T
ôi luôn cảm thấy buồn cười khi nhớ lại cảnh thằng bé 14 tuổi là tôi, vẫn còn rất ngây ngô và đầy nhút nhát, tay ôm đôi giày, lòng đầy mơ ước, lập cập trèo lên tàu ở Ga trung tâm để hướng về West Ham trong những kỳ nghỉ ngắn thường chỉ kéo dài trong từ hai, ba ngày tới một tuần. Ở trên tàu, tôi lặp đi lặp lại một chu trình quen thuộc: tới quầy buffet mua một gói khoai tây chiên, một hộp sữa, rồi sau đó mới trở lại chỗ nhóm bạn cùng đi. Ban đầu nhóm chúng tôi có khoảng sáu hay bảy người, và trông chừng chúng tôi là những tuyển trạch viên phụ trách khu vực Đông Bắc - Dave Mooney và Bill Gibbs. Mỗi khi nhớ lại những ngày đó, tôi thường nghĩ về việc tất cả bọn tôi đều lên tàu với nhiều hy vọng, và thật buồn là không phải ai cũng theo đuổi được tới cùng giấc mơ của mình. Thời điểm đó West Ham cũng muốn ký hợp đồng với Mark Maley; Maley cũng là người từ Boyza như tôi và từng giữ băng đội trưởng của đội tuyển học sinh quốc gia và đội U18 Anh. Mark có xuống thử sức ở West Ham một vài lần, nhưng cuối cùng lại chọn Sunderland. Anh chơi một vài trận cho đội Một, trước khi sự nghiệp bị cắt ngang bởi một tai nạn. Tôi nhớ anh từng là một hậu vệ rất cừ, và cũng nhớ cả cảm giác rùng mình khi nhận được tin dữ là anh không thể chơi bóng được nữa sau khi bị người đồng đội John Oster vô tình bắn vào mắt bằng súng hơi. Mark và tôi từng có rất nhiều kỷ niệm đẹp nên thông tin ấy với tôi là một cú sốc.
Khi tàu vào tới ga King’s Cross, luôn có một người đàn ông tuyệt vời tên Jimmy Hampson chờ sẵn. Chức danh của Hampson ở West Ham là Trưởng Bộ phận Phát triển bóng đá trẻ, nhưng thực tế thì ông giống như một người bạn, lúc nào cũng khiến chúng tôi cảm thấy được chào đón. Tôi yêu hình ảnh ông đứng chờ chúng tôi ở cuối sân ga. Sự tốt bụng của ông khiến những người bên cạnh cảm thấy ấm lòng. Một người con của khu Đông (East End) đúng chất. Tôi lúc nào cũng mong được ngồi trong xe của ông, nghe ông nói liên hồi khi chúng tôi phóng như bay qua những con phố hẹp để tới được Chadwell Heath, sân tập của West Ham. Ông dường như rành rẽ mọi lối tắt ở khu Đông London. Trong khi lái xe, ông không ngừng nói về West Ham, và cùng với sự ấm áp cũng như nụ cười thân thiện của mình, ông khiến tôi yêu đội bóng lúc nào không hay.
Ban đầu, tôi chỉ tới theo dạng thử việc. “Cứ xuống đó xem các cậu có thích không,” đại diện của West Ham nói. Tôi nhanh chóng nhận ra West Ham tuyệt vời tới thế nào, đặc biệt là sau khi gặp được những người như Jimmy Hampson và Tony Carr, Giám đốc Học viện. Tôi cảm nhận được sự chân thành của họ, và biết rằng họ sẽ luôn đối xử công bằng với mình. Ở thời điểm đó, huấn luyện đội U14 là Brian Nichols. Ông thân thiện tới mức khiến tôi cảm thấy thoải mái ngay lập tức. Ngay từ đầu, tôi đã cảm thấy mình thực sự là một phần của gia đình lớn West Ham, và bởi thế luôn chơi bóng với nụ cười thường trực trên môi.
Chưa có câu lạc bộ nào khiến tôi cảm thấy thích thú nhiều như West Ham. Tôi cũng nắm được phần nào lịch sử của đội bóng sau khi nghe bố kể về Bobby Moore và mối liên hệ giữa West Ham với chức vô địch World Cup 1966 của đội tuyển Anh. Tôi cũng nhanh chóng được biết về truyền thống chơi bóng sử dụng những pha ban bật ở tốc độ cao của West Ham được đặt nền tảng bởi Ron Greenwood và John Lyall, những cái tên không ngừng được các huấn luyện viên ở Chadwell Heath nhắc tới. Tôi cảm thấy con người ở câu lạc bộ ai cũng thật thà, từ những người phụ nữ ở khu lễ tân, các cô thư ký, những nhân viên ở canteen cho tới đội ngũ huấn luyện viên. Shirley và Dawn ở canteen là những người quý như... vàng. Shirley luôn đảm bảo rằng trong khẩu phần của tôi có thêm một lát bánh mì, chính những chi tiết nhỏ nhặt như thế lại làm cho tôi thấy rằng mọi người ở câu lạc bộ thực sự đều quan tâm tới người khác. Ian Jackson, người phụ trách sân bãi, cũng là người thường đón tôi từ khách sạn tới chỗ tập luyện, không khi nào ngừng cười. Ông qua đời ít năm sau đó, mọi người đều cảm thấy rất, rất tiếc thương, nhất là khi ông đâu đã già, chỉ mới có 38 tuổi.
Những người phụ trách trang phục - Stan Burke, Pete Williams và Eddie Gillam - cũng góp phần khiến cho bầu không khí gia đình ở West Ham trở nên dễ cảm nhận hơn bằng sự tận tình của họ. Jimmy Frith, một trong các huấn luyện viên ở học viện, người đã gắn bó với nơi này trong nhiều năm, lúc nào cũng có mặt để quan sát mọi người tập luyện và đưa ra những lời khuyên. “Đừng di chuyển, con trai!” -ông thường nói sau khi chuyền bóng. Ngoài ra trong đại gia đình West Ham còn có “Tel”, một người đàn ông gặp bất lợi về thể chất. Tel thường đuổi mọi người chạy khắp canteen chỉ để kể một câu chuyện... đùa mà anh ấy vừa mới nghĩ ra.
West Ham đã đối xử tuyệt vời với tôi, và điều đó là cực kỳ có ý nghĩa, bởi tôi phải thừa nhận rằng bản thân đã rất lo lắng trong lần đầu tới câu lạc bộ. Đấy là lần đầu tiên tôi phải sống xa gia đình, phải tự xoay xở và hòa nhập với một môi trường hoàn toàn mới. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chứng minh được năng lực chơi bóng của mình, và rằng đội bóng sẽ đánh giá tôi hằng ngày qua những gì tôi làm cả trong lẫn ngoài sân bóng. Tôi không cảm thấy sợ hãi, bởi vì khát khao được trở thành cầu thủ chuyên nghiệp của tôi đủ lớn để đè bẹp bất kỳ nỗi sợ hãi nào, nhưng chắc chắn là cách West Ham chào đón tôi luôn có một vai trò rất quan trọng.
Chadwell Heath trong thời gian tôi ở West Ham luôn có những con người cực kỳ thú vị: Ian Bishop, Trevor Morley, Les Sealey, Don Hutchison, John Moncur, Iain Dowie, John Hartson, Ian Wright, Slaven Bilic, Neil Ruddock, Paul Kitson, Trevor Sinclair, Stuart Pearce và Steve Lomas. Tôi nhớ có một lần sau khi kết thúc một buổi tập, tôi nghe Hutchison và vị huấn luyện viên thể lực, Tony Strudwick, tranh cãi về việc tăng cường thể lực ở trong phòng gym.
“Trên máy chèo thì tớ ngon lành hơn cậu,” Hutch nói.
“Đùa hả?” Strudders trả lời. “Ờ, thế thì thi thử xem sao, chèo 1.500m nhé.” Cả hai đều tỏ ra rất nghiêm túc.
Bình thường thì chúng tôi sẽ có mặt lúc 9 giờ 30 sáng để 10 giờ có thể bắt đầu tập luyện. Nhưng vào ngày tiếp theo, tất cả mọi người đều có mặt từ lúc 9 giờ. Tin tức về cuộc so tài đã bay khắp học viện. Bọn chúng tôi chen chúc nhau trong phòng gym bé xíu, ở đó Hutch và Strudders đã xếp sẵn hai chiếc mái chèo theo thế đấu đầu với nhau. Cuộc thi sẽ kéo dài trong 10 phút và người chiến thắng là người chèo được xa hơn. “Bắt đầu!” Hutch xuất phát tốt và nhanh chóng vượt lên dẫn trước, nhưng mắc lỗi và đánh mất lợi thế. Strudders thì cứ từ từ mà tiến. Hutch ngã lăn ra sàn. Cả phòng gym cười rộ lên, ai nấy lăn ra mà gào.
Chadwell Heath là thế đấy - chính những con người ở đó đã tạo nên bầu không khí tuyệt vời của nó. Tôi thường phải đề phòng Julian Dicks, người khét tiếng với lối chơi rắn. Tôi từng chết khiếp anh ấy. Thời đấy khắc nghiệt lắm, va chạm là thường xuyên, chứ không phải như bây giờ. Các cầu thủ tắc bóng rầm rầm, và tranh cãi thì nổ ra ở khắp nơi. Bạn phải luôn biết cách tự bảo vệ mình, phải cứng thì mới tồn tại được. Ở đội bóng có văn hóa nhậu nhẹt. “Tới thẳng quán rượu nhé,” tôi thường nghe một số cầu thủ lớn tuổi nói với nhau sau khi kết thúc các buổi tập. Nhưng cũng phải nói rằng chính những cầu thủ đó trong các buổi tập đã rất chăm chỉ và nghiêm túc. Tất nhiên, những người không đủ mạnh mẽ hay không phù hợp sẽ không tồn tại được lâu. Tôi yêu tất cả những thứ hay ho diễn ra hằng ngày ở West Ham như thế, nhưng trên hết, cách đội bóng duy trì triết lý bóng đá đẹp một cách xuyên suốt, và yêu niềm tin mà huấn luyện viên Harry Redknapp dành cho các cầu thủ trẻ.
Trong những kỳ nghỉ, tôi thường được luyện tập cùng với đội trẻ, và với một học sinh ở tuổi 13, 14 như tôi thì đó là một đặc ân lớn. Những cầu thủ ấy đều lớn tuổi hơn tôi, họ hoàn toàn có thể ngó lơ, hoặc từ chối tôi, theo kiểu, Một thằng nhóc tới từ phương Bắc đang làm cái gì trong các buổi tập của chúng ta thế này? Nhưng họ không làm thế, họ luôn cố gắng giúp tôi cảm thấy là một phần của đội. Một vài cầu thủ trong đội đã 18 tuổi, nên tôi thực sự thấy căng thẳng khi ở chung phòng thay đồ với họ. Bởi vậy, tôi quyết định giữ im lặng, và thật chịu khó lắng nghe để có thể học hỏi được càng nhiều càng tốt. Trong đội trẻ những năm đó có Frank Lampard và Rio Ferdinand. Trong cả sự nghiệp của mình, tôi luôn cố gắng để có thể được sánh ngang với những cầu thủ giỏi nhất, như Frank và Rio. Ở thời điểm đó, Lee Hodges được đánh giá là ngôi sao sáng của đội. Lee là người Plaistow (một quận của khu West Ham), rất khéo léo, tôi thường quan sát các buổi tập của anh và cố gắng học hỏi thật nhiều từ anh. Frank ở một trình độ hoàn toàn khác. Tôi rất ngưỡng mộ kỹ thuật của anh ấy, đặc biệt là những cú volley, và tôi cũng ấn tượng với thái độ tập luyện của anh ấy. Một số cầu thủ tập luyện không đến nơi đến chốn, họ thường chỉ muốn tập cho xong. Những cầu thủ ấy thường không thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp được, giả sử có thành cầu thủ thì sự nghiệp cũng chẳng có gì nổi bật. Frank thì khác, anh luôn tự tập thêm. Anh không ngừng thúc đẩy bản thân, và đó chính là lý do anh có thể vươn tới đẳng cấp cao nhất. Tôi thường tập thêm với bố của Frank, ông Frank Senior, người lúc đó là trợ lý cho Harry. Frank Senior lúc nào cũng có mặt ở đó, thúc ép chúng tôi tập thêm, có thể là tập sút, chạy, chống đẩy hay gập bụng.
Về cơ bản thì tôi cố gắng bắt chước Frank, người ngay từ đầu đã được số phận “quy hoạch” thành cầu thủ đội Một. Tôi nhớ khi thấy anh mua một đôi giày đinh nhọn để tập chạy nước rút, tôi cũng làm theo, và cố gắng tập chạy với anh càng nhiều càng tốt. Các cổ động viên West Ham thi thoảng lại chỉ trích Frank, họ mỉa mai, “Hắn ta có mặt trong đội chẳng qua là nhờ bố.” Điều đó là không công bằng. Nếu đội bóng chơi không tốt, dường như Frank luôn là người duy nhất bị mang ra làm vật tế thần. Những cổ động viên từng không ưa Frank hẳn đã nhận ra mình sai lầm thế nào khi chứng kiến phần còn lại của sự nghiệp của anh ấy. Anh đã chứng minh được anh giỏi đến thế nào. Tôi thì tin rằng chính những lời mỉa mai kiểu anh “dựa hơi” bố đã khiến cho Frank trở nên mạnh mẽ và quyết tâm vươn tới đỉnh cao hơn.
Frank là nguồn cảm hứng đầu tiên của tôi, nhưng khi lớn hơn một chút, tôi thần tượng Rio hơn. Tính cách của Rio biến anh thành một người rất dễ gần - anh luôn ồn ào, đầy tự tin, và lúc nào cũng tỏ ra yêu đời. Bóng đá trở thành một trò chơi đơn giản với anh. Rio rất tự tin khi có bóng, và còn rất ồn ào nữa. Anh có thú vui xỏ háng người khác rồi làm ầm lên. Tôi yêu tinh thần không biết sợ của anh. Trong lần đầu tiên được chơi cho đội Một, anh chẳng ngần ngại dẫn bóng từ hàng thủ lên, phô diễn đủ kiểu kỹ năng, động tác giả, và còn rê qua cả tiền đạo của đối phương. Đúng là Rio đôi khi gặp rắc rối với sự liều lĩnh của mình, nhưng với những cầu thủ còn đang ở đội trẻ như chúng tôi thì những gì anh làm quả thật là không thể tin nổi. Anh ấy chính là người truyền cảm hứng. Chúng tôi thường nói với nhau, “Anh ấy làm cú đó kiểu gì ấy nhỉ? Anh ấy lấy đâu ra tự tin mà làm được thế!?” Mà cũng không nhiều huấn luyện viên cho phép điều đó, đúng không? Nhưng Harry Redknapp khác các huấn luyện viên bình thường khác. Tôi biết là cũng có đôi lúc ông ấy cảnh cáo Rio một chút, chủ yếu để anh không đi quá giới hạn. Không có nhiều trung vệ có được khả năng xử lý bóng tốt như Rio, phải xem đó là một phẩm chất cần được nuôi dưỡng, thay vì là một thói quen xấu phải gạt bỏ. May mắn cho Rio, anh đã tới đúng chỗ.
Một điều khác về Rio Ferdinand không nhiều người biết nhưng tôi được chứng kiến tận mắt, đó là anh có thể là kẻ thua cuộc tồi tệ nhất mà tôi từng biết. Dù là head tennis[1], trò chơi điện tử hay bóng đá - anh ấy luôn tỏ ra háo thắng, không ngừng hò hét và gào thét. Ai chẳng muốn có một người như thế ở bên mình suốt tuần! Tôi không nghĩ là ngày nay có nhiều đứa trẻ tập luyện chăm chỉ được như Frank và Rio thời họ còn ở Chadwell Heath. Ở đó chúng tôi có một nhà thi đấu trong nhà cũ với một sân bóng đá năm người có hai cầu môn được sơn trắng lên tường. Chúng tôi hay chơi trò chơi các chữ D - Ds, đặt theo hình dáng của hai khu vực cầu môn. Bạn có hai chạm - từ chữ D này tới chữ D kia - và trái bóng không thể dừng chết trong khu vực chữ D trước cầu môn. Nếu nó bật ra ngoài chữ D, bạn mất một điểm. Để chơi được trò đó, bạn cần kỹ thuật, kỹ thuật và rất nhiều kỹ thuật, chân trái, chân phải, demi-volley, đá cuộn… Ai không có kỹ thuật tốt sẽ nhanh chóng “lòi đuôi” và bị mọi người cười nhạo. Chúng tôi thường chơi Ds hàng giờ sau các buổi tập, cứ đá tới rồi lại đá lui, như một cách để mài giũa kỹ năng chuyền bóng của mình. Ngay cả bây giờ, trong các cuộc nói chuyện, tôi và Rio vẫn thường nhắc tới Ds và cười.
[1] Môn thể thao kết hợp giữa bóng đá và bóng bàn - luật như bóng bàn, chỉ khác là người chơi dùng đầu thay vợt và bóng đá thay bóng bàn - ND.
Ngay từ giây phút đầu tiên đặt chân tới West Ham, tôi đã biết rằng đội bóng đang sở hữu một cầu thủ sẽ trở thành ngôi sao - Joe Cole. Ai cũng nói về anh ấy. Trong trận đấu đầu tiên cho đội U14 của tôi, gặp Norwich, Joe cũng có trong đội hình. Cậu ấy trẻ hơn tôi hai tháng nhưng học kém hẳn một lớp. Joe có những pha đi bóng hay những động tác giả mà tôi chưa từng thấy trên các sân bóng, nhất là một sân bóng lầy lội như sân ở Chadwell Heath. Trận đó tôi lập được một cú đúp, nhưng tất cả mọi người dường như đều choáng ngợp trước năng lực và sự táo bạo của Joe. Các đội bóng khác thường cố gắng cho Joe ăn đòn, bởi vì cậu ấy có đủ cách để bỡn cợt họ. Cậu ấy có thể gẩy bóng qua đầu người này, rồi đảo chân trước mặt người kia. Cậu ấy là người đầu tiên tôi gặp thực sự chơi bóng bằng kỹ năng. Những cú vê bóng bằng gầm giày của cậu ấy là tuyệt hảo. Cậu ấy luôn biết phải điều chỉnh tư thế thân mình như thế nào để có thể kiểm soát trái bóng, biết phải dùng bao nhiêu sức mạnh để có thể che chắn nó. Cậu ấy có kiểu che bóng thường thấy ở Paul Gascoigne, nhưng so với Gazza, cậu ấy có nhiều chiêu trò hơn. Joe còn có một biệt tài là mượn lực từ các hậu vệ đối phương để bật ra và thoát đi. Ở khoản này thì cậu ấy khác hoàn toàn với tôi. Tôi chưa bao giờ dám va chạm với các hậu vệ. Tôi luôn cố gắng duy trì một khoảng cách từ 1 tới 2m với đối thủ. Wow, thằng nhóc này là ai vậy? Đó là suy nghĩ của tôi trong lần đầu tiên nhìn thấy Joe. Cậu ấy giỏi một cách khó tin. Không ngừng khủng bố các hậu vệ trong những buổi tập. Một vài năm sau, khi đã được lên đội Một, Joe thường phải nhận những cú đá không nương chân từ Stuart Pearce, nhưng mỗi lần bị như thế, cậu ấy lại nhanh chóng bật dậy. Joe cũng có kêu ca về việc đó, nhưng không vì thế mà cậu ấy né tránh va chạm. Đó là thời điểm Pearce đã bước vào giai đoạn cuối của sự nghiệp, ông đáng sợ có tiếng - không phải tự dưng người ta đặt cho ông biệt danh “Kẻ thần kinh” - và những gì mà ông làm với Joe có thể xem như một lời cảnh cáo, “Đừng có bất kính với ta. Chú không thể làm điều đó với ta được.” Tôi cũng có cảm giác là ông đang muốn thử thách Joe, theo kiểu, “Tới đi! Nếu chú ngon như người ta nói, thì hãy quay lại đây chơi tiếp.” Joe quay lại thật. Cậu ấy chỉ đơn giản là đam mê chơi bóng, và thường được Harry động viên, “Cố lên, Joe. Tuyệt vời, cứ ra sân và chơi thôi, con trai.” Joe gia nhập Lilleshall nên tôi không thường xuyên có cơ hội thấy cậu ấy ở West Ham trong những năm tháng đầu tiên, khi chúng tôi đang leo từng bậc trên hệ thống đào tạo của câu lạc bộ. Joe xuất sắc tới mức người ta miễn cho cậu ấy không phải tham gia đội trẻ mà nhảy thẳng lên đội Một luôn. Cậu ấy thâu hết ánh sáng về mình, và với tôi thì đó như một đặc ân. Tôi có thể tiếp tục theo đuổi hành trình lên đội Một theo cách của mình.
Tôi hình dung được bản thân sẽ đi hết hành trình ấy như thế nào, và sau một sự kiện đặc biệt xảy ra vào năm 14 tuổi, thì tôi hoàn toàn tin tưởng rằng tương lai của tôi chính là ở West Ham. Một tối nọ, Jimmy Hampson thả tôi ở ga King’s Cross để tôi có thể bắt chuyến tàu 8 giờ tối về Newcastle. Khi tôi đang ngồi trên tàu đợi xuất phát thì nhận được thông báo, tất cả các chuyến tàu chạy về phía Bắc đều bị hoãn. Tôi đang mắc kẹt ở London, một mình, và bắt đầu cảm thấy hơi lo lắng. Tôi gọi cho bố mẹ bằng điện thoại công cộng, sau đó họ gọi cho Jimmy, lúc ấy đã về gần tới nhà.
“Cái gì cơ? Michael vẫn còn ở trên sân ga King’s Cross à? Bảo nó đứng dưới cái đồng hồ. Cứ đứng đấy. Tôi sẽ tới ngay.”
Bố mẹ có chút hoảng loạn, bởi vì dù thế nào thì lúc ấy tôi cũng chỉ có một mình, điện thoại di động như bây giờ thì chưa có, nên họ chỉ còn biết chờ tôi liên lạc bằng điện thoại công cộng. Khi Jimmy trở lại được chỗ tôi ở sân ga, đồng hồ đã chỉ 9 giờ rưỡi.
“Được rồi Michael. Chú biết sáng mai con phải tới trường. Nhưng đừng lo. Chú sẽ lái xe đưa con về.” Rồi ông lại nói, “Cái này là cô Sue làm cho con.” Vợ của Jimmy đã chuẩn bị cho tôi ít sandwich và đồ ăn vặt. Jimmy gọi cho bố mẹ tôi để trấn an hai người. “Đừng lo lắng về Michael nữa nhé. Tôi đón được thằng bé rồi. Đừng có vội tắt bếp nha!”
Chúng tôi chạy ra khỏi London, đi theo đường A1, và về tới Newcastle lúc 3 giờ sáng. Gần 500km! Ông vào nhà, nói đôi câu với bố mẹ, uống một tách trà, rồi nhanh chóng trở lại xe.
“Tôi phải về ngay để còn kịp làm việc,” ông giải thích. “Tôi có một cuộc họp ở Upton Park vào lúc 8 giờ sáng.” Mẹ, bố và tôi chỉ còn biết nhìn nhau khi Jimmy bước ra xe để bắt đầu một hành trình dài trở về nhà. Lại gần 500km nữa. Jimmy không cho rằng chuyện đó có gì to tát. Ông cũng không nghĩ tới việc cứ nhét đại tôi vào một khách sạn nào đó ở King’s Cross, để tôi qua đêm ở đấy và sáng hôm sau bắt một chuyến tàu sớm về nhà. Ông sẵn sàng lái xe gần 1.000km, hầu như không được chợp mắt tí nào trước khi đi làm, bởi vì ông quan tâm và muốn điều tốt nhất cho tôi. Jimmy không muốn tôi bị lỡ buổi học ở trường, và ông ấy cũng không muốn bố mẹ tôi, hay tôi, phải lo lắng. Ông ấy xem tôi như con. Khoảnh khắc ông lái xe đi là lúc tôi nói với bố mẹ, “Bố mẹ biết gì không? Con đã chọn West Ham. Mọi người ở đó quan tâm tới con lắm.”
Sau khi ký hợp đồng hai năm cho giai đoạn từ 14-16 tuổi, quyết định tiếp theo sẽ là quyết định quan trọng nhất. Không còn là chuyện chơi nữa, tôi sẽ phải chọn được một nơi phù hợp để bắt đầu chơi bóng toàn thời gian. Thời điểm đó, bố mẹ nhận được rất nhiều đề nghị hấp dẫn từ các đội bóng khác. Một số bạn của tôi ở Boyza cũng được đề nghị những hợp đồng theo kiểu sau hai năm YTS (chương trình đào tạo trẻ) là ba năm chuyên nghiệp.
“Sao con không nhận được đề nghị nào kiểu ấy nhỉ?” - tôi hỏi. Bố mẹ không bao giờ nói cho tôi chi tiết của những đề nghị đó, bởi vì hai người muốn lựa chọn của tôi phải dựa trên những lý do liên quan tới bóng đá. Bố mẹ không bao giờ nghĩ cho mình, ngay cả khi có một số câu lạc bộ sẵn sàng hỗ trợ tài chính để hai người mua đứt căn nhà, có giá khoảng 50.000 bảng. Tôi thực sự đánh giá rất cao việc bố mẹ cố cưỡng lại những đề nghị như thế, bởi vì thực tế là hai người không có nhiều tiền, và hai người hoàn toàn có quyền chấp nhận hay từ chối những lời đề nghị. Nếu bố mẹ có làm thế thì tôi cũng sẽ không bao giờ trách cứ gì hai người, bởi vì những đề nghị mà họ nhận được thực sự mang tính đổi đời. Bố đi công tác cũng nhiều, nên ông hoàn toàn có thể nhận thêm việc làm tuyển trạch viên cho một trong các đội bóng muốn có tôi. Khi tôi lớn lên và bây giờ cũng đã làm cha làm mẹ rồi, tôi hiểu rõ hơn bao giờ hết tầm vóc của quyết định đó đối với họ là lớn lao đến thế nào; thực ra thì với bố mẹ, đó không hề là quyết định của họ.
“Con thích chỗ nào nhất?” Bố mẹ hỏi tôi, nhấn mạnh tiếng “con”.
“West Ham ạ,” tôi trả lời dứt khoát.
Bố mẹ cũng vui khi tôi chọn West Ham, bởi vì hai người đã tận mắt chứng kiến sự quan tâm mà Jimmy dành cho tôi. “Thằng bé sẽ nhận được sự chăm sóc tốt,” mẹ nói.
Sau khi hoàn thành chương trình học, ở tuổi 15 gần sang 16, tôi ký hợp đồng YTS có thời hạn hai năm, vớimức lương 42,50 bảng mỗi tuần. Không lâu sau khi ký hợp đồng, tôi gọi điện cho Tony Carr. “Cháu vừa được triệu tập vào đội tuyển Boys Club quốc gia tham dự một giải đấu ở Blackpool. Liệu cháu có thể đi được không?” Đấy là vinh dự quốc gia đầu tiên của tôi. Giải đấu này được tổ chức hoàn toàn tách bạch với hệ thống chuyên nghiệp. Đội tuyển là tập hợp của tất cả các Boys Clubs trên toàn quốc, và bởi vì tôi chơi cho đội U16 của Wallshend nên tôi đủ tư cách để tham gia. Nhưng đấy là điều... bất thường. Tony giải thích với tôi là giải đấu diễn ra trùng với thời gian tập huấn đầu mùa, West Ham đã có kế hoạch dự Dallas Cup.
“Nhưng cái này quan trọng với con lắm, Tony à.”
Ông ấy hiểu rằng tôi khao khát được tham gia, bởi tôi cảm thấy đó chính là cách lý tưởng để khép lại những năm tháng chơi bóng cho Boys’ Club của mình. Cuối cùng thì Tony đồng ý. Một lần nữa, West Ham lại là đội bóng quan tâm tới từng thành viên nhiều tới thế nào.
Tôi còn phải trải qua một khóa tuyển chọn ở Lilleshall ít lâu trước khi chính thức gia nhập West Ham. Tôi tự bắt tàu đi Lilleshall, còn mẹ, bố và Lisa, bạn gái của tôi lúc đó và vợ tôi bây giờ, thì lái xe tới để xem. Lisa đã luôn ở bên tôi ngay từ đầu. Cô ấy chính là chỗ dựa, là bệ đỡ nâng bước cho tôi trong suốt hành trình sự nghiệp. Dù cũng như tôi, cô ấy lúc đó còn trẻ con và nhìn đời ngây ngô lắm.
Khi trận đấu kết thúc, một lái xe được West Ham cử tới sẽ đón tôi tại điểm hẹn định trước là bãi đỗ xe của một quán rượu địa phương. Bố mẹ mang hết vali của tôi xuống và người lái xe ấy chuyển chúng từ cốp xe của bố sang xe của đội bóng. Tâm trạng của mẹ lúc ấy hẳn phải kinh khủng lắm. Đứa con trai của bà đang chuẩn bị rời xa gia đình, mãi mãi. Thời điểm đó, phải vài tuần nữa tôi mới sang tuổi 16. Bỗng dưng, nỗi sợ hãi phút cuối xâm chiếm. Tôi hoảng loạn. “Tại sao bố mẹ lại không cho chúng con tới Coventry?” - tôi hỏi. Một trong các cậu bạn của tôi ở Boyza, Steve Watson, đang chuẩn bị tới Coventry; đội bóng này cũng có đề nghị tôi ký hợp đồng. Tới Coventry là một lựa chọn dễ dàng hơn nhiều cho tôi vì ở đó có Steve, một gương mặt thân quen.
“Mẹ, con không muốn tới West Ham đâu.” Một câu nói thừa thãi. Tôi biết là tôi sẽ ổn thôi, thực sự đấy, nên sau khi khóc lóc chút đỉnh, tôi leo lên chiếc xe của West Ham rồi quay lại nhìn bố mẹ và Lisa khi mọi người cũng đang leo lên xe của mình. Người tài xế chở tôi tới gia đình mới của tôi ở Đại lộ Salisbury, Barking, nơi tôi sẽ sống cùng ông bà Pam và Danny Fletcher, một cặp vợ chồng già đang sống một mình sau khi con cái rời nhà hết. Tối hôm đó, tôi gọi về cho bố mẹ. Họ vừa phải trải qua một hành trình về nhà khủng khiếp, mẹ và Lisa thi nhau khóc cạn nước mắt.
“Mẹ à, ở đây tuyệt lắm, con rất thích.”
“Michael, con không biết con vừa gây ra cái gì cho mẹ đâu. Đó chính là chuyến đi kinh khủng nhất trong đời mẹ, con trai à.”
“Đây là nơi mà con muốn thuộc về. Chỉ là, việc phải rời xa bố mẹ khiến con cảm thấy tồi tệ.”
Tôi nói với họ là tôi ổn. Thực tế, tôi háo hức được bắt đầu cuộc sống mới của mình. Hầu hết các cầu thủ U17 và U18 đều đang ở Dallas cả, nên tôi bắt đầu bằng cách ổn định cuộc sống ở nhà của Pam và Danny. Cách chúng tôi bốn nhà là một gia đình khác cũng nhận chăm sóc những đứa trẻ từ West Ham; Richard Garcia, một cậu bạn người Australia, cũng chuyển tới đó vào cùng ngày với tôi. Nhìn lại thì thấy buồn cười, chứ lúc ấy, tôi không thể hình dung được là tôi sẽ có một tình bạn thân thiết và kéo dài với một người có cá tính hoàn toàn khác mình, và tình bạn ấy được hình thành trên chuyến xe bus số 62 đưa chúng tôi tới Chadwell Heath. Rich và tôi quấn quýt với nhau cả ngày trong suốt bảy năm tiếp theo. Tôi từng nghĩ tôi tới từ Newcastle là xa lắm rồi, nhưng cậu ấy còn tới từ tận Perth! Cả Rich lẫn tôi đều rất nhớ gia đình, và có lẽ cũng vì thế mà chúng tôi nhanh chóng trở nên thân thiết, như anh em ruột thịt, và vẫn thân thiết cho tới tận bây giờ. Gia đình của cậu ấy, Janelle, hai đứa con tuyệt vời Zac và Lauren, cũng như là gia đình của tôi. Cả nhà đã trở lại Australia rồi, tôi lúc nào cũng nhớ họ. Chúng tôi vẫn gặp nhau khoảng hai năm một lần, bất cứ khi nào thu xếp được. Mối liên hệ giữa chúng tôi là thực sự đặc biệt. Chúng tôi đã trải qua rất nhiều chuyện với nhau, thậm chí còn cùng có mặt ở World Cup 2010. Ít nhất thì cậu ấy cũng được ra sân. Tôi thường bị những người có cá tính mạnh thu hút, mà Rich thì là một người rất dữ dội. Trong khi tôi lúc nào cũng điềm tĩnh, Rich cứ sồn sồn hết cả lên. Chỉ riêng chuyện quần áo cũng có thể khiến cậu ta nổi xung với tất cả mọi người. Rich để tóc dài, là fan cứng của những ban nhạc như Green Day, Red Hot Chili Peppers và Pearl Jam. “Cái gì thế?!” - tôi thường hỏi, một cách hơi thô lỗ, mỗi khi cậu ta bật nhạc lên. Nhưng nghe nhiều thành... quen, bây giờ tôi lại đâm ra thích nhạc của cậu ta, ít ra một số bài trong đó. Gần đây tôi có tới xem một buổi biểu diễn của Chili Peppers - đó chính là đêm nhạc tuyệt vời nhất mà tôi từng được xem. Vào ngày tập đầu tiên, khi tất cả các cầu thủ đã trở lại, Rich xộc thẳng vào phòng thay đồ và ngồi phịch xuống. Quy trình với các cầu thủ trẻ là mỗi người sẽ tự nhận quần áo của mình từ người phụ trách trang phục. Nhưng cái gã người Úc láo toét bạn tôi thì cứ ngồi đó với kiểu đầu bù xù đầy khiêu khích của mình và hỏi đầy xấc xược, “Được rồi, thế thằng nào sẽ đi lấy quần áo về đây cho tao?” Tất cả những người có mặt, đặc biệt là những người năm hai như Anthony Henry, Gary “Trigger” Alexander, Alex “Meatball” O’Reilly và Danny Fernley, đều quay lại nhìn Rich và lập tức buông lời rủa xả. “Mày nghĩ mày là bố tướng hả thằng kia?” Thế rồi mọi người bất ngờ cùng nhau lăn ra cười. Bầu không khí ngượng ngập ban đầu đã hoàn toàn bị xua tan.
Phòng thay đồ của đội trẻ là một nơi đặc biệt. Một trong những ký ức đẹp đẽ nhất của tôi là khi chúng tôi ngồi đó và “chém gió” tán loạn đủ chuyện trên trời dưới biển. Cảm giác giữa chúng tôi lúc ấy chẳng còn chút khoảng cách nào. Chúng tôi cũng bày ra đủ trò để quậy. Một ngày nọ, Craig Etherington, người có biệt danh là “Ugaz”, bị chúng tôi lột truồng rồi nhét vào một cái thùng bằng kim loại có thể nhìn xuyên qua được. Chúng tôi quấn chặt cái thùng bằng tất cả những cuộn băng dính thó được từ phòng y tế, sau đó hò nhau đẩy nó tới canteen. Tôi vẫn nhớ như in gương mặt của Danny Fernley khi anh quay đi, cố giấu sự khoái trá của mình.
Nhưng không phải ký ức nào cũng toàn tiếng cười. Tôi nhớ là trong năm đầu tiên chơi theo diện YTS, đội trẻ chúng tôi có đấu với Luton một trận ở một giải đấu diễn ra vào buổi tối, và trận ấy tôi chơi khá thường. Trận ấy bố có xuống xem. Sau trận, ông lái xe đưa chúng tôi đi đâu đó tôi không còn nhớ rõ, chỉ nhớ là ông bất ngờ hỏi, “Cái biển kia ghi gì vậy con trai?”
“Sao mà con biết được hả bố, nó cách xa cả dặm thế kia mà.”
Bố không nói thêm gì cả, nhưng sau này tôi phát hiện ra, ông đã nói với mẹ là, “Có gì đó không ổn với thằng Michael, nó không đọc được chữ nào trên cái biển hiệu dù cái biển ấy ở ngay sát xe. Mắt nó có vấn đề rồi.” Mẹ biết là bà không thể nói gì với tôi, vì tôi sẽ nói ngay là, “Con ổn mà, con sẽ không đi kiểm tra mắt đâu.” Thế nên, bà gọi thẳng cho Trưởng Bộ phận Y tế của câu lạc bộ là John Green và nói với ông ấy rằng, “Có gì đó không ổn với mắt của Michael.” Ông ấy kéo tôi lại, “Michael, chú vừa nói chuyện điện thoại với mẹ cháu.”
“Chú sao cơ?!” Tôi gọi lại cho mẹ ngay khi có thể. “Mẹ, mẹ gọi cho bác sĩ đội con làm gì?” Con là người tự lập. Con có thể tự lo cho bản thân, tôi nghĩ. Nhưng cuối cùng thì câu lạc bộ cũng bắt tôi phải đi kiểm tra mắt; hóa ra mắt tôi kém tới mức gọi là mù cũng không quá. Trong vòng ba tháng, thị lực của tôi giảm sút rõ rệt, buộc tôi phải bắt đầu mang kính áp tròng. Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên đeo kính áp tròng, ôi Chúa ơi, bây giờ thì tôi không thể làm gì mà thiếu chúng được nữa. Tôi có thể chuẩn bị bữa sáng mà không cần kính, nhưng lái xe thì không thể nào. Trước khi đeo kính, khi nhìn sang phần sân đối diện, tôi chẳng thấy gì ngoài những khoảng mờ mờ, nên đôi lúc tôi chuyền bóng theo cảm tính vì nghĩ rằng cầu thủ mà tôi định chuyền đang ở vị trí đó.
West Ham lo hết cho tôi. “Chúng tôi sẽ lo cho cháu,” Tony Carr nói. “Chúng tôi có trách nhiệm với cháu và gia đình.” Khi tôi có thời gian nghĩ về những người đã giúp đỡ tôi trong sự nghiệp, Tony Carr chắc chắn là một trong những cái tên đầu tiên nảy ra trong đầu. Trong số 23 tuyển thủ Anh dự World Cup 2010 ở Nam Phi, có bảy người nợ Tony một món nợ ân tình: tôi, Frank, Rio, Joe, Jermain Defoe, Glen Johnson và John Terry, người có một thời gian ngắn tập luyện ở West Ham khi còn là một cậu bé.
Tony luôn có tầm nhìn xa về sự phát triển của chúng tôi. Thực tế thì ông ấy và Jimmy không chắc chắn 100% về việc có nên nhận tôi hay không, bởi vì có một giai đoạn, lúc 14 hay 15 tuổi gì đó, cơ thể phát triển nhanh tới mức tôi không thể nào theo kịp. Giai đoạn ấy tôi lúc nào cũng sợ rằng cơ thể mình sẽ không phát triển như mong muốn và hủy hoại sự nghiệp của tôi ngay khi nó còn chưa bắt đầu. Tôi tập luyện rất tệ, người lúc nào cũng yếu đuối, và khả năng phối hợp vận động là gần như bằng không. Tôi cũng gặp nhiều khó khăn trong di chuyển bởi những vấn đề liên quan tới đầu gối.
“Con đuối quá,” tôi nói với bố mẹ. “Con không biết cái gì đang xảy ra với con nữa. Con không thể nào chơi bóng được.” Các huấn luyện viên ở West Ham khi nhìn thấy tình trạng của tôi như thế, có thể đã đặt ra với nhau nhiều câu hỏi, đại loại như, “Liệu Carrick có thể chơi bóng được hay không?” Tony không biết là tôi có thoát ra được khỏi giai đoạn đó hay không. Nhưng nếu nhìn vào cách ông đối xử với tôi thì tôi sẽ không tài nào nhận ra được những nghi ngờ đó trong ông. Tony lúc nào cũng hỗ trợ và động viên tôi hết mức. Tôi biết rằng ông nhìn tôi như là một cầu thủ mà ông có nghĩa vụ phải rèn luyện để vào được đội Một, và tới một ngày nào đó bán đi, nhưng tôi cũng biết là ông còn nhìn tôi như một con người.
Tony biết làm thế nào để giữ cho chúng tôi sung sức. Mỗi buổi sáng thứ Hai, tất cả các học viên diện YTS - cả năm một lẫn năm hai - được vào đội trẻ đều phải hoàn thành một bài tập chạy được gọi là “The Mile” (Dặm đường). Cả bọn được yêu cầu “nuốt trôi” năm vòng quanh sân vận động, một cách hữu hiệu để kéo chúng tôi lại với thực tại sau ngày Chủ nhật ăn chơi phè phỡn. Toàn bộ xuất phát cùng lúc, ai cũng cố gắng chạy nhanh nhất có thể. Có một số cầu thủ rất mê món “The Mile” này. Danny Bartley, một trung phong rất cao lớn, luôn là người xuất phát đầu tiên, và nhanh chóng vượt lên, bỏ cách phần còn lại một quãng dài. Danny khỏe lắm, nên việc anh ấy sau này trở thành người huấn luyện thể lực cho Không lực Hoàng gia không khiến ai thấy ngạc nhiên. Tôi không gặp vấn đề gì với “The Mile”, thường kết thúc ở một vị trí trong top 5 hoặc top 6, đặc biệt là sau khi cơ thể của tôi đã tự tìm lại được sự cân bằng. Tony tuyệt đối tin tưởng vào “The Mile”. Đó là một phương pháp huấn luyện kiểu cũ, một phần để rèn thể lực, nhưng phần khác là để cho chúng tôi trở nên mạnh mẽ hơn. Tony chắc chắn không phải mẫu người cố tỏ ra dễ thương. Chúng tôi tập rất nhiều bài “di chuyển người thứ ba”, một trong những bài tập mà ông ưa thích nhất. Tony tổ chức các bài tập kiểm soát bóng, chuyền, chuyền, chuyền, rồi một người bất ngờ di chuyển từ phía sau. Những bài tập ấy của Tony dạy cho chúng tôi về cách di chuyển và kiểm soát thời gian - những yếu tố cơ bản mang tính sống còn.
Chúng tôi là lứa cuối cùng trước khi mô hình học viện bắt đầu, với những thay đổi to lớn trong cả hệ thống. Với hệ thống vận hành theo kiểu cũ, ta phải chịu khổ sở một chút thì mới mong thu được thành tựu. Điều đó dạy cho ta những giá trị, và mang tới cho ta thêm một chút hài lòng khi đã đạt được mục tiêu. Tony yêu cầu chúng tôi làm tất cả những công việc thường ngày, từ lau chùi các đôi giày, phòng thay đồ, tới thu gom quần áo bẩn. Ông kiểm soát rất chặt để đảm bảo rằng chúng tôi làm những việc đó một cách chỉn chu. Việc đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng với các cầu thủ trẻ, vì nó giữ cho chúng tôi ở đúng nơi đúng chỗ. Khi ở West Ham, tôi ý thức rất rõ về thứ bậc và tôi biết rằng mình phải nỗ lực hết mình để có thể vươn tới cấp độ tiếp theo. Đó là một bài học rất quan trọng, tôi thấy buồn là ngày nay nó đã mai một, thậm chí biến mất.
Cuộc đời và sự nghiệp của tôi chủ yếu xoay quanh tầm quan trọng của thái độ tôn trọng. Tôi không chỉ học được cách tôn trọng từ bố mẹ và Boys Club, tôi còn học từ Tony nữa. Trong thời gian còn ở đội trẻ của West Ham, nếu tôi đang ở trong phòng tập và có một cầu thủ thuộc đội Một bước vào, tôi sẽ lập tức nhường đường, thậm chí rời hẳn khỏi phòng tập. Họ có quyền ưu tiên. Còn tôi thì chưa ở đẳng cấp của họ. Đấy là điều mà tôi phải nỗ lực giành được. Văn hóa ấy tạo động lực cho tất cả mọi người: khi tôi ở đội trẻ, tôi là người lau giày, nhưng khi tôi lên được đội dự bị, sẽ có ai đó lau giày cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ thấy trân trọng những nỗ lực to lớn mà tôi phải bỏ ra để có thể vươn tới đỉnh cao. Bóng đá bây giờ không còn những cái đấy nữa, do đó trở nên nghèo nàn hơn. Luật lệ ở các học viện đã thay đổi, người ta nói là các cầu thủ trẻ không cần phải (hay không thể) làm được những công việc như xưa. Thế nhưng rõ ràng là vẫn cần phải có cách để các cầu thủ trẻ hiểu rằng họ phải bước từng bước một trên bậc thang của sự nghiệp thay vì cứ thế lướt lên mà không cần quan tâm tới việc lên như thế nào. Cuộc sống của các cầu thủ trẻ thời nay dễ dàng hơn rất nhiều, họ không còn phải đối mặt với môi trường khắc nghiệt như thời chúng tôi nữa. Để có thể lên tới đỉnh, tôi đã phải nỗ lực kinh khủng. Đầu tiên tôi lau giày cho Tim Breaker, rồi sau đó là Steve Potts, và tiếp theo là Ian Pearce; Pearce chủ động “săn” tôi bởi vì cậu chàng có trách nhiệm đánh giày cho anh trước đó làm không tốt. Tôi là người gọn gàng, đôi khi cầu kỳ quá mức, và các đôi giày qua tay tôi lúc nào cũng phải sạch bong. Lau giày cho Pottsy khá đơn giản vì anh ấy chỉ đi cỡ 6, nên không mất thời gian lắm.
Trong khi đó, Pearcey có một đôi Puma Kings cũ mèm to tổ chảng (cỡ 12); đôi đó nặng phải cả tấn nên lau rất mất thời gian, nhưng bao giờ tôi cũng làm đâu ra đấy. Pearcey hứa sẽ tip cho tôi vào Giáng sinh, thế nhưng cuối cùng lại làm lơ. Thật là bê bối, đúng không? Pearcey - nếu anh đang đọc những dòng này, thì hãy nhớ là tôi chưa quên đâu!
Chúng tôi thường lau bóng và giày trong một bể nước lớn ngoài trời; vào những ngày trời lạnh, các ngón tay tôi như kiểu muốn rớt ra ngoài. Bàn chải thì bẩn. Khi lau giày, phải cẩn thận không được để nước ngấm hai bên, nếu không thì chả có cách nào làm cho nó khô trở lại. Lau giày cũng cần kỹ thuật đấy. Tôi có một tí OCD (rối loạn ám ảnh cưỡng chế), thực ra là hơn một tí. Tôi yêu cái cảm giác chạm tay vào các đôi giày. Puma Kings là đỉnh nhất, rất mềm, rất đẳng cấp. Hồi 14 tuổi tôi từng van nài bố mua cho tôi một đôi, đâu có biết là chỉ một đôi thôi cũng đủ khiến cả nhà... khánh kiệt. Hồi còn bé tôi bị ám ảnh với các đôi giày, tôi có thể nói chính xác cầu thủ nào đi loại giày gì. Tôi thích những đôi Predator kiểu cũ, không phải là mẫu đầu tiên to đùng cục mịch mà là mẫu ngay sau đó. Tôi cũng thích những đôi Specialis của Umbro mà Alan Shearer và Michael Owen thường mang. Ở West Ham chúng tôi lại được phát các đôi Pony, rồi sau đó là Fila, nên kiến thức của tôi về giày dép thời đó phong phú lắm.
Ngoài chuyện lau giày, chúng tôi còn làm tất cả những việc vặt dành cho đội học việc khác. Oải nhất là việc di chuyển những khung thành to đùng và nặng trịch trước và sau các buổi tập của đội Một. Thời đó khung thành còn rất nặng chứ không nhẹ nhàng, xinh xắn như bây giờ nên bê chúng chỉ muốn gãy lưng. Đã thế chúng lại còn lạnh ngắt. Mỗi khi có một trái bóng văng đi đâu đó, Tony sẽ lùa tất cả lũ YTS chúng tôi đi tìm. Có đôi lúc khi tôi đang ngồi thư giãn ở canteen sau khi đã hoàn thành hết mọi công việc được giao, mãn nguyện nhìn ngắm đôi Reebo Classic mới mua, thì nghe tiếng Tony gào lên, “Đi ra ngoài và tìm mấy trái bóng đi!” Nếu hôm đó vào mùa đông thì đôi giày mới của tôi coi như xong. Chuyện tôi bị lôi đi khiêng khung thành giữa mùa đông lạnh giá, hai tay như muốn rời ra khỏi người còn bộ quần áo mới thì lem luốc hết cả là điều bình thường như cân đường hộp sữa. Tony là mẫu hà khắc, nhưng cũng bởi thế, ông dạy cho chúng tôi nhiều bài học giá trị về việc làm cái gì ra cái đấy. Nếu có ai đó không chịu làm việc, chính những đồng đội của anh ta sẽ “xử” anh ta trước tiên. Một số cầu thủ hay tranh thủ trở lại khu Nam London để chơi. Ok thôi, nhưng nếu họ trễ tàu hay xe buýt, thì “phần thưởng” cho họ sẽ là thêm một giờ lao động nữa. Đó là bài học về trách nhiệm và khả năng phối hợp nhóm. Không khoan nhượng, và lúc nào cũng phải chuẩn chỉ. Nhiệm vụ của một cầu thủ 16 tuổi theo diện YTS như tôi là lau dọn phòng thay đồ sau các trận đấu ở Upton Park. Mệt mỏi nhất là khi dọn phòng thay đồ của đội nhà, bởi vì các cầu thủ thường chẳng mấy khi tỏ ra vội vã. Tôi thường nghĩ thầm, Nhanh lên, làm ơn nhanh lên. Nếu trận đấu diễn ra vào buổi tối, tôi sẽ không kịp bắt chuyến tàu cuối cùng về Barking, mà sáng mai vẫn phải tới sớm để tập luyện, nên đấy thực sự là một thảm họa. Nhưng tôi nào được lựa chọn. Tôi cũng ý thức được vị trí của mình. Nếu được chọn, tôi sẽ chọn lau dọn phòng thay đồ của đội khách, bởi vì các cầu thủ của họ thường rời đi rất nhanh, nên chúng tôi cũng có thể kết thúc công việc rất sớm. Tôi cũng thích được nhìn ngắm các siêu sao. Trước các trận đấu, tôi thường đứng trong hành lang với khoảng ba hay bốn đứa khác trong nhóm YTS. Mỗi khi Arsenal tới thi đấu, tôi thường tranh thủ nhìn Tony Adams hay Patrick Vieira, và nhìn không chớp mắt. Adams luôn nổi bật so với những người khác, bởi vì từ anh toát ra một thần thái rất khó diễn tả. Sau một trận đấu, khi đang cố lách người để bước qua hành lang chật hẹp, anh ấy bỗng nhiên nhìn chúng tôi rồi gật đầu và hỏi, “Ổn cả chứ, các chàng trai?! Cảm ơn nhé!” Anh ấy đã làm việc mà chẳng ai có thể bắt anh phải làm, riêng việc biết rằng anh ấy có để ý tới mình cũng đủ khiến chúng tôi ngất ngây. Riêng tôi thì mãi mới trấn tĩnh được; tôi cũng chưa nghe ai gọi mình là “chap” (chàng trai) trước đây, nên khi từ ấy thoát ra khỏi miệng Tony Adams, nghe nó thật ngầu. Khi Chelsea tới, tôi sẽ nhìn ngắm Gianfranco Zola, Ruud Gullit và Gianluca Vialli và ngưỡng mộ khí chất của họ. Các trận đấu với Chelsea có thể trở nên đáng sợ, bởi vì bầu không khí ở Green Street, ngay ngoài Upton Park Tube, thường rất nóng. Không ít lần tôi phải cắm mặt đi một mạch tới sân trong khi xung quanh người ta đánh nhau hay quậy phá tưng bừng. Có những lần khác, vì tôi vẫn mang đồng phục của West Ham sau một trận đấu cho đội trẻ ở Chadwell Heath, nên để tới được sân, tôi phải vừa đi vừa ngó nghiêng đề phòng. Chuyện gì cũng có thể xảy ra trong một trận đấu giữa West Ham và Chelsea. Chính điều đó lại khiến cho tôi trở nên mạnh mẽ hơn, mang tới cho tôi thêm một chút chất đường phố.
Nhưng đội bóng mà tôi sùng bái nhất vẫn phải là Manchester United, và chính Upton Park là nơi tôi bắt đầu phải lòng đội bóng này. Bất cứ khi nào West Ham chuẩn bị tiếp đón Manchester United, không khí xung quanh Upton Park luôn rộn ràng một cách khác biệt. Tôi thường nhìn ngắm Roy Keane, Gary Neville, David Beckham và Ryan Giggs rồi phân tích cách họ bước ra khỏi phòng thay đồ, xem liệu họ có nói câu gì không, hay họ chỉ tập trung vào trận đấu phía trước. Đó là cơ hội để tôi tự góp nhặt những kinh nghiệm để trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp hàng đầu như họ. Khi Manchester United tới đây thi đấu, các cầu thủ của họ thường diện vest, nên trông ai cũng thực sự rất bảnh. Nhưng với tôi, không gì có thể so sánh được với lần đầu tiên nhìn thấy Alex Ferguson. Cách ông bước xuống hành lang để hướng về đường hầm cũng như cách một vị tướng háo hức chuẩn bị bước vào trận chiến mà ông hoàn toàn tự tin là mình có thể giành chiến thắng. Từ lúc ấy tôi đã mơ về một ngày được chơi bóng dưới sự chỉ bảo của ông. Thực tế là tôi có mơ về việc được chơi bóng cho Manchester United thật. Lúc đó tôi mới 19 tuổi và vẫn đang dò dẫm tìm kiếm chỗ đứng ở West Ham. Trong giấc mơ ấy có Becks, có cả Gary Neville nữa, tất nhiên có cả tôi, và đội chúng tôi giành chức vô địch quốc gia. Một bằng chứng cho thấy những giấc mơ có thể trở thành hiện thực! Nhưng nói chung thì ở West Ham, chúng tôi không có nhiều thời gian để mà mơ mộng kiểu như thế, bởi vì ở đó, người ta xoay chúng tôi như chong chóng trong nỗ lực gò chúng tôi thành những cầu thủ chuyên nghiệp. Sự khác biệt giữa việc một tuần chỉ tập một hay hai lần cả ở trường lẫn ở Boys Club với việc chỉ vài tuần sau đó phải tập luyện hằng ngày, thậm chí hai buổi mỗi ngày, là không dễ vượt qua. Trong hai hay ba tháng đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự khó khăn để thích nghi với thay đổi đó. Nhưng thật may là một khi cơ thể đã quen được rồi thì mọi chuyện lại trở thành giống như thói quen. Có một số ngày thực sự tồi tệ, những ngày mà chúng tôi phải tập luyện quần quật cả ngày, nhưng cũng chính những ngày đó đã giúp định hình tôi với tư cách một cầu thủ. Chuyện tôi phải tập hai buổi mỗi ngày, mệt tới mức gần như ngủ gục trên xe buýt về nhà, nhưng sau đó vẫn phải tới xem một trận đấu của đội Một hay đội dự bị diễn ra thường xuyên.
West Ham thử thách chúng tôi cả về tinh thần lẫn thể chất. Nhiều khi, sau một trận đấu cho đội dự bị, tôi ngồi một mình trong phòng thay đồ và nghĩ, Đó là cơ hội của mình, thế mà mình lại thể hiện không tốt. Liệu mình có thể có cơ hội tiếp theo hay không? Mình có đủ giỏi không? Áp lực ở đây là không có giới hạn. Nhưng khi nhìn lại, tôi trân trọng tất cả những nỗi đau mà tôi đã phải trải qua, chúng đã tạo thành một nền tảng hoàn hảo cho sự nghiệp chuyên nghiệp của tôi.
Và nói gì thì nói, những ngày tháng trong đội trẻ đó cũng chính là những ngày tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời tôi. Mỗi khi có dịp nhìn lại, tôi đều cảm thấy rất thoải mái và vui vẻ. Ký ức về những người bạn và những trò điên rồ mà chúng tôi đã làm chắc chắn sẽ theo tôi tới hết cuộc đời. Tôi nhớ Danny Fernley, người cuối cùng lại theo đuổi sự nghiệp trong ngành xây dựng, bởi anh có một đam mê khó diễn tả với việc xâu kim người khác. Cứ sau mỗi lần thực hiện thành công một cú xâu kim như thế, anh lại thốt lên, vẻ đầy hối lỗi, “Úi! Xin lỗi nha!” Trong một trận đấu ở Chadwell Heath, Fernley xâu kim một cầu thủ ở khu vực ngay trước khu kỹ thuật. Cậu ta lại “Úi! Xin lỗi nha!” Sau khi đã chạy vòng qua cầu thủ kia, cậu ta bất ngờ quay lại nhìn các cầu thủ dự bị và... cười. Tony Carr lập tức nổi điên và thay cậu ta ra luôn. Peter Brabrook giúp Tony quản lý đội trẻ. Ông ấy là một người rất hay ho, nên rất được các cầu thủ chúng tôi yêu quý. Ông ấy thích tham gia trò đá ma với chúng tôi, và sẵn sàng xâu kim bất kỳ ai vào bất kỳ lúc nào. Ông ấy sử dụng tiếng lóng có vần cho mọi thứ, ngay cả cách gọi tên các cầu thủ và vị trí của từng người. Ví dụ khi ông ấy nói, “Michael ở trong cuộn xúc xích (sausage roll)”, thì phải hiểu là ông muốn nói tôi đang chơi ở khu vực trước vòng cấm của đối phương (the hole, đọc vần với roll), như một số 10. Tất cả các cầu thủ trong đội thường gọi tôi là “Spuggy” - tên của một nhân vật người Tyneside trong serie truyền hình Byker Grove. Nhưng Brabs đâu có hiểu được nguyên nhân đằng sau, nên ông cứ gọi tôi là “Boogie”. Brabs, ông quả xứng danh huyền thoại!
Phòng thay đồ của chúng tôi là một ổ quậy, ở đó, sau mỗi trận đấu, tôi lại nghe được đủ thứ chuyện từ các cầu thủ khác. Họ nói về tất cả những gì mà họ có thể nghĩ tới hay đã trải qua, từ cuộc sống trên đường phố, lũ con gái, những rắc rối - đó là một thế giới mà trước đó tôi không nghĩ là có tồn tại. Một vài trong số các cầu thủ năm hai có ô tô. Đúng rồi, là ô tô! Tôi thì thậm chí còn không có nổi một cái xe đạp. Trong khi chúng tôi lọ mọ đi bắt xe buýt, họ nhảy tót lên những chiếc Peugeot 306 cáu cạnh. Một lần nữa, việc phải chứng kiến những điều như thế đã cho tôi thêm động lực để cố gắng nhiều hơn.
Cầu thủ trẻ bọn tôi thường kiếm cớ để “dìm hàng” nhau, không với lý do này thì cũng lý do kia. Không hiểu làm cách nào mà tôi thoát được. Nhưng nhiều cầu thủ khác thì không, họ bị trêu chọc không ngừng vì bất kỳ lý do nào, có thể là trang phục của họ, tóc tai, vẻ ngoài, cái mũi lớn, cái cằm buồn cười, hoặc một chuyện gì đó liên quan tới bố hay mẹ của họ. Ai đó sẽ buông ra một nhận xét vu vơ, và Fernley sẽ nhanh chóng “tóm” lấy nó, “Không phải là cậu như thế thật đấy chứ?” Một ai đó sẽ trả lời, và những tiếng xì xào nổi lên từ đám đông. Fernley nhân cơ hội tung ra đòn tiếp theo, “Hắn nói thế về mẹ cậu mà cậu cũng chịu bỏ qua á, không thể nào.” Tiếng bấc ném qua, tiềng chì ném lại, sau mỗi lần ném, không khí lại ồn ào thêm một chút. Và trước khi bạn kịp nhận ra, đã có một cuộc tranh cãi dữ dội nổ ra rồi. Fernley cười như nắc nẻ, trong khi những người còn lại cũng đã trở nên rộn ràng hết cỡ.
Mỗi năm, chúng tôi lại tổ chức một trận đánh nhau ở trong phòng tập, năm nhất đấu với năm hai. Có năm, tôi phải đấu với Stephen Purches, một anh chàng người Ilford hiện đang làm huấn luyện viên ở Bournemouth. Tôi không phải là người thích đánh nhau, Purches cũng vậy, nhưng “luật” là “luật” và chúng tôi không có lựa chọn. Chúng tôi đối phó bằng cách giả vờ vật nhau thật, mồm miệng gào thét ầm ĩ nhưng tay chân thì tránh đụng phải nhau, tạo ra một cảnh tượng thực sự thảm hại. Thực chất thì những trận đánh như thế chỉ mang tính nghi thức thôi, chẳng có ai bị gì nghiêm trọng ngoại trừ đôi ba vết bầm tím ở chân hay ở tay. Đó chỉ là cách để những người năm hai cố gắng khẳng định vị thế của mình.
Đội trẻ West Ham là một đấu trường khắc nghiệt. Tôi không phải mẫu mềm yếu, cũng chưa bao giờ là kẻ ồn ào. Nhưng ở West Ham, chẳng ai có thể làm được việc là cứ thế ngồi đó và im như hến. Những kẻ không thể thoát ra khỏi vỏ ốc của mình sẽ không thể tồn tại, thế nên tôi buộc phải vượt qua sự nhút nhát của bản thân. Thời gian đầu, tôi từng có suy nghĩ rằng Thế này căng quá. Chắc mình phải về thôi. Tôi không nói với bất kỳ ai ở West Ham về suy nghĩ đó, nhưng tôi có nói với Lisa. Hồi ấy tôi không có điện thoại di động, nên chúng tôi toàn viết thư cho nhau, và trong các bức thư, tôi thường kể cho cô ấy nghe cuộc sống mới của tôi khắc nghiệt tới nhường nào. Mỗi lần nhìn thấy những lá thư của cô ấy trượt qua khe cửa là một lần tôi thấy phấn chấn hơn một chút. Lisa luôn cảm nhận được tôi cần cái gì, dù đó là cần được ở một mình, hay cần được hỗ trợ. Không ai hiểu tôi hơn cô ấy. Có một lần, tôi cảm thấy mình thực sự oải, nên đã viết thư cho bố mẹ, “Con muốn về nhà. Con ngán chỗ này lắm rồi.” Nhưng đó luôn chỉ là cảm xúc nhất thời, dù “nhất thời” ở đây có thể là một ngày, một tuần hay một tháng. Điều quan trọng là tôi luôn vượt qua được và không bao giờ từ bỏ. Tôi được thừa hưởng từ mẹ quyết tâm sắt đá và khát khao chống lại nghịch cảnh.
Tôi biết rằng cầu thủ như chúng tôi có cuộc sống rất ổn, nhưng con đường đến với bóng đá chuyên nghiệp thực sự rất dài và cần nhiều hy sinh. Phải sống xa nhà là điều khiến cho tôi bị tổn thương tinh thần nhiều nhất, nhưng chính điều đó lại tạo nên con người tôi như ngày hôm nay. Sau sáu tháng xa nhà, khi trở lại và gặp gỡ các bạn cùng trường cũ, tôi mới nhận ra mình đã trưởng thành lên nhiều như thế nào. West Ham đã rèn luyện tôi thành một người đàn ông thực thụ. Tôi đã phải tự ném mình vào thế giới thật, trong khi bạn bè ở Newcastle của tôi thì vẫn sống với gia đình, và dù có lên lớp Sáu thì thực ra vẫn chỉ là sống trong một phiên bản mở rộng của cuộc sống kiểu cũ.
Harry Redknapp luôn cố hết sức để có thể nói chuyện với bố mẹ tôi. Ông ấy là một người tuyệt vời, rất ồn ào và thân thiện, có thể nhớ hết tên của từng cầu thủ trẻ. Khi tôi 13 hay 14 gì đó, Harry thường nhờ ai đó đưa bọn cầu thủ trẻ chúng tôi vào phòng thay đồ sau một trận đấu của đội Một. “Vào đây chơi nào các cậu bé,” ông nói. Không hề có màn giới thiệu chính thức nào, chúng tôi chỉ đơn giản là cứ thế bước vào và cảm thấy mình được chào đón. Điều đó cũng nói lên hết về West Ham, về mối liên kết mạnh mẽ giữa những cầu thủ trẻ và đội Một. Bạn có thể cảm nhận được sự sung sướng, tự hào, thỏa mãn ở Harry và các thành viên trong ban huấn luyện khi nhìn thấy một cầu thủ trẻ vươn được lên đội Một. Tôi biết rằng ở West Ham, tôi sẽ có cơ hội, tất nhiên nếu tôi đủ giỏi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1998 sẽ là một ngày mà tôi không bao giờ quên, bởi hôm đó tôi đã thông báo với Harry và West Ham rằng tôi sẽ ký hợp đồng chuyên nghiệp với đội bóng. Tôi sẽ ký một hợp đồng ba năm từ ngày 28 tháng 7, là sinh nhật thứ 17 của tôi. Tôi vẫn đang giữ bản hợp đồng đó, chữ thì đã mờ đi rồi nhưng các con số thì tôi vẫn nhìn ra được. Lương cơ bản của tôi trong mùa giải 1998-99 là 400 bảng mỗi tuần, tăng lên thành 500 bảng trong mùa 1999-2000 và 600 bảng vào mùa 2000-01. West Ham sẽ trả thêm 700 bảng cho mỗi trận tôi được đá chính, và 350 bảng cho mỗi trận tôi vào sân từ ghế dự bị. Sau trận đấu trọn vẹn đầu tiên, tôi sẽ nhận được 2.500 bảng, và thêm 10.000 bảng nữa sau 10 lần đá chính. Hợp đồng của tôi cũng có điều khoản thưởng cho các trận thắng, mức thưởng tùy thuộc vào vị trí của West Ham trên bảng xếp hạng Premiership. Nếu chúng tôi xếp từ thứ 16 tới 18, tôi sẽ nhận 325 bảng cho mỗi trận thắng, từ thứ 11 tới 15 sẽ là 500 bảng, từ thứ 6 tới 10 sẽ là 650 bảng, từ thứ 2 tới thứ 5 sẽ là 800 bảng và nếu đứng đầu bảng thì con số sẽ là 950 bảng. Ở giải hạng Nhất, mức thưởng tối đa là 300 bảng, và nếu chúng tôi đứng ở vị trí thấp hơn vị trí thứ 13 thì sẽ chẳng có gì cả. Tôi cũng nhận được những khoản tiền khuyến khích khi tham gia giải FA Trẻ: vòng đầu tiên là 10 bảng, và sau đó là 15, 20 rồi 30 bảng. Tới vòng bán kết thì mỗi trận sẽ nhận từ 40 đến 50 bảng, và nếu vào được chung kết thì con số sẽ lên tới 100 bảng mỗi trận. Nhưng tiền bạc chưa bao giờ là động lực đối với tôi, và tới bây giờ vẫn vậy. Cơ hội tiến thêm những bước mới có ý nghĩa với tôi nhiều hơn, bây giờ tôi biết rằng mình sẽ có cơ hội.
Nếu vào lúc 11 giờ sáng ở Chadwell Heath có một trận đấu của đội trẻ, thì Harry và Frank bố sẽ cùng xem trong khoảng một tiếng đầu tiên trước khi đi vội tới Upton Park. Tất cả các đội bóng đều cảm nhận được sự kết nối. Chúng tôi chỉ có ba sân, sân cho đội Một, đội dự bị và đội trẻ, và cả ba đều nằm cạnh nhau. Hồi 1997, một ngày khi tôi đang tập luyện cùng với đội trẻ thì nghe Harry hét lên, “Tony, tôi cần một tiền vệ. Gửi sang bên này cho tôi một đứa đi.”
“Michael, sang bên kia đi.”
Thế là cuối cùng thì điều khao khát bấy lâu nay của tôi - được tập luyện cùng với đội Một - cũng đã tới. Tôi chắc chắn phải thể hiện rất tốt trước đó, vì sau này tôi được nghe kể là vào hôm ấy, Eyal Berkovic đã hỏi Tony tôi là ai, và Tony đã trả lời rằng tôi là người sẽ chiếm lấy vị trí của anh ấy vào một ngày nào đó. Chuyện đó khiến tôi thấy ngất ngây, bởi vì Berkovic là một cầu thủ tuyệt vời. Chỉ riêng việc anh ấy hỏi về tôi cũng đủ củng cố niềm tin của tôi về việc tôi có thể trở thành một thành viên của đội Một. Tôi quan sát Berkovic rất kỹ, cho tới khi anh ấy chuyển sang thi đấu cho Celtic. Tôi chỉ muốn học hỏi càng nhiều càng tốt. Tôi từng chơi bóng với nhiều cầu thủ giỏi hơn Berkovic, nhưng không phải ai cũng có sự nhạy cảm để thực hiện được những đường chọc khe thông minh như anh. Anh yêu nó, cái góc hẹp ơi là hẹp ấy, và cho tới thời điểm ấy thì đó có thể là cú chọc khe đẹp nhất mà tôi từng được chứng kiến. Vì tôi sinh nhật muộn, mà hợp đồng chuyên nghiệp chỉ bắt đầu có hiệu lực từ thời điểm tôi bước qua tuổi 17, nên tôi tiếp tục phải sống tằn tiện với khoản trợ cấp học việc chỉ vỏn vẹn 42,4 bảng trong vòng sáu tháng tiếp theo, sáu tháng dài nhất trong đời tôi. Nhưng dù sao thì tôi cũng không có nhu cầu tiêu tiền lắm, ngoài quần áo ra thì tôi chỉ mua thêm mấy cái CD của Craig David hay Usher thôi. Ở nhà của Pam và Danny, tôi chung phòng với Anthony Hudson, con trai của Alan Hudson, tiền vệ nổi tiếng từng khoác áo Chelsea, Stoke và Arsenal. Tôi sẽ không bao giờ quên được cảm giác bàng hoàng khi được Pam đánh thức vào nửa đêm ngày 16/12/1997 để thông báo tin dữ liên quan tới bố của Anthony. Ông Alan bị một chiếc xe đâm phải, và sau đó bị hôn mê trong một thời gian dài. Đó là một cú sốc rất nặng với Anthony. Nên bây giờ, khi tôi nhìn anh, một huấn luyện viên thành công, người suýt đưa New Zealand tới World Cup, tôi thực sự ngưỡng mộ cách mà anh vượt qua cú sốc ấy.
Sau một năm sống ở nhà Pam và Danny, tôi với Rich Garcia đột nhiên nảy ra ý tưởng tìm một chỗ cho riêng mình. Chúng tôi ngu ngốc tới mức nghĩ rằng mình đã trở thành những người đàn ông thực thụ và cứ thế sồn sồn hết cả lên. Thực tế là chúng tôi vẫn còn quá ngây thơ. Chúng tôi hỏi thuê một căn hộ ở Chadwell Heath, hy vọng sẽ có được chút tự do ở đấy. Nhưng khi Jimmy Hampson nghe nói về chuyện đó, ông đã nổi điên lên. Ông biết điều gì là tốt nhất cho chúng tôi rõ hơn nhiều so với chính chúng tôi. Ngay cả Frank bố cũng nói chuyện với chúng tôi về điều đó. Sự cố ấy cho tôi thấy thêm một lần nữa cảm nhận về mối liên kết vững chắc giữa các đội bóng trong câu lạc bộ. Jimmy thấy vẫn cần phải có trách nhiệm với chúng tôi, và tình cờ làm sao, đúng lúc ấy ông lại đang hoàn tất thủ tục mua một ngôi nhà liền kề có sáu phòng ngủ ở đường Kingston, Romford cho câu lạc bộ. Nên ông đã cho chúng tôi dọn vào đó, cùng với một số cầu thủ nữa, và thuê cặp vợ chồng già Bob - Val Rayson tới ở, đồng thời trông nom bọn tôi. Ở tầng trên cùng có hai phòng ngủ, một cái bếp và một nhà tắm, thế nên với chúng tôi, sống ở đó cũng không khác nào sống trong căn hộ của chính mình. Vì vậy tôi và Rich xin được lên ở trên đó, coi như bước những bước đầu tiên tới sự tự lập hoàn toàn. Tất cả đều hoàn hảo. Val luôn đảm bảo tủ lạnh sẽ không bao giờ ở tình trạng trống rỗng. Trong nhà, ngoài chúng tôi còn có hai anh chàng người Australia, Mick Ferrante và Steve Laurie, họ sống cùng với Izzy Iriekpen ở tầng dưới.
Izzy đã có thể trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử được ra sân ở Premiership khi West Ham làm khách ở Old Trafford vào tháng 1 năm 1999. Phút cuối cùng của trận đấu, khi mọi chuyện coi như đã an bài (chúng tôi đang bị dẫn 1-4), Harry quyết định sẽ cho Izzy vào sân. Ông muốn biến trải nghiệm buồn thành cơ hội để hướng tới tương lai, với một cậu bé mới 16 tuổi. Nhưng Izzy lại không sẵn sàng. Cậu ta chưa đeo ống đồng, chưa mặc áo, và dây giày cũng chưa buộc. Tới lúc mà cậu ta sẵn sàng và bước ra ngoài đường biên chuẩn bị vào sân thì trọng tài nổi còi kết thúc trận đấu. Đó là một bài học đắt giá. Izzy không bao giờ có cơ hội khoác áo West Ham. Tới bây giờ bạn vẫn có thể nhìn thấy những cảnh tương tự. Các huấn luyện viên quay đầu lại bảo một cầu thủ sẵn sàng, nhưng cầu thủ đó hoàn toàn không sẵn sàng. Ngay cả các cầu thủ lớn tuổi cũng gặp tình trạng này. Dây giày chưa buộc, ống đồng không có, áo cũng chưa mặc. Số lần ta thấy các cầu thủ quay ngang quay ngửa để tìm đồ nhiều tới mức khó có thể tin nổi. “Ai đang cầm ống đồng của tôi? Áo tôi đâu?” Đôi khi, áo của anh ta nằm tận trong phòng thay đồ. Chứng kiến những gì xảy ra với Izzy, tôi tự hứa rằng sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra với mình, rằng tôi phải luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Tôi có thể nới giày ra một chút để cho thoáng chân, nhưng ngoài ra luôn chuẩn bị đầy đủ mọi thứ. Thật đáng tiếc cho Izzy, cậu ta không bao giờ có cơ hội thứ hai.
Sau một năm, West Ham mua nốt căn nhà bên cạnh và nối hai nhà bằng một phòng trò chơi. Thêm Shaun Byrne và Adam Newton chuyển vào. Chỉ một thời gian ngắn sau, số nhân khẩu trong nhà đã tăng lên thành 10 - tất cả đều là những người tôi biết từ năm 13 tuổi. Tất cả đều đang sống trong cùng một giấc mơ. Chúng tôi thân thiết như tay với chân. Lúc này tôi đã có cả một mạng lưới hỗ trợ ở West Ham, với những người như Rich, Mick và Byrney, những người mà tôi đã thiết lập được một mối quan hệ tồn tại cho đến tận bây giờ. Dù xa nhau - Rich và Mick đang sống ở Australia, Shaun nay đang là một thợ sửa nhà ở Slough - nhưng chúng tôi vẫn rất thân thiết. Và tất cả chúng tôi đều trân trọng, xem những gì mà chúng tôi có ở West Ham là thực sự đặc biệt.
Giáng sinh một năm nọ, mọi người đều được về nhà để đoàn tụ với gia đình, chỉ có tôi là phải ở lại để tập luyện cùng với đội Một. Thế là mẹ, bố và Graeme xuống chỗ tôi. Mẹ nấu bữa tối cho cả nhà, gia đình chúng tôi cùng đón Giáng sinh trong phòng ngủ của tôi ở trên tầng bốn. Tôi ở đó trong hai năm và đấy là hai năm tuyệt vời. Rich ở với tôi trong cả hai năm ấy. Cậu ta cũng nhận được một bản hợp đồng rất khá, nhưng cũng như tôi, cậu ta không hoang phí tiền bạc. Tôi có mua một chiếc xe nhỏ, một con Fiesta 1.4 màu bạc đã qua sử dụng với táp-lô bọc gỗ và có ốp cửa. Tôi tốn 7.000 bảng cho con xe này, một số tiền hợp lý. Tôi máu lái xe lắm, nên đã cầu nguyện cho buổi kiểm tra lấy bằng diễn ra suôn sẻ. Tôi khá tự tin, nhưng vẫn biết rằng chỉ cần một hay hai lỗi nhỏ cũng đủ khiến cho mọi thứ tan tành. Khi tôi đang chuẩn bị vào bài thi đỗ xe song song, vị giám thị bắt đầu huyên thuyên về trận đấu vừa xong của West Ham. Tôi nghĩ thầm, “Để sau đó ông ơi. Vứt quả bóng sang một bên đi, tôi đang thi lấy bằng lái, và tay tôi thì ướt nhẹp mồ hôi rồi đây này.” Vị giám thị giải thích là ông ta đang làm nhân viên phục vụ ở Upton Park. Thật là những ngày tuyệt vời! Tôi đỗ điểm cao, có lẽ một phần nhờ “nhân tố West Ham”. Nhưng tôi vẫn nghĩ là dù thế nào thì tôi cũng đỗ thôi. Sướng nhất là vị giám thị, khi có cả ngày trời để nói về West Ham!
Chiếc Fiesta nhanh chóng trở nên chật chội đối với tôi, nên tôi quyết định tặng nó cho bố. “Không không không, bố không lấy đâu con trai. Bố có xe rồi.”
“Cứ nhận đi bố. Bố có thể bán hai cái xe cũ và dồn tiền mua một cái tốt hơn. Con nghĩ là xe sắp đến hạn bảo dưỡng, nên bố chỉ cần mang nó đi bảo dưỡng, rồi bán nó, hay làm bất cứ điều gì mà bố thích với nó.”
“À ừ nhỉ, ý tưởng tuyệt vời đấy, cảm ơn nhé con trai.” Khi bố mang chiếc xe Fiesta đi bảo dưỡng, ông tốn mất 400 bảng. Cả bốn bánh đều mòn vẹt hết, ngoài ra còn phải thay đĩa phanh và phanh. Bố bị sốc. Thế nhưng trong suốt hai năm trời, ông không hề nói gì với tôi. “Con có bao giờ nhận ra là con từng lái một chiếc xe trong tình trạng như thế không?” Cuối cùng thì vào một ngày, bố cũng nói với tôi. “Không hiểu sao mà con lái được, bánh xe hỏng hết cả rồi.” Không phải là bố muốn quở trách gì tôi, ông chỉ cảm thấy lo lắng.
“Xin lỗi bố.” Tôi cảm thấy mình đã khiến ông thất vọng. Thực tế tôi từng lái một chiếc xe mà cả bốn bánh đều mòn vẹt giống như một lời cảnh tỉnh. Từ đó về sau, tôi để ý nhiều hơn tới những chuyện như thế. Tôi lái nhanh, nhưng không ẩu. Tôi cũng không phải là kẻ cứ lên xe là phóng, đúng ra là bây giờ tôi không như thế nữa. Trước đây, khi còn trẻ, thì có. Sau chiếc Fiesta, tôi mua một chiếc BMW 3 Series Coupé màu xanh, giá 20.000 bảng.
Đó là một chiếc xe tuyệt vời. Tôi không phải người thích mặc cả. “Giá của anh như thế à?” Tôi sẽ hỏi người bán, và nếu thấy ổn, tôi sẽ mua. Sau nữa, tôi sở hữu một trong những chiếc X5 đầu tiên. Tôi từng có tổng cộng ba chiếc X5 khác nhau. Cũng trong thời gian ở West Ham, tôi mua thêm một chiếc Mercedes SL 55 AMG hai chỗ làm bằng kim loại nguyên khối, rất đẹp, nhưng sau đó tôi quyết định trả lại. Rồi mua một chiếc Dodge Viper tay lái nghịch - trông khá là buồn cười. Giám đốc quản lý của DaimlerChrysler, có trụ sở ở Milton Keynes, tự mình lái chiếc xe tới. Bạn tôi, Rich, Mick, Byrney và Steve Laurie, đều có mặt và bị chiếc Viper làm cho mê mẩn ngay lập tức. “Mua đi, Michael, mua đi,” cả bọn không ngừng hối thúc tôi. “Tuyệt đấy, trông rất khác biệt, tớ sẽ mua nó,” tôi nói. 45.000 bảng ra đi. Tôi không biết mình đang làm cái gì nữa. Chiếc Viper ấy thực sự là một con quái vật, toàn thân nó màu xám, với điểm nhấn là hai đường kẻ màu da cam ở giữa. Một ngày nọ, cả bọn đang tụ tập ở nhà của Rich tại Romford thì nổi hứng đòi tới nhà tôi ở Theydon Bois. Tôi đi chiếc Viper, nó chỉ có hai chỗ, trong khi chúng tôi có tới ba người, Rich, Byrney, và tôi. Chúng tôi đã có một quyết định ngu ngốc là gỡ cái bánh dự phòng ra khỏi cốp và nhét Byrney vào đó. Từ đấy về nhà tôi mất khoảng 20 phút. Âm thanh mà chiếc xe tạo ra quả thật ấn tượng. Nhưng ở phía sau, Byrney không ngừng gào lên, “Dừng lại! Dừng lại!”. Tôi và Rich cười chảy cả nước mắt. Khi ra khỏi xe, Byrney gần như không đi nổi.
Bây giờ, mỗi khi nhìn thấy các cầu thủ trẻ trong những chiếc xe lạ mắt như thế, tôi lại nghĩ, “Chúng nó đang lái cái gì ấy nhỉ?” Những cầu thủ lớn tuổi hơn ở West Ham chắc cũng từng nghĩ về tôi như thế, “Thằng kia nó nghĩ nó là ai nhỉ?” Lúc đó tôi mới 20. Một hôm tôi lái chiếc Viper tới Chadwell Heath và đỗ ngay cạnh xe của Tony Carr. Ông ấy nhìn tôi trân trân, vẻ mặt đầy ngạc nhiên như muốn nói, “Cái quái gì đang diễn ra ở đây thế này?” Hôm đó Tony không nói gì cả, nhưng tôi nhớ là khi nhìn thấy ánh mắt của ông, tôi biết là ông thất vọng về mình ghê gớm lắm. Tôi nhận ra mình không nên mua chiếc Viper. Sau đó tôi gần như không chạm vào nó nữa, và cuối cùng đẩy đi với giá 30.000 bảng. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy mình đúng là một thằng đần.
Tôi tốn nhiều tiền nhất cho việc tìm một chỗ ở riêng. Tôi yêu quãng thời gian sống cùng Bob và Val, nhưng cuộc sống ở một căn hộ trên tầng chỉ càng khiến tôi thêm khát khao có được một nơi chốn cho riêng mình. Vì thế, khi bước sang tuổi 19, tôi đã chi ra 280.000 bảng để mua một căn nhà ở khu vực không xa chỗ cũ lắm, khu Brunel Close, cùng một khu phố với nhà của Joe Cole. Rich cũng chuyển vào sống cùng. Cậu ấy trả tiền thuê, và cả hai chúng tôi đều cảm thấy thoải mái. Tôi xem ngôi nhà một phần như một khoản đầu tư. Bố mẹ tôi luôn rất cẩn thận trong chuyện tiền bạc và tôi cũng muốn làm như họ. Lisa học cấp ba và sau đó là đại học ở Newcastle, nhưng bất cứ khi nào rảnh rỗi là cô ấy lại xuôi Nam. Bạn gái của Rich, Janelle, hiện đã là vợ của anh thì thường bay tới từ Perth. Hồi đầu, chúng tôi quên không nói cho Lisa biết về Janelle. Một ngày, cả tôi và Rich đều đi tập, Lisa ở nhà một mình và nghe thấy tiếng gõ cửa. Là Janelle. Lisa đâu biết đấy là ai. Cô ấy mở cửa và trước mắt là một người phụ nữ lạ hoắc. Janelle mở lời trước, “Xin chào! Cô là ai?”
“Tôi là Lisa. Thế cô là ai?” “Janelle.”
Lisa hỏi hơi gắt, “Có chuyện gì không?” Trong vòng 5 giây tiếp theo, họ nhìn chằm chằm vào nhau như kẻ thù. Rồi Janelle quyết định phá vỡ sự im lặng, “Tôi tới từ Australia để thăm Rich.”
“Còn tôi ở đây với Michael!” Lisa trả lời. “Được rồi! Được rồi! Xin mời vào!” Kể từ đó, Lisa và Janelle trở thành bạn thân nhất của nhau.
Tôi gặp Lisa lần đầu tiên trong hội trường của một nhà thờ ở Wallsend. Gia đình của tôi và gia đình của cô ấy cùng tới đó để dự một bữa tiệc mừng năm mới. Tôi trầm tính, hơi bẽn lẽn, và không nói được gì nhiều. Cô ấy thì ngược lại, rất tự tin và cởi mở. Tôi phải lòng cô ấy, người con gái với mái tóc vàng gợn sóng, ngay lập tức, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng mình có cơ hội. Lisa là bạn của Steven Bradley và Stephen Rutherford, hai đồng đội của tôi ở đội trẻ West Ham, những người sôi nổi và cởi mở hơn tôi rất nhiều. Chúng tôi thường cùng nhau đạp xe tới công viên Wallsend, chơi tennis ở đó, hoặc đạp xuống vịnh Whitley rồi bắt xe buýt về để đỡ phải leo dốc.
Em của Lisa, Glen, hiện đang là một ca sĩ, nhưng trước đây cậu ta rất mê đá bóng và từng là đồng đội của Graeme ở Boys Club. Đó cũng là lý do mà bố mẹ chúng tôi quen biết nhau. Trường tôi tổ chức diễn một vở kịch, có tên là Người tình của tôi, trong đó bạn tôi - Chris Wood - là người đóng vai chính. Nhóm chúng tôi rủ nhau đi xem, Bradley, Rutherford, tôi, Lisa và vài người bạn của cô ấy. Đêm đó tôi định ngỏ lời với cô ấy, nhưng cuối cùng lại không tìm được thời điểm thích hợp. Thế nên, tôi quyết định gọi cho cô ấy vào sáng hôm sau, ngay trước khi đi học, cô ấy tỏ ra rất ngạc nhiên, “Sao cậu lại gọi cho tớ vào lúc này, lúc 8 giờ kém 10?” Thế là tôi thú thật, “Bọn bạn bảo tớ phải ngỏ lời hẹn hò với cậu vào tối qua, nhưng vì tớ không làm, nên tớ nghĩ rằng tốt nhất là nên gọi cho cậu trước khi đi học.” “À, tối nay tớ phải học nhảy, mai lại chơi bóng lưới, nên tớ sẽ gọi lại cho cậu vào thứ Năm nhé,” cô ấy trả lời. Tới thứ Năm cô ấy gọi lại thật, nhưng lại nói rằng chỉ vài tuần nữa là cô ấy phải thi GCSE[2] nên không có thời gian cho chuyện yêu đương. Vì chúng tôi vốn rất thân nhau, nên tôi nghĩ rằng cô ấy nói thế chẳng qua chỉ để khiến tôi không bị tổn thương quá nhiều.
[2] Tương đương tốt nghiệp trung học - ND.
Nhưng sau đó chúng tôi bắt đầu nói chuyện qua điện thoại thường xuyên, đề tài chủ yếu là mấy chuyện thường ngày. Sau vài tuần, sau khi cô ấy hoàn thành kỳ thi của mình, cô ấy đổi ý. Lúc đó là vào khoảng tháng 5, mà tới tháng 7 tôi đã phải xuống tập trung ở West Ham. Thật éo le làm sao. Tôi thường nói với cô ấy rằng, “Khi nào anh kiếm đủ tiền, anh sẽ mua vé cho em xuống đây.” Thời điểm đó tôi vẫn đang nhận lương 42,5 bảng mỗi tuần, nên tôi phải tằn tiện lắm, mà cũng chỉ có thể mua cho cô ấy vé máy bay giá rẻ. Mỗi tuần tôi sẽ gọi về cho cô ấy một lần, nhưng chúng tôi chủ yếu liên lạc qua thư, đôi khi còn gửi cả thơ cho nhau. Tôi giữ tất cả những lá thư Lisa gửi cho tôi và cô ấy cũng vậy. Mỗi khi tôi được về nhà, chúng tôi lại tổ chức tiệc tùng, hoặc ở nhà tôi hoặc ở nhà của cô ấy.
Lisa kiên trì theo đuổi sự nghiệp học hành, sau khi hoàn thành A-level[3], cô ấy tiếp tục học lên đại học, chuyên ngành Quản trị Doanh nghiệp. Sau khi ra trường, cô ấy chuyển xuống phía Nam để được gần tôi, làm công việc gì đó liên quan tới kế toán ở Romford. Cô ấy rất mê nhảy, và nhảy rất giỏi, nên thường tham gia các show diễn hay các vở kịch câm, ngoài ra còn dạy nhảy cho trẻ em. Nhưng sau đó thì cô ấy chuyển sang mê Pilates (hệ thống các bài tập giảm cân và phục hồi do Joseph Pilates phát triển đầu thế kỷ XX), bắt đầu từ khi tôi theo môn này để điều trị chấn thương háng. Cô ấy thậm chí còn đăng ký học một khóa về Pilates. Trong thời gian tôi thi đấu cho West Ham và Spurs, cô ấy thường dạy Pilates tại nhà cho đủ kiểu khách hàng - cả người trẻ lẫn người già, cả đàn ông lẫn phụ nữ. Cô ấy biết rằng đó là một kỹ năng mà cô ấy có thể mang theo tới bất cứ nơi nào, trong trường hợp tôi được chuyển nhượng tới một đội bóng khác. Lisa đã phải hy sinh rất nhiều để chúng tôi có thể luôn ở bên nhau. Cô ấy phải rời xa gia đình, và từ bỏ sự nghiệp riêng của mình.
[3] Tương đương bằng tốt nghiệp phổ thông trung học ở Việt Nam - ND.
Ở West Ham, Rich, tôi và nói chung tất cả mọi người trong đội, rất gần gũi với nhau. Bất cứ khi nào có một trận đấu tối ở Cup FA trẻ, chúng tôi sẽ cùng nhau đi tới một tiệm bánh ở Romford vào lúc 11 giờ sáng, mua một cái sandwich nhân xúc xích - trứng và một cái sandwich nhân thịt muối - trứng, trở lại trung tâm, ngấu nghiến chúng, chợp mắt một lúc vào buổi chiều, sau đó đi thẳng tới sân Upton Park. Thành thật mà nói thì những cái bánh sandwich to ú ụ và ngậy mỡ đó không được lành mạnh cho lắm. Nhưng ở thời điểm đó, chúng tôi không mấy quan tâm tới chế độ ăn hay vấn đề dinh dưỡng. Đâu có ai dạy chúng tôi những thứ như thế. Theo thời gian thì điều này thay đổi rất nhanh.
Vào các buổi tối, chúng tôi hay tụ tập ở Romford. Nói đúng hơn là tụ tập hơi thường xuyên quá. Một số đứa đi chơi vào tối thứ Tư, thậm chí là tối thứ Năm. Nhưng tôi thường ở nhà vì nghĩ tới trận đấu sẽ diễn ra vào thứ Bảy. Ngay cả ở tuổi đó, tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị. Nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn cần một hôm xả trại để giải phóng hết những áp lực tích tụ trong tuần. Thời gian đầu, chúng tôi thường tới The Barking Dog, một quán pub nhỏ ở bên cạnh nhà ga, uống vài cốc ở đó, rồi lại kéo nhau tới The Golfer, một quán pub khác có dịch vụ hát karaoke ở Beckton, gần cái dốc trượt tuyết cũ. Chúng tôi bắt đầu với những bài hát thông thường, nhưng bởi vì quán nằm trong “lãnh địa” của West Ham và khách toàn là cổ động viên của đội, nên cuối cùng cả bọn lại quay sang hát các bài cổ động. Buổi tối thứ Bảy xả trại của chúng tôi thường kết thúc tại một câu lạc bộ đêm có tên là 5th Avenue ở Ilford.
Nhưng tôi xuôi Nam không phải để đi bar, mà là để chơi bóng. Và để có thể vươn tới trình độ cao nhất, tôi phải đi qua con đường Cúp FA Trẻ, một giải đấu mà tất cả mọi thành viên của West Ham đều thấy bị ám ảnh. Tôi nhớ hồi năm 1996, khi West Ham chuẩn bị đấu với Liverpool trong trận chung kết Cúp FA Trẻ - Frank Lampard và Rio Ferdinand đối đầu với Michael Owen, Jamie Carragher và David Thompson - trận đấu ấy chính là chủ đề duy nhất trong tất cả các câu chuyện ở câu lạc bộ. West Ham thua 0-2 ở Upton Park. Nên trong trận lượt về ở Anfield, Harry yêu cầu mang tôi đi cùng để tôi có thể tích lũy kinh nghiệm. West Ham lại bị đánh bại với tỷ số 2-1, mọi người ai cũng thất vọng. Cúp FA Trẻ thực sự rất quan trọng với đội bóng. Tôi sẽ không bao giờ quên được quả penalty mà tôi đá hỏng trong trận đấu trên sân của York ở vòng năm diễn ra vào tháng 3 năm 1989. Sau trận đấu, Frank Senior giận tới mức thiếu điều đè tôi ra cho một trận. Chúng tôi cuối cùng vẫn có thể đi tiếp, và đi thẳng tới trận chung kết với Coventry City. Sau khi chúng tôi thắng 3-0 ở trận lượt đi trên sân Highfield Road của đối phương, mọi người bắt đầu nói về việc West Ham đang có một lứa cầu thủ trẻ tốt. Tất cả các thành viên của đội Một ở Chadwell Heath đều hỏi han về trận lượt về ở Upton Park và chúc chúng tôi may mắn. Mọi người đặt rất nhiều kỳ vọng vào chúng tôi. Trước trận lượt về, khi đang khởi động, tôi nhìn quanh và không thể tin nổi vào mắt mình khi có quá nhiều người tới xem trận đấu. Upton Park như rung chuyển. Ban tổ chức sân chỉ mở cửa ba khán đài và khóa cửa khán đài còn lại vì họ cho rằng như thế là đủ rồi. Nhưng cuối cùng trận đấu đã không thể bắt đầu đúng giờ bởi vì còn quá nhiều người chưa vào được sân. Ban tổ chức sau đó phải mở cửa khán đài East Stand, nhưng vì họ chỉ mở cổng, không mở cửa xoay, nên các cổ động viên phải đi một vòng quanh sân rồi mới lên được khán đài. Bóng lăn rồi mà người vẫn lũ lượt đi vào. Quả là một cảnh tượng hỗn loạn có tổ chức. Tôi sẽ không bao giờ quên được bầu không khí tuyệt vời hôm đó, tất cả mọi người đều hát hò như thể chúng tôi đang chơi một trận đấu ở Cúp FA “xịn”. Thật là điên rồ.
Các thành viên trong đội rất thân thiết với nhau, bầu không khí lúc nào cũng rất khó tin. Tôi thích nghĩ về đội bóng ấy, vì chúng tôi có một vài cầu thủ thực sự xuất sắc chứ không riêng gì Cole. Trong khung gỗ, chúng tôi có Stevie Bywater; trong suốt cuộc đời tôi chưa thấy ai tự tin hơn anh ấy, là kiểu tự tin dễ thương chứ không phải kiêu ngạo. “Các anh đừng mơ ghi bàn vào lưới tôi,” Stevie hét lên như thế với các thành viên của đội Một khi được gọi lên tập cùng họ. Anh ấy tất nhiên là bị các đàn anh xử đẹp ngay vì tội láo nháo, nhưng thành thật mà nói thì ở tuổi của mình, Stevie là vô đối ở vị trí thủ môn, những người khác phải chạy sau anh cả kilomet. West Ham mua anh từ Rochdale và thực sự anh đã thể hiện tuyệt vời, nhưng rất tiếc là anh lại gặp vấn đề với cổ tay. Tôi vẫn nhớ Bywatet từng bực bội thế nào khi xương thuyền (phần xương ngay phía dưới ngón cái) của anh cứ gãy đi gãy lại, khiến cho sự nghiệp của anh không sao cất cánh được. Nhưng dù vậy, anh lúc nào cũng là người hài hước nhất. Khi chúng tôi đang chuẩn bị phòng ngự chống một quả phạt góc, anh ấy sẽ nói, “Đừng lo, các chàng trai. Tớ sẽ phóng như tàu hỏa để tóm quả tạt này.” Khi bóng được tạt vào, anh sẽ hét lên “Tu, Tu” và hất văng tất cả để tóm lấy trái bóng.
Chúng tôi chơi thứ bóng đá đẹp mắt, Tony Carr lúc nào cũng khuyến khích cả đội triển khai bóng qua hàng thủ. Ba trung vệ của chúng tôi - Terrell Forbes, Stevland Angus và Iriekpen - đều là những tay rất khỏe, yêu phòng ngự và thích chuyền bóng. Tôi nhớ là khi Stev mới 15 tuổi, mọi người ở West Ham đã dự đoán anh sẽ trở thành “Rio mới”. Hoàn toàn dễ hiểu, bởi Stev rất nhanh, mạnh mẽ và có thể chơi được cả chân trái lẫn chân phải. Điều đáng tiếc là dù không thiếu tài năng, Stev lại không một lần được có cơ hội xuất hiện trong màu áo đội Một. Nhưng dẫu sao thì anh cũng đã có những năm tháng hạnh phúc ở Cambridge United.
Lối chơi của đội còn có đủ cả chiều rộng lẫn tốc độ. Ở bên cánh phải, Newtz, trong vai trò một wing back (cầu thủ chạy biên trong sơ đồ ba trung vệ), không ngừng lên xuống như con thoi. Cánh trái vốn thuộc về Byrney, nhưng trước trận chung kết cậu ấy lại dính chấn thương, nên Sam Taylor được trao cơ hội và anh đã chơi tốt. Tôi biết anh vẫn đang gắn bó với câu lạc bộ trong vai trò một thành viên của Foundation. Chỉ riêng việc điểm lại những cái tên trong đội hình xuất phát cũng đủ khiến tôi có cảm giác như thể trận đấu vừa diễn ra hôm qua. Những cảm xúc lại ùa về, bởi vì chúng tôi không chỉ là những đồng đội, mà còn là những người bạn thực sự của nhau. Chúng tôi cùng chơi bóng bằng niềm vui, cùng tận hưởng một quãng thời gian đẹp đẽ khó quên trong cuộc đời. Mick là tiền vệ kiến tạo, cả chân trái, chân phải anh đều chơi tốt. Và tất nhiên, chúng tôi có một Joe Cole xuất sắc. Rich thì chơi ở vị trí tiền đạo. Bertie Brayley là một anh chàng thuận chân trái rất hoạt bát và tài năng, nhưng hơi thiếu một chút chuyên cần để có thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Sau này anh chơi rất nhiều trận cho những đội bóng bán chuyên như Heybridge Swifts và Dorking Wanderers.
Chúng tôi thi đấu mà như đang chơi đùa. Tôi volley một cú dội xà ngang, quay lại nhìn Mick và cả hai tự nhiên cùng bật cười. Có cái gì đó sai sai. Cú volley ấy của tôi đẹp hơn cú đá thành bàn sau đó (được ghi bằng chân trái, sau đường chuyền của Rich). Đêm đó chúng tôi làm gì cũng đúng. Chúng tôi đơn giản là ra sân và cùng nhau chơi bóng như những người bạn. Cho tới tận bây giờ thì trận thắng 6-0 ấy vẫn là một trong những ký ức tuyệt vời nhất trong cuộc đời bóng đá của tôi. Ngày hôm sau có ai đó cho tôi xem một bài báo của The Times, trong đó có đoạn viết, “Carrick và Cole là một phần của một trong những đội trẻ tài năng nhất từng thấy ở nước Anh sau thời của Những đứa trẻ của Busby (Busby Babes) và Những chú chim non của Fergie (Fergie’s Fledglings, ý nói thế hệ 1992 với những Beckham, Giggs, Scholes, anh em nhà Neville).” Một nhận định quá táo bạo nhưng tôi nghĩ là không sai. Chỉ là Cúp FA Trẻ thôi, có phải Champions League hay gì đâu, nhưng với chúng tôi, đó vẫn là danh hiệu tuyệt vời nhất. Tuần tiếp theo, chúng tôi tiếp tục vô địch giải U19 quốc gia. Thế hệ West Ham ấy là một trong những lứa cầu thủ tuyệt vời nhất, vừa có khả năng lại vừa có sự gắn kết.
Sau trận chung kết lượt về, ngày tiếp theo, chúng tôi tập thả lỏng ở Chadwell Heath. Cả đội chỉ chạy nhẹ quanh sân; ở phía trong, Ian Wright đang tập dứt điểm. Chắc các bạn biết rồi, Wrighty không phải mẫu người trầm lặng. Khi chúng tôi chạy tới sau khung thành, anh ấy như phát cuồng, vừa hát vừa hét, cố làm tất cả những gì có thể để nói rằng chúng tôi đã làm tốt đến thế nào ở trận chung kết. Nhìn phản ứng và sự hài lòng của anh ấy, cảm giác thật khó diễn tả. Nhưng West Ham ở thời đó là vậy. Bầu không khí trong đội rất thân tình, ấm áp, và mọi người thấy vui vì hạnh phúc của người khác. Cả đội ai cũng thích phản ứng của Wrighty, nó cho chúng tôi thêm năng lượng và sự tự tin. Khi chúng tôi chạy qua, tôi ngoái lại xem anh ấy tiếp tục với bài tập sút của mình, vừa xem vừa nghĩ, Quả là một tay dứt điểm cừ khôi. Anh ấy là một người hùng thời trẻ của tôi. Tôi bị thu hút bởi cá tính mà anh ấy thể hiện trên sân bóng, cái kiểu đá bóng mà như chơi, lúc nào cũng có thể cười đùa, cả những màn ăn mừng của anh ấy nữa. Graeme và tôi thường cố bắt chước những màn ăn mừng ấy khi còn chơi bóng trong vườn. Tôi yêu quý Wrighty, nên khi thấy anh ấy vui vì chúng tôi, cảm giác thật đặc biệt. Thế là đủ để gói gọn cảm giác toại nguyện của chúng tôi. Hai tháng sau, thay vì xem Wrighty tập, tôi thấy mình đứng chung một sân tập với anh.