của Newcastle và gặp gỡ những cầu thủ cũ. Tôi biết nghe có vẻ hơi lạ tai, nhưng bố chưa bao giờ thực sự hiểu được ý nghĩa của việc khoác áo Manchester United đối với tôi. Ông không bao giờ ủng hộ mấy chuyện ồn ào. Với ông, chúng chả có chút ý nghĩa nào. Bố không quan trọng là đá với Coventry hay Barcelona, ông chỉ đơn giản là muốn tận hưởng cảm giác xem một trận đấu, có thể là tới sân, mà cũng có thể là ở nhà xem qua ti vi.

Chúng tôi có một cái ti vi, không có điều khiển, và chỉ có bốn kênh. Một ngày nọ, bố trở về sau chuyến công tác với một chiếc ti vi mới, một chiếc ti vi hình vuông mà bọn tôi chỉ có thể nhìn không rời mắt trong sự kinh ngạc. Chiều sâu và chiều rộng của nó là như nhau, màn hình thì được bọc gỗ. Chúng tôi cắm cái máy chơi game Spectrum vào và chơi trò đánh tennis, ngày xưa vẫn là một trò chơi rất đơn giản với hai đường kẻ ở hai đầu, và một chấm nhỏ chạy từ bên này qua bên kia. Tôi dành rất nhiều thời gian cùng với bố và Graeme xem bộ sưu tập băng từ VHS về George Best của bố - Best là cầu thủ mà bố yêu thích nhất. Ông cũng thường mở băng của cầu thủ Newcastle mà ông yêu thích, Malcolm “Supermac” Macdonald! Chúng tôi còn có băng hình của Best, Law, Charlton, của Brazil, Maradona, hay “500 bàn thắng đẹp nhất châu Âu”, kiểu kiểu thế. Bố cũng thích Celtic, vì thế chúng tôi cũng có ít băng hình của họ, những con sư tử Lisbon, đại loại vậy, và ông còn mua cho tôi một vài chiếc áo đấu của Celtic. Tôi thường nhìn chiếc tủ trong đó bố giữ các băng hình của ông như thể đấy là một cái rương chứa kho báu vậy. Ông còn có băng ghi hình các trận chung kết FA Cup, trong đó có những trận chúng tôi xem đi xem lại không chán như trận Liverpool thắng Everton 3-2 vào năm 1989. Sau khi xem xong, Graeme và tôi sẽ chạy ngay ra vườn để luyện cú đảo chân Beardsley. Beardsley, John Barnes - và những cầu thủ từng gắn bó với Liverpool khác, tôi nhớ hết tên của họ. Tôi bắt đầu theo dõi Liverpool bởi vì cậu em họ Gary của tôi là một fan lớn của đội bóng. Tôi thường mặc chiếc áo đấu của Liverpool thời Crown Paints còn là nhà tài trợ và tên của họ được in trước ngực. Từ năm 1988 thì Candy thay thế, và tôi cũng có áo của đội thời điểm đó. Tôi thường xem John Barnes một cách say mê. Ông ấy rất uyển chuyển, đúng không? Lúc nào cũng “sạch sẽ” và “gọn ghẽ”. Beardsley là một người hùng trong mắt tôi. Jan Mølby cũng rất đặc biệt. Tôi ước có thêm nhiều hình tư liệu về Mølby, thực sự là thế, vì tôi thấy trong cách chơi của ông ấy và của tôi có nhiều điểm tương đồng. Không bao giờ vội vã, rõ ràng, dù Mølby ghi được nhiều bàn thắng hơn tôi. Chúng tôi cũng hay xem chương trình The Big Match vào Chủ nhật, mọi người quây quần bên ti vi, cùng theo dõi các trận đấu được truyền trực tiếp. Tôi sẽ không bao giờ quên được trận Liverpool - Arsenal, trận đấu quyết định chức vô địch quốc gia năm 1989. Hôm đó là thứ Sáu, tôi và bố cùng xem với nhau. Bố gần như không nói gì cả. Thực tế thì ông chưa bao giờ là người thích nói nhiều, ngay cả bây giờ cũng vậy.

Italia ’90 là giải đấu lớn đầu tiên mà tôi thực sự nhớ rõ, và cho tới giờ, những ký ức về giải đấu ấy vẫn còn như mới trong tôi. Trong mùa hè kỳ diệu ấy, tôi gần 9 tuổi và hầu như không thể rời khỏi màn hình ti vi. Một ngày nọ khi tôi và Graeme tới nhà bà để uống trà, chúng tôi xin bà mở ti vi cho xem trận tứ kết giữa Argentina với Nam Tư. Tôi cũng sẽ không bao giờ quên được quả đá penalty thành công của Diego Maradona trong loạt luân lưu ở trận bán kết với Italy. Tôi xem không sót một khoảnh khắc nào ở kỳ World Cup ấy, nhớ hết tất cả những cầu thủ nước ngoài tuyệt vời với những cái tên lạ tai mà tôi nhắc đi nhắc lại mãi: Schillaci! Baggio! Völler! Klinsmann! Matthäus! Careca! Tất nhiên, Anh chính là tình yêu của tôi. Tôi là Gazza, lúc nào cũng là Gazza, số 19 của tuyển Anh, cả trong sân vườn, cũng như trong những giấc mơ. Tôi thậm chí còn có một bộ tracksuit[1] của tuyển Anh - một bộ shell suit[2] thì đúng hơn - mà tôi đã mặc như một thứ bùa may khi Anh vượt qua Italy. Tôi tin tưởng rằng Anh sẽ làm được, rằng chúng tôi sẽ trở thành những nhà vô địch thế giới. Chúng tôi có GAZZA cơ mà!!! Trận bán kết với Tây Đức ở Turin, và thất bại trong loạt 11m khiến tôi hoàn toàn suy sụp. Bóng đá, tuyển Anh và Gazza là tất cả đối với tôi, nên khi chúng tôi phải dừng bước trước ngưỡng của thiên đường, tim tôi như tan vỡ.

[1] Bộ quần áo thể thao - ND.

[2] Cũng là bộ quần áo thể thao nhưng nhẹ hơn và có khóa kéo - ND.

Hồi 1988, bố thậm chí còn mua được vé xem trận Liverpool tranh Charity Shield (Siêu Cúp Anh) với Wimbledon ở Wembley. Đúng rồi, là Wembley! Cũng giống như với Boys Club và sau đó là St James’, chuyến đi đầu tiên tới Wembley chắc chắn sẽ rất đặc biệt - nó phải đặc biệt! Chúng tôi dự định sẽ ở lại qua đêm, cả nhà chúng tôi, gồm mẹ, bố và hai anh em tôi. Vì thế, chúng tôi đặt một phòng B&B[3] ở bắc London. Bố và tôi nhanh chóng tới sân để kịp theo dõi trận đấu, trong khi mẹ đưa Graeme đi shopping ở London trên chiếc xe đẩy. Bố muốn tới Wembley một cách “đúng điệu”. “Nhanh lên con trai, chúng ta sẽ đi tàu điện ngầm, sau đó lên Wembley Way.” Với bố thì đó là điều hết sức trọng đại, ông thuộc mẫu người cực kỳ coi trọng truyền thống, hay còn gọi là mẫu cổ điển, nhưng tôi yêu cái thực tế rằng ông là một người như vậy.

[3] Bed & breakfast, một kiểu homestay, khách thuê có chỗ ngủ qua đêm và ăn sáng miễn phí - ND.

Tôi từng nghĩ như sân St James’ là lớn lắm rồi. Nhưng Wembley, trời ơi, là một con quái vật! Chúng tôi ngồi ngang với khu vực cấm địa, đối diện khu Hoàng gia - Royal Box. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác lạnh sống lưng khi các cầu thủ chạy ra từ đường hầm, khi được sống trong những âm thanh sống động của cả sân bóng, và khi John Aldridge lập cú đúp. Liverpool giành chiến thắng trước Wimbledon, trả được món nợ thua ở chung kết FA Cup, tôi nghĩ vậy. Tuy nhiên, trải nghiệm đầu tiên về Wembley của tôi lại kết thúc trong tồi tệ. Khi chúng tôi trở lại phòng trọ, mẹ đang khóc nức nở. Khổ thân mẹ, có lẽ bà đã nghĩ là thời gian ngừng trôi khi ngồi đó chờ bố con chúng tôi về. “Em không thể nào ở lại đây được”, mẹ nói. Căn phòng quả thật hết sức tồi tệ. Đó là một căn hộ tầng hầm bẩn thỉu với những túi rác màu đen nằm chình ình ngay ngoài cửa, và mẹ thì không dám đụng vào bất kỳ thứ gì. “Thôi,” bố nói, “Chúng ta về thôi.” Thế là chúng tôi leo lên chiếc Princess có cái nắp capo dài ngoẵng của bố và trở về nhà. Chuyến đi kéo dài tới bảy tiếng, nhưng cũng bõ. Chúng tôi không thể nào ở lại chỗ đó được. Đấy là một nơi thảm họa, mà chúng tôi thì lúc nào cũng yêu cảm giác được ở nhà.

Ngay từ khi còn nhỏ, chúng tôi đã đi lễ vào mỗi Chủ nhật ở nhà thờ của Salvation Army (Đội quân Cứu thế, một nhà thờ đạo Tin lành). Chúng tôi luôn được nuôi dạy với những giá trị Cơ đốc giáo mạnh mẽ. Điều đó rất quan trọng với bố mẹ. Mẹ gần như lúc nào cũng có mặt ở Salvation Army. Vì thế, cứ vào Chủ nhật là chúng tôi lại đi lễ nhà thờ và sau đó vào học ở trường đạo. Khi tới nơi, tôi, Graeme và cậu em họ Garry sẽ chạy thẳng đến nhà cộng đồng để chơi bóng. Chúng tôi chơi trước và thậm chí cả sau khi hành lễ.

Chúng tôi lúc nào cũng mang theo quả bóng bằng bọt biển bên người, nên có thể đá ở mọi nơi, thường là dùng ghế để làm khung thành. Nhưng rồi dần dần tôi phát hiện ra rằng không có bất kỳ cậu bạn nào của tôi ở Boyza tới trường đạo, điều đó khiến tôi cảm thấy khó hiểu hết sức. Cuối cùng, tôi mang thắc mắc của mình nói với mẹ. Tôi nói rằng không có cậu bạn nào của tôi ở Boyza học ở trường đạo, vậy tại sao chúng tôi lại phải làm thế? Tôi duy trì thói quen nói trên thêm một thời gian nữa, nhưng tới năm 11 tuổi thì tôi không còn đi lễ vào tất cả các ngày cuối tuần, dù cả gia đình vẫn đi vào những dịp đặc biệt. Mẹ không thấy có vấn đề gì. Bà luôn động viên chúng tôi, nhưng chưa bao giờ muốn áp đặt đức tin của mình. Thực tế thì tôi là một người Công giáo, vì bố được sinh ra trong một gia đình Công giáo, Ông tôi thậm chí còn từng quản lý một ngôi trường Công giáo. Khi lũ trẻ nhà tôi trở lại Wallsend, chúng rất thích được tới nhà thờ và trường đạo với mẹ. Chúng cũng háo hức nghe bà kể chuyện về thời bà còn là thủ lĩnh trong Câu lạc bộ Thanh niên, là Cú Nâu (Brown Owl, lãnh đạo cao nhất) và Người hướng dẫn (Guider) trong phong trào Girlguiding. Mẹ luôn tổ chức được những chuyến đi dã ngoại trong ngày hay những kỳ nghỉ dài ngày tuyệt vời tới những địa điểm như là Scarborough, Skegness, Butlin’s và thậm chí cả Corfu. Nhưng khổ thân mẹ, ngay khi vừa tới nơi và nhìn thấy bãi cỏ, chúng tôi sẽ lập tức gào lên “Lấy bóng ra, lấy bóng ra.” Khi đó mẹ chỉ có thể cười và nói, “Mấy thằng nhóc nhà tôi thế đấy.” Tới bây giờ, đôi lúc tôi vẫn nghĩ, phải sống trong một ngôi nhà toàn con trai như thế, có bao giờ mẹ tôi mơ ước có một đứa con gái không?

Tôi yêu và ngưỡng mộ mẹ lắm. Mẹ là một người phụ nữ tuyệt vời. Mẹ thích gửi thiệp cho mọi người, vào sinh nhật, đám cưới, để cảm ơn, chúc mừng - bà hẳn phải có một quyển sách dày với đầy ắp những ngày tháng và địa chỉ. Cộng đồng chính là “đội” của bà, và bà đóng góp cho đội của mình rất nhiều. Không bao giờ bà nghĩ tới mình, bao giờ cũng là người khác trước. Khi tôi còn ở Boyza, mẹ chính là người mang bánh quy và trà tới cho mọi người. Khi đi picnic, lại là mẹ chuẩn bị bữa trưa. Mẹ thường tỏ ra hơi bực mình khi tất cả mọi người đều đến tay không rồi nói, “Ô, Lynn có gì kìa.” Khách quan mà nói, mẹ luôn có gì đó thật. Mẹ còn có một bình cà phê kiểu công nghiệp cỡ lớn, đủ chứa cà phê cho cả một đội quân. Chúng tôi còn lôi theo đủ thứ lỉnh kỉnh khác, từ áo khoác, mũ, găng tay, túi, vì mẹ luôn lo lắng sẽ có lúc có ai đó cần đến chúng.

Mẹ thích làm thế, bởi bà biết rằng Graeme và tôi rất hạnh phúc ở Boyza. Mẹ luôn có mặt trong các trận đấu của chúng tôi, đôi khi vì thế mà phải bắt tới bốn chuyến xe bus, nhất là trong những lúc bố đi công tác. Bà không bao giờ nói, “Ôi, tối nay mẹ không đưa các con đi được rồi.” Mẹ không biết lái xe. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ bỏ lỡ các trận đấu, vì mẹ luôn đưa chúng tôi tới sân đúng giờ bằng xe buýt. Tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể nói ra được hết sự biết ơn với những hy sinh của bà. Mẹ cũng dạy tôi sống có nguyên tắc và có trách nhiệm với tiền bạc. Tôi nhớ có một hôm bà gọi tôi lại và nói rằng bà đã lập cho tôi một cuốn sổ tiết kiệm nhỏ để tôi có thể gửi tiền vào. “Mẹ sẽ chuyển tiền ăn tối và một ít tiền tiêu vặt hằng tháng của con vào ngân hàng, nên con cần phải nhanh chóng học cách quản lý chúng,” mẹ nói. “Nếu con có thể tiết kiệm được khoản nào trong tháng thì khoản đó sẽ là của con. Nhưng con cũng nên nhớ là nếu vào thứ Sáu con đã tiêu hết tiền ăn tối rồi, thì tối hôm đấy con sẽ phải nhịn đó.”

Một trong những ký ức đẹp đẽ nhất về thời thơ ấu của tôi là khi tôi cùng đội U12 của Wallsend Boys Club tới Hà Lan du đấu. Cả đội choáng ngợp trước những pha lên bóng từ phần sân nhà của đối thủ. Nhưng đấy không phải phần tôi nhớ nhất. Tôi còn không nhớ chúng tôi đá với đội nào, tuy nhiên lại nhớ rất rõ cảnh mẹ cầm túi xách dọa trọng tài. Những cảnh như thế cả đời ta cũng không quên được! Để tôi tóm tắt câu chuyện. Chỗ chúng tôi ở có một cái hồ và một cầu trượt, trong khi chơi, tôi bị xước hết cả đầu gối. Thế là trên gối tôi xuất hiện một mớ băng bướm kiểu cũ, và một miếng gạc to đùng. Nhưng bởi vì chúng tôi đang đi du đấu, nên tôi vẫn quyết ra sân. Trong đội hình của đội bóng mà Wallsend phải đối đầu có một vài cầu thủ gian tuổi, đó là điều chắc chắn bởi vì họ không thể nào mà cũng 11 tuổi như chúng tôi được, và một trong những kẻ gian tuổi đó, một gã to lớn, đã đẩy tôi ngã dúi dụi khiến tôi ôm gối đau đớn. Mẹ gào lên với trọng tài, rồi sau đó lao vào sân, tay lăm lăm cái túi. Được nửa đường thì mẹ nhận ra việc mình đang làm, bà dừng lại, sau đó từ từ lùi về chỗ cũ. Chuyện đó khiến bà xấu hổ mãi. Cho tới giờ thì bà vẫn chưa hết ngại khi nhắc lại sự cố ấy!

Graeme giống mẹ, trong khi tôi giống bố nhiều hơn. Khi nhỏ, tôi hơi nhút nhát, thậm chí còn có thể ngây ngô nữa. Lũ bạn tôi lúc nào cũng bày ra đủ trò, vướng vào đủ kiểu rắc rối, không đánh nhau chí chóe thì cũng quấy rối người khác bằng cách tới gõ cửa nhà người ta rồi ù té chạy. Đại loại là những trò ngớ ngẩn như thế. Tôi thì không bao giờ tham gia - chỉ vì tôi quá lo lắng về chuyện bị tóm. Tôi không sợ bố, nhưng sợ mẹ một phép. Bà là một người rất mạnh mẽ, và có thể rất cứng đầu (về điểm này thì tôi giống bà). Nhưng bà là người giàu tình yêu thương và luôn quan tâm tới người khác. Cứ khoảng vài tháng một, mẹ lại có một lần nổi đóa, đôi khi tới mức mất cả kiểm soát, nhất là khi chuyện bóng bánh của chúng tôi khiến cuộc sống gia đình bị ảnh hưởng. Bà sẽ gào lên, “Suốt ngày bóng với chả bánh. Tôi không thể chịu đựng được nữa.” Rồi bà đóng sầm cửa và đi ra ngoài. Bố và tôi sẽ nhìn nhau và cười mỉm, “Mẹ lại thế nữa rồi!” Nếu tôi mà chưa làm xong bài tập, mẹ chắc chắn sẽ không cho tôi tới Boyza. “Học hành trước, bóng bánh để sau” là câu bà thường nói. Cả mẹ lẫn bố đều rất quan tâm tới chuyện học hành. Có một lần tôi đã lỡ một buổi tập bởi vì chưa hoàn thành bài tập về nhà. Tôi đã rất xấu hổ khi phải nói với Ken lý do tôi không thể có mặt. Đấy là lần duy nhất tôi để chuyện đó xảy ra.

Ở ngôi trường đầu tiên của tôi, Stephenson, tôi chưa chơi bóng nhiều lắm. Ở đó có thầy Dobson là một thầy giáo thể dục kiểu cũ, rất nghiêm khắc. Ở Stephenson không có một cầu thủ bóng đá thực sự nào, đội cùng khóa với tôi thì rất tệ, nên tôi thường nhảy lên chơi với các anh lớp trên. Và bởi vì tôi ít ra cũng có đôi chút khái niệm về việc phải chơi như thế nào, nên thầy Dobson thường bố trí tôi đá hậu vệ quét. Tôi đã chơi ở vị trí đó một buổi chiều nọ, khi đội chúng tôi đấu với đội Western. Colin Mackay, một trong các giáo viên của đội Western, sau khi xem tôi chơi đã có lời mời tôi tới thử việc ở Wallsend Town. Lúc ấy thì đó là cả một sự kiện. Không lâu sau đấy, tôi chuyển tới Western và chơi bóng dưới sự chỉ bảo của thầy Mackay, người mà tôi luôn đánh giá là tuyệt vời, là người tốt nhất. Phong trào bóng đá ở Western mạnh hơn hẳn so với ở Stephenson. Ở Western, chúng tôi có một nhóm gồm sáu hay bảy thằng cuồng thể thao như tôi, trong đó có những người bạn thân nhất của tôi là Chris Hood, Steven Bradley và Stephen Rutherford. Hoody sau đó tới Trung tâm năng khiếu của Newcastle, Paul Docherty và Kevin Urwin thì ở Middlesbrough trong thời gian ngắn tôi tập luyện ở đó, Phil Walton tới học việc ở Hartlepool, Chris Thorman chuyển sang chơi rugby, gia nhập Super League, làm đội trưởng đội tuyển Anh và nay đang là trợ lý huấn luyện viên ở Huddersfield Giants. Steven Bradley và Stephen Rutherford ký hợp đồng với Hull và sau đó là Gateshead Thunder ở giải vô địch rugby. Chúng tôi đều ngon lành cả! Western thậm chí còn giành được quyền tham dự vòng chung kết giải vô địch sân 5 dành cho khối các trường học trên toàn quốc, giải đấu diễn ra ở Trung tâm thể thao Aston Villa vào năm 1992. Chúng tôi tự thúc đẩy nhau tiến bộ dưới sự hướng dẫn của thầy Mackay. Khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, tôi nhận ra mình đã may mắn đến nhường nào khi có được một người thầy tuyệt vời như thầy Mackay, người đã luôn động viên, khích lệ tôi trong những năm đầu của cuộc đời và sự nghiệp. Ông tới từ Aberdeen, là một người rất nhiệt thành, cứ mỗi lần tôi nghĩ ông đã giúp đỡ mình nhiều thế nào, từ sâu thẳm trong tôi lại trào lên một cảm giác biết ơn. Tôi chưa bao giờ để mất liên lạc với thầy Mackay, bởi vì ông chính là người đã giúp định hình sự nghiệp của tôi. Ông dành rất nhiều thời gian - các buổi tối trong tuần và các buổi sáng thứ Bảy - để chỉ bảo cho chúng tôi.

Thầy Mackay thậm chí còn đăng ký cho tôi tham gia giải vô địch điền kinh hạt Northumberland hồi năm 1991. “Chúng ta cần một người tham gia nội dung vượt rào 60m cho lứa tuổi U12,” ông nói. “Thầy ơi để con thử xem sao,” tôi đáp lời. Tôi, 9 tuổi, tham gia nội dung cho lứa tuổi 11, và chưa tập được buổi nào. Thực sự là điên rồ, bởi vì tôi chẳng biết bất kỳ cái gì cả, thậm chí còn không biết phải chạy bao nhiêu bước giữa hai cái rào. Tôi còn chẳng biết ăn mặc thế nào cho phải. Tôi nhớ là hôm đi thi, tôi mặc một bộ Reebok thùng thình, đi một đôi giày cũng thùng thình không kém. Anh chàng bên cạnh mang giày đinh, còn chuẩn bị cả các khối giậm đà, tôi thì đứng đó và nghĩ, Mình sẽ làm cái quái gì với mấy thứ thùng thình trên người này? Nhưng dù thế nào thì tôi cũng xuất phát được, và tất cả những gì mà tôi có thể nghe thấy là tiếng mẹ hét, “Cố lên, Michael, cố lên!” Tôi vượt qua được vài vòng, và chiến thắng trong trận chung kết. Vô địch hạt Northumberland đấy nhé! Năm tiếp theo, thầy Mackay lại đăng ký cho tôi tham gia, nhưng năm đó tôi chỉ về nhì, và sự nghiệp điền kinh của tôi coi như chấm dứt ở đó.

Một ngày, thầy Mackay lại nói, “Hạt đang tổ chức tuyển vận động viên cricket, các con chơi cũng ổn, có muốn tham gia không?” Chúng tôi không chắc lắm. Rồi thầy nói tiếp, “Buổi thi tuyển sẽ diễn ra ở Câu lạc bộ Cricket Jesmond, vào lúc 2 giờ chiều. Nên các con sẽ phải nghỉ học sớm.” Nghỉ học sớm ư? Yeah, đăng ký ngay cho bọn con đi thầy! Chúng tôi cứ thế tới Jesmond, và ngay lập tức nhận ra rằng mình đã tới nhầm chỗ. Trông bọn tôi đứa nào cũng lếch tha lếch thếch, đúng kiểu vừa từ ngoài đường vào, và chẳng thằng nào có nổi một cây gậy. Nói chung, chúng tôi chẳng biết mình đang làm cái quái gì. Tất cả những đứa trẻ khác đều đến từ các trường tư, tất cả đều vận đồ trắng, và tôi biết tất cả đều đang nghĩ: “Ở đâu ra cái đám này vậy?” Nhưng kệ, chúng tôi, gồm tôi, Hoody và mấy cậu khác, cứ đeo đệm ống chân vào, mượn một cây gậy, rồi bước ra sân. Tôi sẽ không bao giờ quên được cách Hoody quật những quả bóng đi bốn hướng. Cậu ta khiến cho những tay ném chạy tán loạn. Thorman cũng chứng tỏ mình là một tay ném nhanh nhẹn. Tuy nhiên, không ai trong chúng tôi được liên hệ lại. Thi đấu cho đội tuyển của hạt ư? Đương nhiên là người ta sẽ không để chúng tôi có được vinh dự đó. Đám nhóc ở Wallsend không hợp với tiêu chí của họ. Tôi biết là mình chơi được cricket, nhưng thực sự là tôi không biết nhiều về môn này. Khi chơi, tôi cảm thấy hơi bị ngợp, và không thoải mái. Như thể đấy là một thế giới mà tôi không nên thuộc về. Tôi vẫn nhớ quả bóng đầu tiên được ném về phía mình, chưa bao giờ tôi thấy cái gì bay nhanh như thế. Ngay ở đó và vào thời điểm ấy, tôi đã quyết định, Không, đây không phải là món dành cho mình.

Thầy Mackay còn cho chúng tôi chơi rugby ở trường; một vài đứa còn tham gia giải vô địch vào các thứ Bảy. Graeme chơi rugby khá giỏi, đủ để được tham gia giải vô địch giữa các trường khu vực Đông Bắc được tổ chức ở Wembley ngay trước giải Vô địch thế giới rugby 1995. Nhưng cậu ta lại không máu me với môn này lắm. “Muốn chơi một trận rugby không?” Chơi luôn, “Luật lệ thế nào?” Cứ ghi vài điểm try[4] và làm vài cú tắc thôi. Đấy, thực sự, không phải là môn chơi hợp với tôi; tới giờ tôi vẫn còn mấy vết sẹo vì rugby. Một ngày nọ, chúng tôi chơi rugby trên bãi biển ở vịnh Whitley, cách Wallsend khoảng 11km. Trận đấu diễn ra rất căng thẳng, và rồi tôi lãnh một cú trời giáng vào mũi. Khi lũ bạn nhìn thấy mặt tôi be bét máu, chúng mới gọi xe cấp cứu. Chúng tôi đi xuống chân của một vách núi nhỏ, rồi lũ bạn để tôi lại đó. Nhân viên y tế đã phải mất bao công mới tới được cái chân vách đó; tới nơi, tất cả những gì ông ấy thấy là một thằng nhóc 14 tuổi với một cái mũi sưng vù. “Cậu có thể tự đi lên mà,” ông nói, giọng không được thoải mái lắm. Dù sao thì ông cũng đưa tôi tới bệnh viện North Tyneside General và sau đó họ gọi điện cho mẹ. Tôi không muốn sửa mũi, nhưng khi mẹ tới, mẹ khăng khăng yêu cầu các bác sĩ phải nắn lại nó. “Con bà sẽ là người quyết định việc đó, thưa bà,” vị bác sĩ nói với mẹ. Mẹ gay gắt, “Xin lỗi ông, tôi là người nhà của nó. Đó là con trai tôi. Nó mới 14 tuổi, và tôi vẫn là người chịu trách nhiệm về nó!” Vị bác sĩ vẫn tỏ ra rất cương quyết: “Michael đã chọn không can thiệp gì cả, và nếu chúng ta nói về trách nhiệm, thì tôi xin nhắc lại với bà rằng bà đã không có mặt ở đó khi tai nạn xảy ra.” Tới bây giờ mẹ vẫn giữ lá thư mà bệnh viện North Tyneside General gửi về trường Western để thông báo rằng tôi đã tự đi ra chỗ bãi biển với đám bạn.

[4] Bằng cách đặt trái bóng xuống khu vực cầu môn bên trong, giữa vạch cầu môn và vạch hết sân - ND.

Tới thời điểm đó, bóng đá đã trở thành một nỗi ám ảnh toàn phần với tôi, tôi không còn chơi nhiều môn thể thao khác nhau nữa, mà tập trung hoàn toàn cho bóng đá. Hoody từng được nhận vào Trung tâm năng khiếu của Newcastle, nhưng cả cậu ấy, Bradley lẫn Rutherford không có ai là cuồng bóng đá như tôi. Họ thích rugby hơn. Có lần Rutherford gọi cho tôi khi tôi đang ở nước ngoài, đúng lúc tôi đang ở trên xe bus của Manchester United. “Cậu đang ở đâu đấy?”

“Ở Bernabéu!”

“Có gì ở đó thế?”

“Tôi sắp đấu với Real Madrid. Là trận lượt đi vòng knock-out Champions League ấy mà!”

“Thế à, được rồi, chúc may mắn nhé! Để mai tớ sẽ gọi lại.”

Không thể tin nổi! Một trong những trận đấu lớn nhất trên thế giới, thế mà cậu ấy không mảy may bận tâm! Nhưng đó là điều mà tôi yêu quý ở Rutherford. Tôi thấy như thế lại hay. Sau tất cả, thì cuộc đời đâu chỉ có mỗi bóng đá.

Chuyện trường lớp chen vào giữa sự nghiệp bóng ban của tôi, nhưng tôi biết là mình phải học, và tôi thực sự đã học rất chăm chỉ. Tôi tìm thấy niềm vui trong việc đọc lại những bản nhận xét môn thể dục của tôi trong thời gian học ở Burnside, để xem tôi đã nắm bắt được những điều cơ bản của bóng đá trong những ngày đầu như thế nào. “Michael đã thể hiện được sự am tường về chiến thuật trong các trận đấu... dù luôn tranh chấp quyết liệt, song em luôn làm điều đó một cách fair play,” bản nhận xét môn thể dục năm 1993 viết. Hai mươi lăm năm sau, tôi hy vọng là mình không thay đổi.

Không thể nói quãng thời gian của tôi ở trường học là lãng phí, nhưng thực tế thì tham vọng duy nhất của tôi luôn là trở thành một cầu thủ bóng đá. Các tuyển trạch viên thường xuyên theo dõi tôi và mời tôi tới tập luyện ở các câu lạc bộ của họ. Khi 9 tuổi, tôi tới thử sức ở Middlesbrough, chỉ đơn giản là vì một vài trong số các bạn tôi ở Boyza, Kev Urwin và Paul Docherty, đã tới đó. Docherty là một cầu thủ nhỏ con nhưng rất tuyệt vời, dường như kỹ năng nào anh ấy cũng có - sút chân phải, chân trái, xoay kiểu Cruyff, đảo chân, kiểu kiểu thế. Tôi chỉ chơi duy nhất một trận cho Boro, ở vị trí trung phong, và khi các bạn tôi không được giữ lại, thì khoảng một năm sau, khi 12 tuổi, tôi cũng rời đi. Tôi vẫn còn giữ bức hình chụp tôi đứng bên cạnh Gary Pallister bên ngoài lối vào dành cho các cầu thủ của sân Ayresome Park hồi năm 1992. Tôi bắt đầu tìm kiếm cơ hội thử sức ở các câu lạc bộ khác. Tôi từng “làm khách” của Stoke ở giải Ayr vào năm 13 tuổi. Tôi cũng bắt đầu dành thời gian cho West Ham United, ban đầu là tới đó vào các kỳ nghỉ vừa để tập luyện vừa để làm quen với đội ngũ cũng như cách tổ chức của đội bóng, và sau đó là đều đặn mỗi tháng một lần. Tôi cũng chơi cho cả các câu lạc bộ khác nữa. Rồi Newcastle muốn ký hợp đồng với tôi. Với tư cách là một cổ động viên của Newcastle, tôi đã phấn khích thực sự khi giám đốc Trung tâm năng khiếu của Newcastle, John Carver, mời tôi cùng đội U14 của họ dự Milk Cup được tổ chức ở Bắc Ireland. Khi tôi đồng ý, John đi thẳng vào một cửa hàng của câu lạc bộ ở sân St James’, lôi khỏi giá một bộ tracksuit và đưa luôn cho tôi. “Đây,” John nói, “Thế là đủ để cậu có thể bắt đầu rồi.” Nhớ lại chuyện đó, tôi và mẹ vẫn còn thấy buồn cười. Vấn đề là cái quần trông như dở hơi, nó quá dài; khi về lại Wallsend, mẹ phải mang nó ra tiệm để sửa lại, và bà mất cả gia tài vì việc đó. Nhưng dù thế nào, thì đúng sinh nhật thứ 13, ngày 28 tháng 7 năm 1994, trong bộ quần áo đã được sửa lại cho vừa, tôi cũng đã có mặt ở St James’ để trình diện. Peter Beardsley xuống và mang cho tôi một cái bánh. Tôi rất cảm kích trước hành động ấy của ông, nhưng thực sự là tôi ghét chuyến đi của mình. Giải đấu năm đó rất chất lượng, toàn những cầu thủ hàng đầu, nhưng ngoài sân thì mọi chuyện khá khó khăn. Một đêm nọ ở Portrush, các huấn luyện viên của Newcastle phát cho chúng tôi ít tiền và bảo chúng tôi ra chỗ mấy cái máy đánh bạc mà chơi. Một số cầu thủ tách ra đi riêng, họ mượn một chiếc Mini từ một cô gái mà họ vừa quen, và lái nó vòng vòng quanh chỗ đỗ xe. Chuyến đi năm đó toàn những chuyện như thế, vì vậy mặc dù rất yêu Newcastle United, tôi biết rằng tôi không thể ký hợp đồng với họ được. Không khí ở đó không thể sánh được với ở West Ham, tôi nói thật.

“Con thích Newcastle nhưng con sẽ không tới đó đâu,” tôi nói với mẹ khi về nhà. Trái tim tôi chưa bao giờ dành cho Newcastle. Họ không có đội dự bị, nên tôi cũng không hình dung nổi con đường vươn lên đội Một sẽ là như thế nào. Có một thứ mà mọi đứa trẻ đều mong muốn khi tới một câu lạc bộ mới. Cơ hội. Bất chấp tình yêu lớn dành cho đội bóng và niềm vui mà tôi từng có ở Gallowgate, tôi đơn giản là không cảm thấy thoải mái ở Newcastle. Tôi muốn tới West Ham hơn, và mỗi ngày thì mong muốn này lại lớn thêm một chút.

Một năm sau, tôi trở lại Milk Cup, lần này là trong thành phần của West Ham; bên cạnh tôi có thêm Mark Maley và Steven Watson, những người bạn ở Boyza. Suốt giải đó, tôi được bố trí ở chung phòng với Shaun Byrne. Chúng tôi trở thành một đôi bạn thân trong nhiều năm. Thật tình cờ, đối thủ của chúng tôi chính là Newcastle. Trước trận đấu, huấn luyện viên làm tất cả những gì có thể để chắc chắn là chúng tôi sẽ vào trận với quyết tâm cao nhất. “Được rồi, chúng ta có ba chàng Geordie (biệt danh dành cho dân vùng Tyneside) ở đây, mà chúng ta lại sắp đấu với Newcastle, thế nên tốt nhất là các cậu hãy đá đấm cho ngon lành và giành chiến thắng vì ba anh chàng này nhé,” ông nói trước toàn đội. Trận ấy, chúng tôi đánh bại Newcastle 5-1.

Lúc nào cũng phải vui. Trong phần lớn thời thơ ấu của tôi, bóng đá đồng nghĩa với niềm vui. Tôi luôn thấy hứng thú cả trong thi đấu lẫn lúc tập luyện, cả khi chơi hay lúc mắc sai sót. Chưa bao giờ tôi nói những câu kiểu, “Tối nay mình có phải tập luyện không nhỉ?” Tôi mong chờ từng phút từng giây để được gặp những người bạn của mình ở Boyza. Chủ đề chính trong các câu chuyện trong thời gian nghỉ ở Western của chúng tôi luôn là Boyza và bóng đá. “Đội cậu sẽ gặp đội nào? Trận đấu bắt đầu từ mấy giờ? Tôi sẽ tới xem và cổ vũ.” Chơi bóng vì tình yêu cũng có thể là lý do khiến tôi cảm thấy trường năng khiếu của FA ở Lilleshall không phải là nơi dành cho mình. Chỗ đó giống như một cái nhà kính chỉ dành cho những đứa trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu. Khi 14 tuổi, tôi được chọn thử việc ở Doncaster và sau đó có cơ hội tham gia hai kỳ thi tuyển khác để vào Lilleshall. Nơi bố mẹ chở tôi tới là một khu xa xôi ở vùng nông thôn Shropshire; ngay khi vừa xuống xe, và nhìn thấy xung quanh toàn những đứa trẻ cực kỳ lanh lợi, tôi lập tức cảm thấy lạc lõng. Những đứa trẻ khác trông già dặn hơn hẳn so với tôi, dường như đứa nào cũng hiểu rõ cách thế giới vận hành, nắm vững những bí quyết để thành công trong bóng đá, và tường tận chu trình của cả hệ thống. Tôi thì vẫn ngây ngô, nói đúng hơn là chưa đủ trưởng thành. Suy cho cùng tôi chỉ là một thằng nhóc tháng 7, một đứa sinh muộn, luôn là đứa nhỏ tuổi nhất trong nhóm tuổi. Quá nhỏ thì đúng hơn. Trong thời gian ở Lilleshall, tôi thường nằm dài trên giường trong tâm trạng đau khổ, với một suy nghĩ duy nhất, Liệu ta có muốn mất hai năm ở nơi này, nơi không có mẹ, bố và Graeme, không có cả bạn bè?

Tôi khát khao trở thành một cầu thủ, nhưng luôn cần phải cảm thấy thoải mái, cảm thấy mình được chăm sóc, cảm thấy an toàn. Đó là lý do tôi chơi không tốt trong cuộc thi tuyển, trái tim tôi có dành cho nó đâu mà. Tôi tự cho phép mình đứng ngoài lề trận đấu. Bố mẹ hôm đó cũng tới xem, và ngay lập tức bố hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau một hay hai năm gì đó, mẹ kể lại cho tôi những gì bố đã nói, “Có chuyện gì với Michael vậy nhỉ? Anh không nghĩ là nó muốn ở lại chỗ này.” Khi đang trên xe trở về nhà, tôi nói hết những gì mình nghĩ, “Bố ơi, con không muốn ở lại Lilleshall. Con không thể nào sống xa nhà được. Con không muốn phải ở đây những hai năm. Nên con sẽ không chơi đâu.” Thực tế thì tất cả những gì mà bố mẹ quan tâm là tôi có thấy hạnh phúc hay không. Nên bố nói, “Được rồi, con trai, nếu con không thích tới đó thì con không phải tới.” “Mẹ à, con không muốn xa nhà.” “Thế thì con sẽ không cần phải làm điều đó,” mẹ trả lời. Sau hai trận đấu, FA chọn được 30 cầu thủ, và sau đó sẽ rút lại còn 20 người.

Hai tuần sau, tôi nhận được một lá thư từ FA, họ nói rằng tôi thuộc diện chờ, nghĩa là có cơ hội được chọn trong trường hợp có cầu thủ nào đó rút lui. Tuyệt vời! Tôi có lẽ là đứa trẻ đầu tiên trong lịch sử Lilleshall ăn mừng vì không được chọn. Tôi cho đó là một vụ tẩu thoát may mắn. Tôi biết là nếu tới Lilleshall, tôi sẽ không trụ lại được mấy hồi. Ở Lilleshall, bố mẹ có nhiều cuộc trò chuyện bên đường biên với các phụ huynh khác, những người thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm cho con họ vào trường. Trong số những đứa tham gia thi tuyển, có những đứa như thể được sinh ra cho môi trường “nhà kính” ở Lilleshall vậy. Tôi thì không. Tôi chưa sẵn sàng. Ở Lilleshall, tôi cảm thấy dễ tổn thương. Trong tờ giới thiệu chương trình của Lilleshall, tôi thấy có cả Alan Smith. Alan và tôi sau này trở thành đồng đội ở Manchester United, nhưng từ lúc đó thì chúng tôi đã biết nhau rất rõ, do cùng đi theo một con đường là từ trung học Doncaster tới các cuộc thi tuyển của Lilleshall. Tôi lúc nào cũng nghĩ, Chà, Smudger (tên gọi khác của Alan) có vẻ sẵn sàng cho Lilleshall rồi, hắn ta biết làm thế nào để tồn tại ở đây. Thế nhưng được vài tháng thì Alan cũng rút lui. Khi nghe được tin này, tôi càng thêm tin tưởng là mình đã né được một viên đạn.

Và khi tôi nhìn ngắm những bức ảnh chụp tất cả các cầu thủ chuyên nghiệp thành công trên tường ở Boyza, tôi càng tin rằng giấc mơ trở thành cầu thủ của tôi là trong tầm với cho dẫu tôi bị “trượt” khỏi Lilleshall. Sâu thẳm trong lòng, tôi luôn nghĩ rằng tôi có thể trở thành cầu thủ. Đấy là sự ương ngạnh, là sức mạnh nội tâm mà tôi lúc nào cũng tự cảm thấy trong mình. Tôi sẽ không bao giờ nói ra miệng rằng tôi giỏi hơn cầu thủ này hay cầu thủ kia, nhưng tôi sẽ nghĩ như thế. Khi nhìn vào những cầu thủ đã vượt qua được kỳ thi tuyển của Lilleshall, tôi tự nhủ rằng, Mình sẽ trụ lại lâu hơn tất cả bọn họ.

Vì thế, tôi hoàn toàn thoải mái với việc tới hết câu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác, vừa tập luyện vừa ngó nghiêng, không hề chịu áp lực phải lập tức gắn bó với bất kỳ câu lạc bộ nào. West Ham là một trong những câu lạc bộ đầu tiên mà tôi tìm tới, và tôi rất nhanh chóng cảm thấy có sự kết nối với đội bóng. Nhưng rồi có thêm nhiều tuyển trạch viên từ các đội bóng khác tìm đến ngôi nhà mới của chúng tôi ở Wallsend (chúng tôi chuyển tới đó vào năm tôi 11 tuổi). Tính ra, đã có tới mười hai câu lạc bộ liên hệ với tôi, và tất cả đều muốn tôi ký hợp đồng với họ. “Tất cả tùy thuộc vào con thôi, con trai,” bố nói. “Đấy là môi trường của con, là công việc của con. Nên hãy chọn lấy một câu lạc bộ làm con cảm thấy thoải mái nhất.” Bởi thế, tôi dành trọn tất cả những kỳ nghỉ khi 13 và 14 tuổi để tìm hiểu các câu lạc bộ. Vào mùa hè năm 14 tuổi, tôi dành sáu tuần ở tám chỗ khác nhau. Tôi cũng tới Arsenal, nhưng vì họ nhét tôi vào một cái ký túc xá to đùng nên tôi thấy mất thiện cảm. Dẫu vậy thì tôi cũng có cơ hội được xem Ian Wright tập luyện. Lúc đó tôi chỉ biết há mồm thôi. Tôi còn tới Crystal Palace, rồi sau đó mẹ đưa tôi xuống Chelsea bằng tàu. Chelsea cử một chiếc minibus tới đón và đưa chúng tôi đến Harlington, sân tập của câu lạc bộ ở thời điểm đó, gần Heathrow. Tôi xuống xe và tới thẳng chỗ chơi bóng, nhưng vấn đề là họ bắt mẹ ngồi trong xe hàng tiếng đồng hồ. Họ quên mất bà, tôi nghĩ thế. Gwyn Williams, người phụ trách các cầu thủ trẻ của Chelsea, cuối cùng cũng để bà ra ngoài. Mẹ trách, “Tôi đã mất bao công để tới được đây, vậy mà...” Khi tôi trở lại phòng thay đồ thì chiếc đồng hồ của tôi đã bốc hơi. Nói thật là tôi chỉ muốn rời khỏi đó càng sớm càng tốt. “Bọn họ có thèm chuyền bóng cho con đâu,” tôi kể với bố khi chúng tôi về tới nhà. Ở Chelsea, tôi cảm thấy như mình là một kẻ ngoài cuộc. Những ấn tượng đầu tiên thường đọng lại rất lâu, mà tôi thì không thấy thoải mái chút nào ở Chelsea. “Con gào lên xin bóng suốt, nhưng không được ai chuyền cho quả nào.” Chelsea nhanh chóng bị gạt ra khỏi danh sách.

Thực tế thì cuối cùng tôi đã chọn West Ham. Đó là đội bóng đã khiến cho tôi cảm thấy thoải mái và dễ chịu nhất, chưa kể họ còn chơi thứ bóng đúng kiểu tôi ưa thích, kiểu West Ham, theo cách gọi của họ. “Họ chơi bóng đá hai chạm bố ạ, không phải bóng dài. Hai chạm, 1-2, chuyền và di chuyển.” Tôi lấy West Ham làm chuẩn để đánh giá tất cả các câu lạc bộ khác, đơn giản vì tôi quá thích họ. Tôi còn tới thử sức ở Oldham, Swindon, Forest, Everton, Sunderland, Wimbledon. Nhưng sau một đợt thử việc ở đội U14 của Coventry vào tháng 4-1995, tôi nói với bố, “Con thấy thế là quá đủ rồi.” Trái tim tôi đã dành trọn cho West Ham. Năm 14 tuổi, tôi vẫn tập luyện ở khu đông bắc. Từ 14 đến 16 tuổi, tôi tham gia một trung tâm năng khiếu độc lập, Chester-le-Street, được lập ra để dành cho những cầu thủ không thể đến tập luyện ở câu lạc bộ hằng tuần vì quá xa. Các huấn luyện viên của tôi lúc đó là Kenny Wharton, người từng chơi bóng và sau đó làm huấn luyện viên ở học viện của Newcastle, và Vince Hutton, người sau này sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đối với tôi; ông đón và chở tôi tới Boro mỗi tuần. Cả hai đều là những huấn luyện viên tuyệt vời, tôi học được rất nhiều từ họ. Dưới sự kèm cặp của những huấn luyện viên nghiêm túc như Wharton và Hutton, tôi chơi đủ loại bóng đá - sân 11, sân 5, đá giải - trong khi vẫn tiếp tục thói quen chơi bóng trên đường phố với bạn bè. Sự đa dạng ấy là rất quan trọng cho quá trình phát triển của tôi. Thật tuyệt khi được mặc sức thử nghiệm và khám phá mà không phải lo lắng về việc bị đánh giá. Thời điểm đó cũng là lúc tôi hình thành thói quen sử dụng những kỹ năng hay những động tác mới. Giống như là tập trung học một ngôn ngữ mà ta muốn sử dụng thuần thục. Cái này có hiệu quả không? Tôi thường tự hỏi mình như thế, và sau đó thử luôn. Tôi dám thử những chiêu trò và động tác mới, đấy là nhờ có những lúc chơi bóng với bạn bè. Trong các trận đấu trên sân trường, tôi thường chọn về phe của đội có ít người hơn hay là có những cầu thủ tệ hơn, xem đó là cách để tạo ra thêm thách thức cho mình. Đấy là những lúc tôi cảm thấy thoải mái nhất.

Nhưng nói thế nào thì West Ham lúc ấy vẫn là mối bận tâm lớn nhất của tôi. Người tư vấn nghề nghiệp cho tôi ở trung tâm hướng nghiệp Tyneside Careers, ông Allott, khuyên tôi chọn một trong số các trường trung học địa phương ở Redbridge và Barking khi tôi Nam tiến. Tôi rất trân trọng lời khuyên của ông, nhưng đi học đại học chưa bao giờ có trong suy nghĩ của tôi. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là Học viện Bóng đá West Ham.