T
ôi chưa bao giờ tưởng tượng ra cảnh mình đang ở trong một khu rừng ở Croatia, nghịch ngợm những khẩu súng bán tự động của một tư lệnh địa phương, một tháng sau khi mùa giải mới bắt đầu. Thời điểm này, tôi đã bắt đầu được Harry tạo điều kiện làm quen với đội Một. Khi West Ham tới Osijek để chơi một trận đấu thuộc Cúp UEFA, tôi cũng được góp mặt. Cuộc chiến tranh ở Balkans mới kết thúc chưa lâu, và Osijek vẫn đang trong tình trạng hoang phế. Chuyến đi đó là một dịp mở mắt cho tôi cũng như những cầu thủ khác thuộc đội trẻ may mắn được có mặt. Chúng tôi dừng chân ở một khách sạn giữa nơi đồng không mông quạnh, trời tối tới mức như thể có ai đó tắt hết đèn đóm. Nhưng ngay cả trong bóng đêm, tôi vẫn có thể nhìn thấy những vết sẹo chiến tranh trên những lỗ đạn ở tường khách sạn. Mỗi cầu thủ chúng tôi được cấp một phòng đôi chật hẹp và tuềnh toàng, nhưng Stevland Angus và Terrell Forbes quyết định ở chung với nhau vì cả hai không ai muốn ở một mình tại một nơi kỳ quái như thế. Một người phụ nữ già lê bước trên những hành lang suốt đêm, bà ta sẽ đột ngột biến mất rồi xuất hiện trở lại trong vòng ít phút. Cả bọn đều khiếp vía.
Vào buổi sáng của ngày diễn ra trận đấu, Igor Štimac muốn giới thiệu đất nước Croatia của anh với chúng tôi, nên một nhóm, gồm Trevor Sinclair, Craig Forrest, Paul Kitson, Shaka Hislop, Steve Lomas, John Moncur và cả tôi, nhảy lên mấy chiếc xe do những người quen của Igor lái. Đi tour ở Osijek chẳng khác nào ngồi trên xe hộ tống đi xuyên qua vùng chiến sự. Chúng tôi đi trên một con đường chắc từng là đường cao tốc, lỗ đạn ở khắp nơi, ổ gà nham nhở, nhà cửa hai bên thì toàn chỉ còn một nửa - chẳng có gì lạ, chỗ chúng tôi tới chính là vùng biên giới với Serbia, trái tim của vùng chiến sự.
Trên đường trở về khách sạn, người lái chiếc xe đầu tiên đột ngột tạt vào một con đường đất, cả đoàn cứ thế đi theo. Được một lúc ông ta dừng lại và ra dấu cho chúng tôi tới chỗ cốp xe. Khi ông ta mở nó ra, tôi đứng hình. Trong cốp toàn súng là súng. Tôi cười mà như thở hắt. Tôi điếng người vì sợ, nhưng đồng thời cũng có chút phấn khích. Rõ ràng, một trong những người lái xe chở chúng tôi là một thủ lĩnh hàng đầu. Vị tướng đó cùng bạn của ông ta đặt những chiếc chai lên bức tường cách xa khoảng 50m và bắt đầu tập bắn với vẻ hưng phấn tột độ. Các khẩu súng đều thuộc loại tự động, nhỏ nhưng trang bị đầy đủ. Sau đó, vị thủ lĩnh kia đóng cốp lại, lái xe đưa chúng tôi trở lại khách sạn và tiễn chúng tôi một cách bình thản như thể chúng tôi chỉ vừa có một cuộc đi dạo buổi sáng thông thường. Dù thế nào thì hôm đó cũng là ngày diễn ra trận đấu. Thử tưởng tượng bây giờ mà làm thế xem! Lôi súng ra bắn trong buổi sáng ngày diễn ra một trận đấu ở Cúp châu Âu, chỉ nghĩ tới thôi đã thấy có gì đó không ổn rồi!
Tôi còn có một kỷ niệm khác liên quan tới chuyến đi đến Osijek đó, và đấy là một kỷ niệm buồn, rất buồn. Một trong những cầu thủ ghi bàn cho West Ham trong trận đấu với Osijek là Marc-Vivien Foé. Tôi không thân với anh lắm, nhưng qua quan sát, tôi biết anh là một người tuyệt vời, lúc nào cũng hạnh phúc với nụ cười thường trực trên môi. Thể lực của anh ấy thì vô song, thế nên khi nghe tin dữ rằng anh ấy đã qua đời sau một cơn đau tim ngay trên sân bóng hồi 2003, tôi không thể nào tin đó là sự thật. Người như anh ấy - nhìn cách anh ấy chơi bóng mà xem, rất mạnh mẽ, uyển chuyển và nhanh nhẹn - mà cũng có thể gục xuống một cách đột ngột như thế là điều khó ai hình dung nổi. Quá đau thương.
West Ham giành vé tham dự Cúp UEFA sau khi vô địch Cúp Intertoto và mỗi thành viên của câu lạc bộ đều nhận được một khoản thưởng vì thành tích này. Mắt tôi sáng lên khi kiểm tra tài khoản ngân hàng và biết rằng vừa có thêm 20.000 bảng được chuyển vào. Tôi, 18 tuổi, 20.000 bảng! Tôi chưa bao giờ thấy nhiều tiền một lúc như thế. Ngay cả các cầu thủ trong đội Một cũng rộn ràng vì khoản thưởng này. Có tiền cũng tốt, nhưng với tôi thì tiền không quan trọng bằng việc được có mặt trên sân - đấy là sự cân bằng mà tôi nghĩ những cầu thủ trẻ ngày nay không có được. Tôi thèm khát được chơi bóng, cũng biết rằng đã được ra sân thường xuyên rồi thì tiền bạc tự nhiên sẽ tìm tới. Một trong những lý do tôi chọn West Ham là bởi vì tôi biết rằng Harry luôn đặt niềm tin vào các cầu thủ trẻ. Ông đưa Frank lên đội Một, rồi sau đó tới lượt Rio, Cole, và cuối cùng là tôi, chậm hơn họ vài tháng. Bốn chúng tôi, những cậu nhóc chưa đến 21 tuổi, rồi đây sẽ cùng nhau tạo nên xương sống của West Ham. Không có nhiều huấn luyện viên đủ dũng khí để làm như Harry, và thực tế là khi làm điều đó, Harry đã đánh cược với sự nghiệp của mình. Harry cho tôi ra mắt Premiership vào tháng 8 năm 1999, ông tung tôi vào sân thay cho Rio ở trận đấu với Bradford City. “Mạnh mẽ lên, con trai,” Harry nói. “Cứ ra đó và chơi bóng thôi.” Triết lý của Harry là: “Thể hiện mình, học từ những sai lầm. Dũng cảm. Không ngừng xin bóng.” Harry luôn yêu cầu chúng tôi “xin bóng” dù có đang phải chịu áp lực lớn đến thế nào từ đối thủ. Tôi luôn biết ơn Harry cả vì những gì ông đã dạy tôi lẫn thực tế là ông đã sẵn sàng đặt cược vào tôi. Nếu tôi để mất bóng trong khi đang cố gắng làm đúng, chuyền bóng hay xoay người, Harry không bao giờ trách cứ một câu. Kiểu của West Ham tin tưởng vào sự tinh tế, một chút ma thuật, và tinh thần sẵn sàng mạo hiểm. Ngay sau khi tôi vào sân, chúng tôi được hưởng một quả ném biên ở gần khu kỹ thuật. Bóng tìm tới tôi, tôi xoay người và thực hiện một cú treo bóng nhắm vào vị trí của Paolo Di Canio. “Wow, đẹp đấy. Đường chuyền tuyệt vời,” tôi nghe loáng thoáng tiếng Harry hét lên ở phía sau. Tôi không biết là Harry thực sự phấn khích với đường chuyền của tôi hay ông chỉ đơn giản là đang cố gắng động viên tôi, nhưng thực sự thì điều đó cũng không quan trọng. Huấn luyện viên của tôi, người mà tôi luôn ngưỡng mộ, thực sự tin tưởng tôi, thế là đủ.
Cuộc chiến ở trên sân thực sự căng thẳng. Tôi chỉ là một thằng nhóc mảnh khảnh và non nớt, trong khi đối thủ toàn những tay rắn mặt như Neil Redfearn hay Stuart McCall. Một số cầu thủ Bradford cố tình khiêu khích hay cố gắng dằn mặt tôi với những pha vào bóng quyết liệt trên mức bình thường, kiểu ngày xưa người ta hay làm, nhưng các đồng đội đã không để tôi đơn độc. “Đừng quan tâm tới thằng đó, hắn chưa đủ trình buộc giày cho chú đâu,” Steve Lomas nói sau khi tôi nhận một cú tắc. “Chú giỏi hơn nó cả dặm.” Lomas hoàn toàn có thể nghĩ rằng, “Cứ để thằng nhóc này tự xoay xở xem sao.” Nhưng anh ấy đã không làm thế. Tôi không bao giờ quên ơn các anh lớn ở West Ham, những người đã chiến đấu vì tôi.
Một người khác cũng luôn luôn động viên tôi là John Moncur. Tôi rất quý Moncs, một trong những cầu thủ hiếm hoi có thể chơi tốt bằng cả hai chân. Thú thật cho tới bây giờ tôi cũng không biết là anh thuận chân nào. Moncs biết rằng tôi sẽ chiếm lấy vị trí của anh trong hàng tiền vệ, nhưng anh luôn đối xử với tôi như một người cha dìu dắt con trai của mình, không bao giờ xem tôi là đối thủ. “Khi anh ở Spurs, ai đó nói với anh là: Này, với trình độ của cậu, cậu phải xin bóng thật nhiều vào,” Moncs nói với tôi. “Chú cũng cần phải làm thế, Micky. Trong các trận đấu hay các buổi tập, cố đếm xem chú nhận được bóng bao nhiêu lần. Rồi, giờ ra đó và xin bóng đi.” Anh nói đúng, tôi hoàn toàn có nguy cơ bị loại ra khỏi dòng chảy của trận đấu. Thế là tôi hành động. “Không ngừng xin bóng” trở thành phương châm chơi bóng của tôi. Moncs còn giúp tôi bằng cách luôn chuyền bóng cho tôi ở trên sân. Anh hoàn toàn có thể giết chết sự nghiệp của tôi từ trong trứng nước, hoặc ít ra cũng làm chậm nó lại, bằng cách không chuyền bóng cho tôi. Khi một đàn anh trong đội đã không thích một cầu thủ trẻ, anh ta có đủ cách để khiến cho cuộc sống của cầu thủ trẻ đó trở nên khó khăn hơn. Nhưng Moncs không phải kiểu như thế. Tôi chỉ sợ Moncs khi anh ngồi sau... vô lăng. Trong một vài năm đầu tiên, ở đợt tập huấn trước mùa, cả đội thường tới chạy ở rừng Hainault. Sau kỳ nghỉ hè, phần lớn các cầu thủ đều phát phì. Chúng tôi thường xin đi nhờ trên một chiếc xe hộ tống. Trên đường về, có một vòng xuyến ở chỗ trước đây từng là một một sàn chơi bowling có tên gọi Rollerbowl. Thường thì người ta sẽ lái xe vòng qua cái vòng xuyến ấy. Moncs thì không. Anh tiếp tục dấn tới, rúc dưới các bụi rậm, nghiến lên các luống hoa, xuyên thẳng sang phía bên kia. Xe thì nảy tưng tưng mà Moncs thì cười như ma làm. Ở West Ham chẳng bao giờ lo thiếu chuyện.
Vào một ngày cuối năm 1999, Harry gọi tôi vào phòng làm việc của ông. “Chú nghĩ là sẽ tốt hơn nếu gửi cháu cho một đội bóng khác mượn. Ra ngoài kia cháu sẽ có nhiều cơ hội ra sân hơn. Đi sáu tuần nhé!” Harry đã làm điều tương tự với một số cầu thủ khác, ví dụ Frank tới Swansea còn Rio thì tới Bournemouth. “Về thu dọn đồ đạc rồi tới Swindon luôn nhé,” Harry nói. “Jimmy sẽ lo cho cháu.” Harry từng dẫn dắt Jimmy Quinn trong thời gian làm huấn luyện viên của Bournemouth nên ông tin tưởng là Jimmy sẽ tạo điều kiện cho tôi ra sân, phát triển tôi và khiến cho tôi trở nên mạnh mẽ hơn. Không phải ai cũng biết rằng đời cầu thủ còn có những giai đoạn như thế này, khi anh ta phải bước ra ngoài để chứng tỏ bản thân trong những bản hợp đồng cho mượn. Hành trang chỉ là đôi giày và khát khao thành công. Giờ là lúc tôi phải tự mình đối mặt với thế giới bóng đá thật sự. Không còn nơi ẩn náu nữa. Tôi phải chấp nhận thử thách của Harry và lên đường, rời xa tổ ấm an toàn của mình. Tôi nhảy lên chiếc Fiesta bé tẹo của mình, lái về nhà, nhồi giày, ống đồng và tất cả những gì có trong tủ vào mấy cái túi rồi lại lên xe trực chỉ hướng tây. Tôi không hề hỏi thêm bất kỳ câu nào. Chỉ làm chính xác những gì mà Harry bảo.
Tôi gặp Jimmy trong một nhà trọ theo phong cách khách sạn ở Cricklade, một thị trấn nhỏ xinh đẹp ở Costwolds, khác xa khu Barking. Jimmy và trợ lý của ông, Alan McDonald (thật buồn là ông đã mất rồi), đã ngồi chờ sẵn ở quán bar cùng với vợ của họ.
“Mọi chuyện ổn chứ, Michael?” Jimmy hỏi. “Phòng của cậu ở trên tầng. Cậu có muốn uống gì không?”
“Cảm ơn, cho cháu xin một lon Coke.”
“Không uống bia à?!”
“Coke là được rồi ạ. Cảm ơn.”
Tôi không hề cố gắng tỏ ra siêu chuyên nghiệp trong lần đầu tiên gặp gỡ vị huấn luyện viên mới. Chỉ là tôi không thích vị của bia. Tôi vẫn uống Smirnoff Ice khi ra ngoài nhậu nhẹt, thậm chí còn nốc nhiều hơn bình thường. Nhưng chỉ khi đi nhậu thôi.
Tôi rõ ràng là đã gây được ấn tượng với Jimmy. Trong số các đồng đội mới ở Swindon có một người bạn cũ cũng thuộc diện YTS, một cầu thủ tài năng nhưng hơi thiếu nghiêm túc và rất thích nhậu. Anh ta kể với tôi rằng sau khi gặp tôi xong, Jimmy đã lôi anh ta vào văn phòng. “Điều đầu tiên tôi hỏi Michael là ‘Cậu có muốn uống gì không?’ Cậu biết cậu ta trả lời thế nào không? ‘Không, Coke là được rồi.’ Đấy, thái độ phải như thế mới chuẩn. Cậu cũng phải chăm chỉ như cậu ta nếu muốn thành tài.” Tôi muốn tận dụng mọi cơ hội để có thể trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp, và đó là điều mà Swindon đã mang tới cho tôi. Quãng thời gian được cho mượn ở đó dạy tôi rằng các trận đấu không chỉ là những bài kiểm tra kỹ thuật mà còn là những cuộc chiến thể lực. Anh chàng cầu thủ hiền lành, gọn gàng, sạch sẽ trong tôi cần phải được tôi luyện.
Tới sân County Ground là một trải nghiệm đã giúp tôi khai nhãn. Tôi biết rằng còn một thế giới bóng đá khác đang tồn tại song song với thế giới mà tôi từng biết. Đội bóng mà tôi vừa gia nhập thì đang chiến đấu cho sự tồn vong của mình, cả trong lẫn ngoài sân đấu. Swindon lúc đó đang vật lộn ở Division One (tương đương hạng ba), và tình hình tài chính của đội cũng hết sức bết bát. Họ không có sân tập, nên chúng tôi thường tập trung ở County Ground, thay quần áo rồi tự lái xe tới một sân bóng ở cuối đường. Tất cả các cầu thủ đều phải mang quần áo về nhà tự giặt, điều mà trước đây tôi chưa bao giờ được chứng kiến. Vì tôi chỉ là một thằng nhóc đang chơi theo dạng cho mượn, nên người phụ trách trang phục của đội đã thương tình và mang quần áo của tôi về nhà giặt hộ. Nhưng dù thế nào thì cuộc sống mới cũng hoàn toàn nằm ngoài trí tưởng tượng của tôi. Bố mẹ thậm chí còn phải tự bỏ tiền túi mua cho tôi một bộ quần áo thể thao của đội. Một số cầu thủ phải chiến đấu không chỉ vì sự nghiệp của mình, hay để giữ cho đội bóng khỏi rớt hạng, mà họ còn phải chiến đấu cho sinh kế của bản thân. Khi ta có một gia đình phải chăm sóc và những hóa đơn chờ thanh toán, một đồng tiền thưởng cũng đáng quý. Ở West Ham, tôi không phải đối mặt với thực tế khắc nghiệt này. Bóng đá ở đây mới thật là bóng đá, nơi ba điểm mỗi cuối tuần có thể quyết định ta sống hay là chết. Bầu không khí cực đoan ấy chính là một tiếng kêu thức tỉnh đối với tôi. Những gì được trải nghiệm ở Swindon đã lay động tôi từ đầu tới chân. Tôi vốn vẫn rất tập trung, nhưng tôi biết rằng sau trải nghiệm với Swindon, tôi sẽ không xem bất cứ chuyện gì là đương nhiên trong bóng đá, và khao khát thành công trong tôi càng lớn hơn. Ở Swindon, tôi vừa bước chân vào một cuộc loạn đả, hoặc là tôi sớm học cách chiến đấu, hoặc là tôi sẽ sấp mặt. Tôi chọn cách chiến đấu. Swindon khiến tôi mạnh mẽ hơn. Sau trận ra mắt trước Norwich, tôi đọc được những điều Jimmy Quinn nói về mình trên tờ Swindon Advertiser: “Tôi vốn biết là cậu ta cũng giỏi, nhưng không nghĩ là cậu ta giỏi đến thế.” Jimmy là người tốt, và tôi rất trân trọng những nhận xét của ông về mình, nhưng tôi biết rằng mình phải cứng rắn thì mới có thể tồn tại được ở thế giới bóng đá này.
Swindon là một khu lao động, giống như Wallsend, nơi tất cả mọi người đều phải làm việc chăm chỉ để mưu sinh. Mỗi người đều hỗ trợ đội bóng theo cách riêng của mình, bởi vì thực sự là đội ngũ nhân sự được trả lương ở đội rất mỏng, ngoài Jimmy, Alan, chỉ có thêm chuyên gia thể lực Dick Mackey. Jimmy đôi khi phải tự xỏ giày ra sân, ngay cả khi đã 40 tuổi. Trong trận đấu với Norwich nói trên, ông vào thay Iffy Onuora, một tiền đạo to lớn. Những người như Iffy, thủ môn người Australia - Frank Talia, hậu vệ phải Mark Robinson hay Scott Leitch - anh chàng thuận chân trái chơi bên cạnh tôi ở hàng tiền vệ, có thể đã nghĩ rằng, “Cái thằng nhóc màu mè tới từ Premiership nghĩ mình sắp thành ông sao đang làm cái quái gì ở đây vậy?” Nhưng thay vì thế, họ chào đón tôi một cách nồng hậu. Và dù sao thì tôi cũng chưa bao giờ là mẫu màu mè. Họ sớm nhận ra rằng tôi đến để chiến đấu bên cạnh họ. Để làm tất cả những gì cần phải làm. Tôi không muốn tạo cho họ cảm giác rằng tôi chỉ tới, đá lơi nhơi trong sáu tuần trước khi lượn về lại Premiership.
Ở Swindon, tôi được trải nghiệm thứ bóng đá nguyên bản nhất. Các trận đấu rất nặng về thể lực, và những cú tắc bóng thì thường quyết liệt quá mức cần thiết. Đã thế, nhiều lúc có vẻ như ngay cả Nữ thần may mắn cũng không muốn dây dưa gì với Swindon. Không biết bao nhiêu lần những cú sút của Jimmy hay Iffy bị cột dọc hay xà ngang chặn lại, và điều đó khiến chúng tôi như phát điên. Trận đấu cuối cùng trong sáu trận của tôi ở Swindon, chúng tôi hành quân tới sân của Manchester City trong một ngày tháng 12 giá buốt. Tôi nhận ra trong nhóm cổ động viên trung thành của Swindon đang run rẩy trên một khán đài tạm của sân Maine Road có mẹ, bố và Lisa. Lisa rõ ràng là đã quá coi thường thời tiết. Tôi ngưỡng mộ mọi thứ thuộc về Lisa, trừ cách cô ấy chọn quần áo cho những ngày giá rét. Hôm đó, cô ấy chỉ mang một chiếc áo khoác tí xíu, và rõ ràng đang đờ cả người vì lạnh.
Hôm đó gió rất lạnh, nhưng không khí ở Maine Road vẫn rất tuyệt vời. Mặt cỏ đẹp, và trên các khán đài, hơn 30.000 khán giả không ngừng hát hò để tạo nên một bầu không khí sôi động. Trận đó chúng tôi bị City vùi dập. Cá nhân tôi thì được Ian Bishop và Kevin Horlock dạy cho một bài học; họ quá khỏe, quá sắc bén so với tôi. Nhưng với những bài học như thế, khi trở lại West Ham, tôi đã là một cầu thủ khác, mạnh mẽ và hiểu biết hơn. Tôi cũng kịp để lại Swindon một vài bàn thắng, trong các trận đấu với Charlton và Walsall.
Tôi sướng rơn khi Harry nhanh chóng cho tôi “tái hòa nhập cộng đồng” ở West Ham. “Mai cậu sẽ đá chính,” Harry thông báo khi chúng tôi đang trên đường tới Newcastle. Nghĩa là gì? Là St James Park! Nơi tôi lần đầu tiên phải lòng bóng đá! Tôi cố gắng tỏ ra chuyên nghiệp, nhưng không kiềm được cái tính trẻ con trỗi dậy. Được đá chính lần đầu tiên vốn đã là một sự kiện quá đặc biệt, nhưng làm việc đó trước Gallowgate thì quả là điều tôi chưa bao giờ dám mơ tới. Tôi vồ lấy máy điện thoại gọi cho bố mẹ ngay khi có thể. Gia đình tôi thường cố gắng nhìn nhận mọi việc một cách điềm đạm, không bao giờ làm quá lên bất kỳ chuyện gì - kiểu của nhà tôi nó thế. Nhưng sâu thẳm bên trong, tất cả chúng tôi đều nhận thấy đây là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt. Với bố mẹ tôi, được nhìn thấy con trai mình trên mặt cỏ của sân St James’ Park chính là một giấc mơ thành sự thật. Còn tôi thì dành toàn bộ thời gian trước trận đấu để nghĩ về ý nghĩa của việc được đá chính đối với bản thân, gia đình cũng như bạn bè. Tôi không thể nào ngủ được vì quá bận rộn với việc đếm ngược từng giờ, từng phút, từng giây cho tới giờ giao bóng ở St James’. Sự tập trung của tôi bị cảm giác phấn khích che mờ, và ý nghĩ mình sẽ là người ghi bàn thắng quyết định khiến tôi như mất kiểm soát. Tôi đã để cho đầu óc của mình lang thang quá xa. Newcastle là một đội mạnh, tôi biết thế. Ở giữa sân họ có Gary Speed, còn trên hàng công là bộ đôi tiền đạo khủng Alan Shearer và Duncan Ferguson. Nhưng tôi không quan tâm lắm tới các cầu thủ, trong đầu tôi lúc ấy chỉ có những ý nghĩ liên quan tới ý nghĩa của sự kiện hôm nay mà thôi. Tôi đang trở về nhà mà. Ai sẽ xem trận này? Bạn bè mình ở trường. Họ sẽ ngồi ở đâu? Cả nhà đều ở đây. Không thể khiến họ thất vọng được. Trong lúc khởi động, tôi loáng thoáng thấy có một số gương mặt thân quen trong đám đông, họ là những người hàng xóm và những người bạn ở trường. Đầu óc tôi lại được dịp xôn xao.
Tới thời điểm bóng lăn tôi hoàn toàn kiệt quệ về mặt tinh thần, và tới giờ nghỉ thì tôi kiệt quệ về mặt thể chất.
Mình không thể nào trở lại sân trong hiệp hai được, mình xong rồi, tôi nghĩ. Mắt không rời sàn nhà, tôi tự hỏi làm cách nào để mình có thể trụ lại trên sân? Tôi uống nhiều Lucozade và ăn nhiều thanh năng lượng nhất có thể, hy vọng sẽ có chút cải thiện. Trận này, tôi thi đấu ở vị trí tiền vệ lệch phải trong sơ đồ 4-4-2 hẹp, với Steve Potts là người chơi ngay phía sau ở vị trí hậu vệ phải. Alessandro Pistone là hậu vệ trái của Newcastle. Anh ta không ngừng thực hiện những cú leo biên ở tốc độ cao, trong khi Kevin Gallagher cũng thường xuyên bó vào giữa, nên tôi bị xoay như chong chóng. Frank ghi bàn, rồi sau đó Igor Štimac gỡ hòa 2-2 bằng một pha đánh đầu. Chúng tôi được giải cứu, còn tôi thì như cất được một tảng đá trước ngực. Ít ra thì tôi cũng đã không trở thành một thảm họa toàn diện. Một điểm trên sân khách là kết quả đáng ngạc nhiên với West Ham vì chúng tôi chưa bao giờ có phong độ tốt khi xa nhà. Harry ném về phía tôi một cử chỉ hàm ý “làm tốt lắm”, nhưng tôi biết ông chỉ làm thế theo thủ tục thôi. Hôm đó tôi đã học được một bài học quan trọng: đừng bao giờ để hoàn cảnh làm xao nhãng, luôn chỉ tập trung vào trận đấu. Sự kiện St James’ cũng dạy tôi rằng tôi có thể trụ được cho tới hết trận, bất kể là chơi như thế nào, nên tôi cũng có đôi chút tự hào vì mình thực sự đã trở thành một chiến binh thầm lặng. Mọi người thường nhìn vào sự nghiệp của tôi rồi nói những điều tốt đẹp về việc tôi lúc nào cũng giữ được sự điềm đạm, nhưng thực ra thì tôi còn là một chiến binh nữa. Tôi không từ bỏ.
Sự nghiệp học hành của tôi ở Học viện lại có một bước tiến mới. “Chú nghĩ cháu nên đi theo dạng cho mượn một chuyến nữa, Michael,” Harry nói. “Birmingham muốn có cháu đấy.” Birmingham City ư? Thời điểm đó, Trevor Francis là huấn luyện viên của họ, và trong đội có Andy Johnson, người tôi biết từ khi khoác áo đội U18 Anh và đánh giá rất cao. Thế nên tôi trở lại với chiếc Fiesta đáng tin cậy nhưng nay đã hơi cũ của mình và lên đường. Giao thông hôm đó cực tệ. Ngồi chết dí trên đường M6, tôi biết rằng mình sẽ không thể có mặt đúng giờ trong buổi gặp mặt đầu tiên với Trevor, sẽ diễn ra ở một khách sạn gần Trung tâm triển lãm Quốc gia Birmingham. Tôi ghét việc trễ giờ, bởi nó đi ngược lại tất cả những gì mà bố mẹ đã dạy cho tôi về sự tôn trọng và tính tổ chức. “Ôi Chúa ơi, thật đáng xấu hổ,” tôi nghĩ thế khi bước vào và phát hiện ra Trevor cùng Andy đã ngồi chờ tôi suốt hơn một tiếng rưỡi. Tạ ơn Chúa, Trevor không thấy bực bội gì, lại tỏ ra rất vui vẻ chào đón tôi.
“Tôi sẽ dẫn cậu đi ăn tối,” ông nói. Andy cũng cố gắng để tôi cảm thấy thoải mái. Trevor đưa chúng tôi tới một nhà hàng rất sang trọng, à, ít ra thì đó là cảm giác của tôi lúc ấy, tên là Bank ở trung tâm của Birmingham. Tôi không quen ăn uống ở những chỗ như vậy, nên cứ loay hoay mãi với cái menu. Mình làm gì đây? Gọi món gì nhỉ? Trong danh sách các món ăn, tôi phát hiện thấy có cá, nên gọi món đấy.
“Là Dover Soler, thưa ngài,” người bồi bàn nói.
“Tuyệt vời, tôi sẽ dùng món ấy,” tôi đáp lại, đầu thì nghĩ mình đã ăn món Dover Sole này cả đời rồi.
“Cậu có muốn người ta ‘phi lê’ nó luôn không?” Trevor hỏi.
“Không ạ, thế ổn rồi ạ,” tôi trả lời, hoàn toàn không hiểu Trevor đang nói về cái gì. Cá và khoai tây? Thì cũng như cod “n” chips[1] thôi chứ gì? Sao mà nhầm được, nhỉ? Mình sẽ vượt qua được chuyện này. Người bồi bàn mang món Dover Sole ra, tôi dùng dao cắt nó và phát hiện toàn xương là xương. Trevor tròn mắt nhìn tôi trong khi tôi đang cố gặm xương một cách kín đáo.
[1] Cũng là cá và khoai tây, theo cách gọi dân dã hơn - ND.
“Cậu chắc là cậu không cần người ta phi lê nó chứ?” Ông hỏi lại.
“Thực tế là có ạ, chú có thể giúp cháu không?”
“Phi lê” là một từ mới với tôi, nhưng bây giờ thì tôi đã biết rằng nó rõ ràng có nghĩa là róc hết xương ra. Trevor nhờ người bồi bàn mang đĩa cá đi phi lê, nhưng lúc ấy con cá đã be bét rồi, và tôi chỉ còn biết kêu lên trong xấu hổ khi người bồi đặt trả lại trước mặt tôi một đĩa cá nham nhở như phế tích. Tôi cảm thấy mất hết cả tự tin.
Khởi đầu tệ hại ấy báo hiệu một quãng thời gian khó khăn của tôi ở Birmingham. Ở đó tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái như ở Swindon. Tôi không phủ nhận Trevor là người tốt, và trong phòng thay đồ của Birmingham lúc ấy có một vài cầu thủ cũng rất tuyệt vời. Stan Lazaridis từng chơi bóng cho West Ham và vẫn đang sống ở Loughton, nên anh ấy, và cả David Holdsworth nữa, thường lái xe chở tôi đi đi về về. Tôi sẽ không bao giờ quên lòng tốt của họ, nhưng thực tế là tôi chỉ được ra sân vỏn vẹn 83 phút trong thời gian khoác áo Birmingham, thậm chí cả trong trận đấu với Portsmouth trên sân nhà tôi cũng không được vào sân một phút nào.
Cảm giác bực bội sau trận đấu đó chỉ được xoa dịu khi tôi hay tin mình đã được triệu tập vào đội hình đội U18 Anh chuẩn bị cho trận đấu với Pháp. Sau đó tôi còn biết rằng mình sẽ được mang băng đội trưởng. Tôi chưa bao giờ làm đội trưởng ở bất kỳ đội bóng nào trước đó. Nhưng cũng sau trận đấu với Portsmouth, Trevor nói với tôi rằng tôi sẽ phải ra sân trong trận đấu với đội dự bị ở Tranmere vào tối thứ Ba, thế nên tôi sẽ không thể góp mặt ở đội tuyển được. Tôi không nói gì, tôi còn quá trẻ và quá ngoan, nhưng trong lòng thì như muốn phát điên. Tôi vẫn chưa hết điên khi gọi điện cho bố để phàn nàn, điều mà tôi chưa từng làm và sẽ không bao giờ làm sau đó. Bố vừa nhấc máy là tôi bắt đầu buông ra những tràng chửi thề, “Khốn kiếp, đúng là một trò đùa.” Tôi chưa bao giờ chửi thề như thế trước mẹ hay bố. Ngay cả bây giờ, nếu mẹ phát hiện ra tôi chửi thề trên sân, bà chắc chắn sẽ không đời nào để yên cho tôi. Nhưng lúc ấy tôi điên quá, “Con đ*o thể nào tin được bố ạ, lão ta không cho con lên tuyển.” Bố làm mọi cách để tôi bình tĩnh trở lại, nhưng tôi vẫn chưa hết giận khi gọi điện cho Jimmy Hampson.
“Tại sao cháu lại phải chơi cho đội dự bị của Birmingham?” - tôi hỏi. Sau khi nói chuyện với Harry, Jimmy gọi lại cho tôi. Harry không biết gì về chuyện băng đội trưởng của đội tuyển Anh, chỉ nghĩ rằng tôi là một kẻ tự ái vặt đang kêu khóc vì phải chơi cho đội dự bị của Birmingham. “Bảo cậu ta cứ đá cho đội dự bị và cố gắng mà vượt qua chuyện đó đi” là thông điệp Harry gửi lại cho tôi.
Thế là tôi ra sân trong trận đấu với Tranmere. Sau một pha tranh chấp bóng bổng, tôi tiếp đất sai tư thế, và có thể nghe rõ những tiếng rắc từ cái mắt cá đang bị xoắn lại. Vì chấn thương ấy, tôi phải ngồi ngoài một tháng. Tôi sẽ không bao giờ quên được cảm giác bất lực và giận dữ khi nằm trên cáng sau một chấn thương lãng xẹt trong một trận đấu vô nghĩa diễn ra vào thời điểm mà lẽ ra tôi đang đại diện cho quốc gia của mình. Sau bốn hay năm tuần điều trị gì đó, tôi trở lại đội hình của West Ham chuẩn bị cho trận đấu tiếp theo, chuyến làm khách tới sân của Arsenal ở Premiership diễn ra vào ngày 2 tháng 5 năm 2000. Đó chính là bài test lớn nhất mà tôi phải đối mặt cho tới thời điểm đó. Arsenal là một đội bóng hàng đầu với những cầu thủ xuất sắc hàng đầu trong đội hình - một đối thủ rất đáng sợ. Đội Arsenal ấy có thể làm được mọi thứ - chuyền, chạy, và chiến đấu. Họ có thể chơi thứ bóng đá xấu xí và quyết liệt, nhưng cũng có thừa sự tinh tế. Một đội bóng khó tin! Với những cầu thủ như David Seaman, Tony Adams, Ray Parlour, Patrick Vieira, Marc Overmars, Dennis Bergkamp, Emmanuel Petit, Arsenal ở thời điểm đó là một trong những đội bóng mạnh nhất châu Âu. Tôi thích những trận đấu kiểu như thế này - đối mặt với những cầu thủ hàng đầu, trên một sân khấu lớn, ở một sân bóng đầy ắp khán giả, và sân bóng ấy, Highbury, lại rất đặc biệt. Đừng có hiểu lầm, tôi chưa bao giờ là fan của Arsenal cả, nhưng tôi thích xem Wrighty chơi bóng khi anh ấy còn ở đó, và sân Highbury thực sự mang lại ấn tượng về sự đẳng cấp. Xe buýt thả chúng tôi xuống đường Avenell, chúng tôi cùng bước lên một vài bậc thang để tới khu lễ tân, sau đó đi tiếp qua những căn phòng lát đá cẩm thạch lớn, qua bức tượng bán thân của Herbert Chapman và tới phòng thay đồ, mà theo tôi nhớ là dưới sàn có hệ thống sưởi. Highbury là một sân bóng đúng chuẩn, đầy dấu ấn lịch sử và có đội ngũ nhân viên lúc nào cũng ăn mặc tinh tế, khiến cho tôi có cảm giác mình đang đi lạc vào tư dinh của một đại quý tộc nào đó.
Thay đồ xong, tôi theo cầu thang đi xuống một đường hầm chật hẹp, nơi chúng tôi phải chen vai thích cánh với những cầu thủ khác, như Adams. Tôi có cảm giác hình ảnh anh chào và gọi tôi cũng như những cậu bé học việc khác ở Upton Park là “các chàng trai” chỉ mới diễn ra vài giây trước. Trọng tài Paul Durkin dẫn chúng tôi bước ra khỏi đường hầm; ngoài đó, âm thanh, ánh sáng và thách thức đang chờ đợi chúng tôi. Suy nghĩ của tôi trước sau vẫn thế: đây chính là thành quả sau tất cả những nỗ lực và hy sinh đã qua. Cứ ra sân, nỗ lực, chơi tốt và chiến thắng. Tôi không thấy căng thẳng, chỉ thấy phấn khích. Tôi yêu Highbury, ngay cả khi mặt sân ở đó rất chật hẹp. Thời gian để thở cũng không có, nhất là khi có Vieira ở đấy. Tôi phải chiến đấu để giành lấy sự tôn trọng từ các đồng đội của tôi và cho Vieira cũng như các cầu thủ Arsenal thấy rằng tôi không phải là một đứa trẻ dễ bị bắt nạt. Vieira đúng là một con quái vật, nhìn đâu cũng thấy chân và tay, một khối cơ xương cao tới 1m93 đầy tài năng và thừa sự hung hăng. Màn chạm trán đầu tiên đó là một bài kiểm tra cho năng lực chiến đấu của tôi, thứ mà tôi nghĩ là đã được cải thiện đáng kể sau thời gian ở Swindon. Tôi cần phải đủ mạnh mẽ để có thể đứng vững trước Vieira, nếu không thì tôi sẽ bị quét sang bên như một thằng nhóc yếu ớt. Bóng đá bây giờ đã thay đổi, theo hướng ẻo lả đi. Còn hồi đó, sân bóng chẳng khác nào một chiến trường, một nơi cực kỳ khốc liệt. Vừa chiến nhau với Vieira, tôi vừa tự hỏi bản thân, “Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này?! Chiến nhau với Patrick Vieira ư?!” Tôi buộc phải túm áo Vieira để ngăn anh ta thoát đi, và ngay lập tức anh ta quay lại lườm tôi như thể muốn nói “Mày là thằng khốn nào đấy?” Tôi ư? Chỉ là một thằng nhóc 18 tuổi, cố gắng gây ra cho anh đôi chút khó khăn. Tôi chỉ cố vật nhau với nhà vô địch World Cup thôi mà! Vieira lúc nào cũng cực kỳ tự tin, còn tôi thì cố làm tất cả những gì có thể để khiến anh ta bị phân tâm, lúc thì kéo áo, lúc thì đeo bám, và cứ mỗi giây trôi qua tôi lại học thêm được một chút về tâm thế mà mình cần có để có thể tồn tại trong cuộc chiến ở giữa sân. Bởi vì cực kỳ tôn trọng Vieira, tôi mới tỏ thái độ thù địch trước mặt anh ấy. Thật thất vọng là cách chơi bóng như thế đã không còn tồn tại nữa. Tôi không phải là mẫu hung hăng, nhưng tôi thích sự thù địch kiểu tay chân như thế - chúng tôi dành cả 90 phút để tắc, thúc chỏ và xô đẩy nhau (ngày xưa là chuyện nhỏ nhưng bây giờ chắc là đủ ăn thẻ đỏ). “Làm gì thế kia, Michael, cố chiến nhau với Vieira à!” Coley trêu tôi. Nhưng anh ấy không sai. Tôi đã bị trận đấu cuốn đi, nhưng tôi thấy thế cũng tốt. Tôi đang trở lại là tôi của những ngày còn chơi bóng trên sân trường, không bao giờ chấp nhận bị đẩy ra ngoài cuộc chiến. Nếu tôi né tránh đụng độ với Vieira, anh ta sẽ cứ thế bước qua xác tôi. Chiến đấu là cách để tôi nói với Vieira rằng, “Tôi vẫn đang ở đây nè. Tôi sẽ không lẩn đi đâu cả. Anh có thể chơi hay hơn tôi, anh có thể giành chiến thắng, nhưng anh sẽ không bao giờ bắt nạt được tôi.” Tôi trưởng thành từng chút một theo cách đó.
Mỗi trận đấu mang tới một thử thách mới. Trong trận đấu khai màn mùa giải 2000-01, tôi đụng mặt Dennis Wise, và nhanh chóng nhận ra đấy là một trải nghiệm không dễ chịu chút nào. Tiền vệ của Chelsea là một người rất quái, hắn cố tình khiến tôi phát điên lên và lúc nào cũng tìm cách khiến tôi phải lĩnh thẻ. Hắn giẫm lên chân tôi, không ngừng véo vào phần dưới cánh tay tôi. Wise cũng tặng cho tôi mấy cú tắc, một cách để dằn mặt tôi, nhưng tôi chẳng vừa, cũng tặng lại cho gã mấy cú. Bạn cần phải hiểu rằng đây là chuyện chiến hay chạy, và không đời nào tôi để cho Wise đe dọa được mình. Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi luôn cảm thấy khó chịu khi nghe ai đó phàn nàn rằng, “Michael Carrick có biết tắc bóng đâu.” Thực tế là ngày trước, tôi tôn thờ những cú tắc mẫu mực. Cũng trong mùa giải năm đó, tôi có lần đầu tiên đối đầu với đối thủ rắn nhất: Roy Keane. Chúng tôi đã gặp Manchester United ở Upton Park trước đó, nhưng trận đấu mà tôi ấn tượng mãi là trận thuộc vòng bốn FA Cup diễn ra trên sân Old Trafford vào tháng 1 năm 2001. Đó là trận đấu mà tôi phải một mình đương đầu với quyền lực của Keane, cũng là trận đấu cho tôi thấy được tầm vóc và sức mạnh của Manchester United. Trên xe buýt từ khách sạn Worsley Marriott tới Old Trafford, tôi không thể tin vào mắt mình khi thấy hàng vạn cổ động viên United ùn ùn kéo về sân vận động. Đó là lúc tôi nhận ra Manchester United còn hơn cả một câu lạc bộ bóng đá. Họ là một tôn giáo. Tôi nhìn các cổ động viên tất tả hướng về Old Trafford và liên tưởng tới cảnh các con chiên vội vã tiến về nhà thờ để kịp giờ làm lễ. Tôi cũng bắt đầu hiểu United có ý nghĩa lớn lao như thế nào với mọi người.
Trong đám đông ở cạnh đường hầm, tôi nhìn thấy bố mẹ đang đứng với bố của Stevie Bywater, ông David, bố mẹ của Coley, George và Sue. Những cổ động viên trung thành nhất, lúc nào cũng có mặt. Như trong hầu hết các trận đấu, bố mẹ đã có mặt từ sớm chỉ để vẫy chào khi tôi bước xuống từ xe buýt. Tôi vẫy tay chào lại, rồi hướng thẳng tới Old Trafford, tâm trạng xen lẫn cả háo hức và tò mò. Tôi hy vọng là United sẽ tung ra sân một đội hình mạnh, bởi vì tôi muốn đối đầu với những người giỏi nhất. Nhìn vào đội hình xuất phát của họ, tôi biết là mình đã được toại nguyện. Fabien Barthez, Gary Neville, Jaap Stam, Mikaël Silvestre, Denis Irwin, David Beckham, Roy Keane, Nicky Butt, Ryan Giggs, Teddy Sheringham và Andy Cole. Đội hình đá chính toàn “hàng khủng”. Và dự bị cũng dữ dằn không kém: Cả Dwight Yorke lẫn Ole Gunnar Solskjaer đều được tung vào sân.
Harry cảnh báo chúng tôi rằng United hôm nay sẽ rất đáng sợ bởi họ vừa bị chỉ trích nặng nề do đã từ bỏ vinh dự bảo vệ chức vô địch FA Cup để dồn sức cho chiến dịch World Cup Championship ở Rio. Họ sẽ ra sân với tất cả sự quyết tâm và thực tế là không có ai tin rằng chúng tôi sẽ sống sót rời Old Trafford. Khi chạy ra khỏi đường hầm nằm ở góc sân, tôi có cảm giác như các khán đài kéo dài tới vô tận, và kích thước của mặt sân cũng thực sự gây choáng ngợp. Được chơi bóng ở đây hằng tuần thì sao nhỉ? - tôi nghĩ. Rồi tôi cũng sớm được trải nghiệm cảm giác đối đầu với Manchester United của Sir Alex Ferguson, họ tấn công dữ dội ngay từ đầu, không muốn cho chúng tôi thời gian để thở. Mấy gã này dữ dội quá, tôi vừa chạy vừa nghĩ. United chơi bóng với sự tự tin gần như có thể gọi là cao ngạo, và tôi lập tức cảm thấy ngưỡng mộ. Keane cố tình dằn mặt Coley, nhưng Joe cũng chẳng vừa, anh đáp trả ngay. Tôi chưa bao giờ có những va chạm theo nghĩa tiêu cực với Keane. Tôi luôn thấy anh là một đối thủ ngay thẳng, rất rắn nhưng đàng hoàng. Sau mỗi lần nhận một cú tắc từ tôi, Keane sẽ đứng dậy và đáp trả bằng một cú tắc khác. Anh cũng giống như Paul Scholes, Butt và Vieira. Nếu tôi dành cho họ một cú tắc quyết liệt nhưng đúng luật, họ thậm chí còn trân trọng nó. Tất nhiên là họ sẽ đáp lại với một cú tắc còn quyết liệt hơn, nhưng đấy vẫn là một cuộc chiến theo kiểu cũ, đầy tinh thần thượng võ, không hề có gì ám muội. Không có những trò bẩn kiểu cố tình dùng thủ đoạn hạ thủ ai đó. Tất cả chỉ đơn giản là trái bóng nằm đó, ai nhanh hơn, mạnh hơn thì có được nó. Trong những ngày ấy, bạn phải đủ thông minh để làm sao vừa tắc được bóng nhưng vừa tự bảo vệ được bản thân.
Chơi bóng gần Nicky Butt, suy nghĩ đầu tiên của tôi là, Chúa ơi, tại sao anh ấy lại không nhận được sự tôn trọng mà anh ấy xứng đáng được hưởng? Có lẽ bởi Butt là đồng đội của những chân chuyền xuất sắc như Scholes hay Beckham, nên người ta không nhận ra bản thân anh cũng là một chân chuyền thượng hạng. Không chỉ là một chân chuyền, anh còn là một chân... chạy - lúc nào tôi cũng thấy anh di chuyển, lên xuống, tới lui, đúng mẫu tiền vệ box-to-box điển hình và thực sự là một cơn ác mộng nếu không may phải làm đối thủ của anh. Hôm đó chúng tôi rời Old Trafford trong niềm vui chiến thắng với công đầu thuộc về Paolo Di Canio. Nhưng tôi còn có một suy nghĩ khác, Đây chính là nơi mà tôi muốn chơi thứ bóng đá của mình. Đấy là một giấc mơ xa vời, tất nhiên, nhưng tôi tự hứa với mình rằng sẽ cố gắng trở nên giỏi nhất có thể và một ngày nào đó có thể có cơ hội được chơi bóng cho Manchester United.
Bây giờ nhìn lại, tôi tự thấy mình đã quá may mắn khi được tiếp nhận nhiều nguồn ảnh hưởng tích cực trong những năm đầu của sự nghiệp. Xung quanh tôi trong phòng thay đồ của West Ham là những nhân vật đầy sức lôi cuốn, như thủ môn Shaka Hislop, người lúc nào cũng ồn ào nhưng rất tốt bụng. Trevor Sinclair thì luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi. Lisa thậm chí còn tới ở cùng với vợ anh, Nat, trong những lúc chúng tôi phải chơi bóng xa nhà cho đỡ cô đơn. Paolo Di Canio thì hết sức thất thường. Khi anh hưng phấn, không ai có thể cản được anh, nhưng khi anh mất hứng, không ai có thể quản nổi anh. Hình ảnh nổi tiếng khi Di Canio ra dấu yêu cầu Harry thay anh ra trong trận đấu ở Upton Park hồi tháng 2 năm 2000 sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi. Lúc ấy chúng tôi đang bị Bradford dẫn với tỷ số 4-2 và Di Canio thì đang rất bực tức với trọng tài Neale Barry, người đã không cho chúng tôi hưởng penalty sau khi Di Canio bị hết Gunnar Halle rồi tới David Wetherall phạm lỗi. Di Canio xoay ngón tay trên đầu, đi một mạch hơn 45m tới thẳng khu kỹ thuật rồi ngồi thụp xuống, yêu cầu được thay ra. Giống như đang tham gia đình công vậy.
“Tôi không đá được nữa đâu,” anh gào lên với Harry. “Lão trọng tài bị điên rồi. Cho tôi ra đi.” Tôi ngồi ngay hàng đầu trong khu kỹ thuật nên có thể theo sát diễn biến của toàn bộ vở kịch từ đầu đến cuối, và gần như không thể tin nổi vào mắt mình.
“Không, Paolo, làm ơn đi, chúng tôi cần cậu!” Harry nói. “Chúng ta đang thua. Trở lại sân đi.” Cuối cùng thì Paolo cũng chịu quay lại sân, và... ghi bàn.
Joe ghi bàn gỡ hòa trước khi Frank ấn định chiến thắng 5-4 với bàn thắng ở cuối trận. Trận đấu đó là trận ra mắt đội Một West Ham của Stevie Bywater. Sau khi Frank ghi bàn, Stevie đã làm một việc... rất Stevie là quay lại để xem pha chiếu chậm bàn thắng của Frank trên màn hình lớn ở khán đài phía sau, và ăn mừng với các cổ động viên. Cầu thủ Bradford giao bóng, phát hiện ra Stevie đang đứng ở góc của khu 16m50 nên thực hiện cú đá ngay. Bóng bay rồi Stevie mới nhận ra và hoảng loạn. Nhưng anh cũng nhanh chóng phát hiện ra là bóng sẽ không đi vào khung thành, nên lập tức thay đổi thái độ, vừa chậm rãi bước đi vừa giơ tay lên trời như muốn nói, “Bình tĩnh nào, mọi việc ổn rồi.” Nhưng Harry thì phát điên. Còn chúng tôi thì “đóng bỉm” cả. Hiếm ai táo tợn như Stevie, mà nên nhớ lúc đó anh mới có 18 tuổi thôi đấy!
Paolo Di Canio là người mang hai nhân cách: vào một ngày anh sẽ là một nhà chuyên nghiệp thực thụ và tập luyện rất chỉn chu, nhưng tới ngày hôm sau, anh kiểu gì cũng gây chuyện, cãi cọ rồi bỏ đi. Harry chỉ biết hét với theo: “PAOLO!” Ngày tiếp theo anh sẽ trở lại và làm như thể không có điều gì xảy ra. Harry chấp nhận chịu đựng sự đồng bóng của Di Canio, bởi vì ông biết anh có thể làm được những gì trong những ngày nghiêm túc, nhất là ở Upton Park. Tôi thường nghe Harry phỉnh phờ Paolo, nhắc đi nhắc lại cho anh biết anh quan trọng với đội bóng, với ông và với các cổ động viên thế nào. Tôi rất thích quan sát cách Harry xử lý những cầu thủ khác người, bởi vì ông thực sự là một bậc thầy trong việc đó. Ông biết cách điều chỉnh phản ứng của mình cho phù hợp với đặc điểm tâm lý của từng cầu thủ. Với Paolo Di Canio thì cần phải thận trọng và tỉ mẩn, giống như khi ta tháo kíp một quả bom vậy. Jimmy Bullard thì lại là một kiểu hoàn toàn khác. Tôi không bao giờ quên được chuyện anh xin Harry cho nghỉ tập một ngày để đi câu cá. Tất nhiên là bạn có thể đoán được Harry sẽ trả lời anh như thế nào. Jimmy được mua về từ một đội bóng bán chuyên, Gravesend & Northfleet, nên không hoàn toàn hiểu được những đòi hỏi của bóng đá chuyên nghiệp.
Harry thường công bố đội hình ra sân ngay trước giờ bóng lăn. Chúng tôi sẽ gặp nhau ở Upton Park, có một cuộc họp đội trong phòng thay đồ vào lúc 1 giờ 30 chiều cho những trận đấu sẽ diễn ra từ 3 giờ. Harry sẽ ghim đội hình xuất phát trên tấm bảng trong phòng thay đồ, sau đó rút lui về văn phòng của ông ở ngay bên cạnh theo cách như thể ông vừa châm ngòi cho một quả bom vậy. Nếu Harry lỡ loại một cầu thủ dễ nổi nóng, anh ta sẽ lập tức lao sang văn phòng của ông và từ đó phát ra đủ loại âm thanh náo nhiệt. Họ sẽ tranh cãi cho hết lý hết lẽ thì thôi. Và đó là chuyện được xem là hoàn toàn bình thường. Ở West Ham lúc ấy, chúng tôi có những cá tính như thế, trong một văn hóa như thế. Không có chuyện ngại ngần!
Stuart Pearce là một trong những cầu thủ mà tôi ngưỡng mộ nhất. Điều ấn tượng nhất ở anh chính là sự tận tụy vô biên. Mỗi ngày, anh đều lái xe vượt qua quãng đường gần 100km từ Wiltshire tới London để tập luyện. Tại sao anh ấy vẫn làm điều đó? Tôi tự hỏi. Ở tuổi 38, đâu là động lực cho anh ấy? Tôi không thể tin nổi cách mà anh gần như hy sinh cả cơ thể của mình để được chơi bóng, như thể là bệnh tật và chấn thương chẳng có chút xi nhê nào đối với anh vậy. Một trong những trận đấu cuối cùng của mình, gặp Chelsea vào tháng 3 năm 2001, Pearce bị lật cổ chân và bị thay ra chỉ sau 11 phút. Nhìn vào mắt cá của anh khi vào phòng thay đồ, tất cả những gì tôi thấy chỉ là một vùng thâm tím, nên tôi đoán là anh sẽ phải rời xa sân cỏ trong ít nhất sáu tuần - mà đấy là tôi còn lạc quan. Giống như mọi người khác, tôi biết anh cứng đến mức nào, nhưng tôi vẫn bị sốc toàn tập khi thấy anh nhảy lò cò ra sân tập chỉ sau có bốn ngày. Chúng tôi chuẩn bị đối đầu với Spurs ở FA Cup, nên có thể anh ấy nghĩ rằng, Đây có thể là trận đấu cuối cùng của mình ở giải đấu. Thế là anh quấn chặt mắt cá, rồi nói, “Tôi sẽ chơi trận này”. Không ai phản đối cả. Thực ra đâu có ai dám phản đối Pearce chuyện gì. Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau ngạc nhiên khi anh chuẩn bị cho giờ ra sân. Không chỉ đá được trận ấy, anh còn đá tốt, thậm chí ghi bàn. Anh lúc nào cũng hừng hực quyết tâm như thế, ngay cả trong các buổi tập. Anh ghét thất bại, và tôi có thể dễ dàng hiểu được vì sao người ta đặt cho anh biệt danh “Gã điên”. Những lúc anh mà nổi điên lên thì thôi rồi, anh tắc bóng cứ như thể muốn cho người ta đi viện luôn, ngay cả trong tập luyện. Anh là một trong những cá tính mạnh khiến tôi tự nhiên cảm thấy bị lôi cuốn và muốn được học hỏi. Tôi thường xem anh khởi động, với sự tỉ mẩn tới khó tin. Anh treo một cái đồng hồ trong phòng thay đồ để có thể biết chính xác giờ nào thì tập bài gì. Một hôm, John Moncs lấy mất cái đồng hồ, và thế là Pearce phát điên lên. Anh là người cầu toàn, chỉ có điều đôi khi khiến người ta thấy sợ vì sự cầu toàn của mình.
Trong khi đó, Moncs lại là một gã điên, một cây hài của đội. Trong một ngày lạnh cắt da cắt thịt ở Chadwell Heath, người phụ trách quần áo của đội, Stan Burke, đang ở trong văn phòng nhỏ của mình làm những việc quen thuộc như là kiểm kê tất. Stan giữ đồ rất kỹ, nên đừng có mơ ông cho ai thêm một cái gì, chẳng thà chặt tay ông đi còn hơn. Moncs vẫn cố lèo nhèo xin thêm một cái áo, nhưng Stan rất cương quyết. “Không là không”. “Đã thế đếch thèm,” Moncs nói, rồi chạy ra ngoài làm một vòng quanh sân khi trên người chỉ có mỗi giày và tất. Tôi có thể khẳng định, về độ điên thì Moncs cũng chẳng kém gì Gazza ở Spurs. Nhưng các cổ động viên của West Ham yêu anh lắm.
Chúng tôi chơi rất tốt ở Upton Park bởi vì ở đó các cổ động viên ngồi rất gần đường biên, tới mức nếu ta nhìn lên các khán đài dốc đứng, ta có cảm giác như các cổ động viên đang ngồi ngay trên đầu mình. Khu Chicken Run khiến nhiều đối thủ khiếp sợ. Đến tôi còn sợ, dù tôi chơi cho West Ham. Tôi chưa lên khu Chicken Run bao giờ, nhưng có cảm giác nó tự tìm đến với tôi trong những lần tôi phải nhận những lời thóa mạ phát ra từ đó.
“Carrick! Thằng bất tài!”
“Biến mẹ mày về Bắc đi.”
“Mày đang làm cái quái gì thế?”
“Tự nhìn lại mày đi, Carrick.”
Nhưng cũng nhờ thế mà tôi chẳng bao giờ dám lơ là. Upton Park thực sự là đất vàng với những nghệ sĩ kiểu Di Canio. Nhưng trên sân khách lại là một câu chuyện khác. Chúng tôi cần phải chơi chắc chắn hơn, đôi khi tới mức nhàm chán, nhưng đấy lại không phải là kiểu của West Ham. Cơ hội giữ sạch lưới của chúng tôi tổn hại nặng nề sau khi Rio Ferdinand chuyển sang khoác áo Leeds United vào tháng 11 năm 2000. Tôi đoán là Rio quá giỏi, quá vượt trội so với những người còn lại nên anh phải tìm kiếm một thử thách mới. Biết trước rằng điều đó sẽ xảy ra không giúp chúng tôi cảm thấy bớt buồn khi để mất đi cầu thủ xuất sắc nhất của mình. Nhưng tôi tôn trọng thái độ của West Ham. Tôi biết đội bóng muốn giữ anh lại nhường nào, và thực tế là các lãnh đạo cũng không ngừng đề nghị anh những bản hợp đồng tốt hơn, nhưng họ hiểu cách thế giới này vận hành. Vào thời điểm đó, Leeds ở một đẳng cấp khác so với West Ham, nên cố giữ Rio lại cũng chẳng khác nào một tội ác. Điều đẹp đẽ về West Ham ở thời điểm ấy là họ giống như những ông bố - bà mẹ tốt, hết lòng chăm sóc những đứa con như Rio, cho chúng tình yêu, và thấu hiểu khi chúng muốn rời xa gia đình. West Ham cảm thấy có một nghĩa vụ phải chăm sóc các cầu thủ, và điều đó xuất phát từ những người ở vị trí cao nhất, những người như Harry và Chủ tịch Terry Brown. Leeds đang cạnh tranh cho chức vô địch Premier League và Champions League, thế nên West Ham khó mà cản được Rio đến đó, nhất là khi khoản phí chuyển nhượng 18 triệu bảng cũng đủ hấp dẫn.
Khi Harry theo bước Rio rời đi sáu tháng sau đó, tháng 5 năm 2001, tôi đã bị sốc. Thời gian của Harry ở West Ham đã cạn nên việc ra đi là khó tránh khỏi. Và tôi cũng nhanh chóng học được cách vượt qua mọi biến động để bước tiếp trong cuộc đời bóng đá. Rất nghiệt ngã, đúng thế, nhưng cũng rất thực tế. Với những người chuyên nghiệp thì khi một huấn luyện viên ra đi, chuyện chỉ đơn giản là “cảm ơn và tạm biệt”. Tôi luôn luôn cảm thấy biết ơn và trân trọng Harry bởi vì ông chính là người đã trao cho tôi cơ hội, khiến tôi thêm tin tưởng vào bản thân mình, nhưng bây giờ, tôi chỉ muốn toàn tâm toàn ý với vị huấn luyện viên mới. Tôi biết rõ Glenn Roeder vì ông từng huấn luyện các cầu thủ thuộc đội năng khiếu - những người như tôi, một thời gian là Coley, Rich, Mick, Byrney - và tất cả chúng tôi đều yêu quý ông. Khi Glenn được bổ nhiệm làm huấn luyện viên, mọi chuyện thay đổi. Một barie mới được dựng lên giữa chúng tôi. Nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng Glenn không thể nào vẫn tiếp tục là một người dễ thương như trước, ông cần phải giữ khoảng cách với chúng tôi. Trong mùa giải đầu tiên với Glenn, mọi chuyện đều rất ổn, chúng tôi về đích ở vị trí thứ bảy.
Tháng 7 năm đó, đội bóng đề nghị trao cho tôi áo số 6, là số áo cũ của Bobby Moore! Không một chút chần chừ, tôi gật đầu ngay. Một vinh dự quá lớn! Tôi hiểu chiếc áo số 6 có ý nghĩa với những người ở West Ham nhiều đến thế nào. “Số 6!!! Số của Bobby Moore đấy!!!” là điều mà các cổ động viên sẽ nói với tôi. Cá nhân tôi thì không bao giờ cảm thấy chuyện số áo có gì phải ầm ĩ, và tôi cũng không bao giờ xem lịch sử như một gánh nặng, nhưng tôi thực sự tôn trọng chiếc áo số 6 mà tôi sẽ mặc. Chúng tôi bắt đầu mùa giải 2002-03 trong tâm trạng lạc quan. Tôi vẫn luôn tin rằng sự kiện ngày 24 tháng 8 năm 2002 là bước ngoặt của đội bóng dưới thời Glenn. Chúng tôi đã chơi rất hay trong trận đấu với Arsenal, dẫn trước 2-0 với thứ bóng đá tuyệt vời. Nhưng rồi Thierry Henry ghi một bàn thắng từ trên trời rơi xuống, trước khi Sylvain Wiltord gỡ hòa lúc trận đấu chỉ còn 2 phút. Cả sân Upton Park bị sốc nặng, bởi chúng tôi đã ở rất gần chiến tích đánh bại nhà đương kim vô địch. Chúng tôi không bao giờ còn có thể tìm lại được cái đà của mình, và các cổ động viên bắt đầu quay lưng với đội. Khi mọi chuyện đều ổn, họ là những cổ động viên tuyệt vời nhất, nhiệt thành nhất. Nhưng, cũng chỉ vì họ quá yêu West Ham và muốn những điều tốt đẹp cho đội bóng, họ sẽ lập tức thể hiện thái độ ngay khi những trận đấu không còn kết thúc với kết quả như ý. Các cổ động viên của West Ham bắt đầu tấn công Glenn, kẻ nào đó thậm chí còn ném gạch vào cửa sổ nhà ông. Đó là hành động khó mà chấp nhận được. Không còn là chuyện bóng đá, không còn là trò chơi, không còn là chuyện tình yêu với đội bóng nữa. Chẳng có huấn luyện viên nào đáng bị người ta tấn công cả nhà của mình. Hành động ấy đã đi quá giới hạn và khiến tôi thấy bệnh. Họ đang đe dọa mạng sống của một con người, đe dọa sự an nguy của một gia đình. Tưởng tượng nếu một trong những mảnh kính vỡ bay vào người một trong ba đứa trẻ nhà Glenn thì sao? Các cổ động viên có thể tới Upton Park và bày tỏ những cảm xúc của họ, nhưng nếu muốn, có đủ cách để người ta có thể phản đối trong hòa bình. Không ai đáng phải chịu đựng những gì Glenn đã phải trải qua.
West Ham vẫn còn đó những cầu thủ rất quyền lực trong phòng thay đồ như David James và Christian Dailly, những người rất bộc trực. Lomas, Moncur, Sinclair, Di Canio, Hutchison, Nigel Winterburn và Tomás Repka cũng đều là những trụ cột đã chinh chiến ở khắp mọi miền đất nước chứ không chỉ loanh quanh ở West Ham hay London. Tôi sợ rằng nếu chúng tôi thua thêm vài trận nữa, Glenn sẽ không còn có thể kiểm soát được một nhóm cầu thủ lúc nào cũng sẵn sàng đưa ra những ý kiến quyết liệt như thế. Cá nhân tôi tự thấy mình đã phụ lòng Glenn, bởi tôi không có nhiều đóng góp cho đội bóng của ông. Ngay từ trước khi mùa giải đó diễn ra, tôi đã gặp vấn đề với vùng bẹn, kiểu gần như thoát vị. Tôi vẫn cố gắng chống chọi, vẫn ra sân hết trận này tới trận khác, nhưng cuối cùng, trong trận đấu trên sân St Mary’s vào tháng 1 năm 2002, tôi cảm thấy mình hết chịu nổi và buộc phải rời sân. Cứ mỗi lần dùng má ngoài để chuyền bóng là một lần tôi cảm nhận được một cơn đau nhức nhối chạy xuyên qua xương háng. Bác sĩ Steven Snooks là người mổ cho tôi. Ông cấy lưới vào cả bên phải lẫn bên trái, và dự đoán là tôi sẽ phải nghỉ thi đấu “khoảng sáu tuần”. Tôi cố gắng trở lại sớm hơn vì muốn chung tay với Glenn và đội bóng, ngay cả khi cảm giác khó chịu vẫn đeo bám. Trận đấu đầu tiên sau khi tái xuất của tôi là gặp Manchester United ở Upton Park. Chúng tôi thua 5-3, và tôi vẫn không hiểu làm cách nào mà tôi có thể trụ được hết trận đấu đó. Tôi rõ ràng không ổn. Tôi lại ra sân trong trận đấu với Bồ Đào Nha trong màu áo đội U21 Anh không lâu sau đó. Đội thua 4-2, còn tôi thì không bao giờ quên được cảm giác đau đớn khi chấn thương cũ tái phát sau khi cố gắng thực hiện một đường chuyền. Tôi lại phải lên bàn mổ.
Cho tới khi vị bác sĩ phẫu thuật rạch đùi tôi ra thì tôi mới biết rằng các tấm lưới đã bong và cuộn hết lại. Cuộc phẫu thuật thứ hai diễn ra trong mùa hè năm đó không giải quyết được rốt ráo vấn đề của tôi. Các cổ động viên của West Ham bắt đầu mất kiên nhẫn. Tôi nghĩ tôi có một mối quan hệ tốt đẹp với các cổ động viên, vì tôi biết rằng họ luôn muốn được nhìn thấy những cầu thủ trưởng thành từ lò đào tạo của câu lạc bộ chơi bóng cho đội Một. Tình cảm của họ cũng giống như của những bậc làm cha làm mẹ đã tự tay nuôi dưỡng và chứng kiến đứa con của mình trưởng thành. Nhưng rồi tôi cũng nhanh chóng nhận ra rằng kỳ trăng mật sẽ sớm qua đi, và tới khi đó thì lũ trẻ “nhà đào tạo được” như chúng tôi cũng sẽ phải chịu sự soi xét như bất kỳ cầu thủ nào khác. Lúc này, chúng tôi đang ở gần cuối bảng xếp hạng, còn tôi thì chơi không tốt, và đương nhiên là Chicken Run sẽ không để yên. Nếu như hồi nhỏ thì tôi sẽ thu mình lại, nhưng tôi tự nói với bản thân: cách phản ứng tốt nhất là tiếp tục làm những điều mà mình cho là đúng đắn và thoát ra khỏi mớ bòng bong này. Frank thường xuyên bị các cổ động viên đối xử bất công, và anh đã chứng tỏ anh rắn rỏi thế nào, vì thế tôi cũng thề là mình sẽ làm được như vậy. Nhưng dù sao thì tôi vẫn thấy khó chịu. Tôi vẫn rất thích các cổ động viên của West Ham vì khiếu hài hước đi kèm với chất Cockney trong họ.
Bản thân đang là trung tâm của những cơn giận dữ từ các cổ động viên, tôi cảm thấy cơn bão ở Upton Park còn lâu mới có thể tan biến. “Michael, trận đấu ngày mai cậu sẽ ngồi dự bị,” Glenn nói. Đó là trận đấu diễn ra trên sân của Tottenham. Tôi không bao giờ quên được ngày đó, ngày 15 tháng 9 năm 2002. Đấy là một trận đấu quan trọng, nhưng là trận đầu tiên tôi bị loại khỏi đội hình, mà tôi nghĩ là cũng chẳng oan ức gì. Tôi vẫn gắng gượng lết đi, nhưng háng tôi không chịu khỏi, và tới giữa tháng 3 thì tôi hoàn toàn không còn có thể đóng góp gì cho cuộc chiến trụ hạng của đội bóng nữa. Lúc đó, West Ham vẫn đang trên một hành trình đi xuống. Các cổ động viên dường như chịu hết nổi và đã thể hiện điều đó trong trận đấu với Boro ở Upton Park vào tháng 4 năm 2003. Glenn đột nhiên bất tỉnh và lập tức được đưa tới bệnh viên, thẳng vào phòng mổ; ở đó, các bác sĩ phát hiện ra ông có một khối u lành tính trong não. Tạ ơn Chúa, Glenn đã gặp được bác sĩ tốt và mọi nguy hiểm rồi cũng qua. Đó là tất cả những gì đáng quan tâm vào lúc ấy. Ông là một người tốt, nhưng bị đặt vào một tình thế quá sức chịu đựng. Chuyện xảy ra với Glenn khiến chúng tôi có cái nhìn rõ ràng hơn về tình trạng của mình. West Ham đang trong tình trạng rối loạn và lại rơi vào cảnh rắn mất đầu. Ai đó cần phải bước ra và lấp vào vị trí mà Glenn bỏ lại, vì thế Trevor Booking, huyền thoại của đội mà tất cả đều tôn trọng, được chọn dẫn dắt đội trong ba trận đấu cuối cùng của mùa giải. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Trev là mẫu hiền từ và lịch thiệp, nhưng thực tế là trong ông còn có một phần sắt đá và cố chấp, điều mà chúng tôi thực sự cần ở thời điểm đó. Ấn tượng lớn nhất về Trev là tình yêu mà ông dành cho West Ham, nhưng rõ ràng chúng tôi cần nhiều hơn tình yêu để có thể trụ hạng. Chúng tôi cần một điều kỳ diệu.
Trong ngày cuối cùng của mùa giải, West Ham gặp Birmingham, và để có thể trụ hạng, chúng tôi phải có được kết quả tốt hơn kết quả mà Bolton Wanderers sẽ có trong trận đấu với Boro. Lúc đó vẫn đang chấn thương, tôi và Ian Pearce cùng đi tới sân St Andrew vào buổi sáng ngày diễn ra trận đấu. Chúng tôi theo dõi trận đấu từ khán đài. Không lâu trước khi trận đấu kết thúc, Di Canio ghi bàn gỡ hòa 2-2 cho West Ham. Nhưng vì Bolton đã thắng trong trận đấu cùng giờ ở Reedbok, nên chúng tôi quyết định đi xuống. Khi chúng tôi đang đi, các cổ động viên của Birmigham từ cả hai phía khán đài bất ngờ đá vào tôi và Ian. Họ đá túi bụi, trái, phải, giữa. Chắc chắn là họ đã hoàn toàn quên rằng tôi từng chơi bóng cho họ! Chúng tôi không có chút cơ may nào trong việc tự bảo vệ bản thân, nên chỉ còn cách là cố thoát ra khỏi đó nhanh nhất có thể.
Khi vào tới hành lang bên ngoài phòng thay đồ, tôi gặp một số cầu thủ khác, tất cả đều suy sụp, rõ ràng là bị sốc và không ai nói với ai câu nào. Không ai trong chúng tôi có thể chạy trốn khỏi thực tế là chúng tôi đã khiến đội bóng và các cổ động viên thất vọng. Nhiều cầu thủ rời đi ngay trong mùa hè năm đó. Khi tôi trở lại Chadwell Heath để chuẩn bị cho mùa giải mới, chỉ còn khoảng 10 hay 11 cầu thủ ở lại. Chúng tôi mất đi nhiều cầu thủ rất quan trọng: Di Canio sang Charlton, Fredi Kanouté tới Spurs, Les Ferdinand về Leicester và Trevor Sinclair qua Man City. Glen Johnson, người đột ngột nổi lên từ đội trẻ và được ra sân thường xuyên trong bốn tháng cuối cùng của mùa giải trước, cũng theo chân Coley tới Chelsea, nơi họ sẽ gặp lại Frank Lampard, người đã chuyển tới từ một năm trước đó. Rio Ferdinand thì đã Bắc tiến từ lâu rồi. Cảm giác như một kỷ nguyên vừa mới khép lại ở West Ham. Jermain Defoe đưa ra một yêu cầu được chuyển nhượng gần như ngay sau khi hồi còi khép lại mùa giải cất lên. Tôi hiểu được lý do tại sao anh lại muốn ra đi, nhưng cách anh chọn thời điểm là không hợp lý một tí nào, và tôi ngờ là anh chỉ nhận ra điều đó sau khi sự đã rồi. Tôi đứng đó, nhìn những đồng đội của mình cứ lần lượt rời đi. Thực tế là rất khó chấp nhận, nhưng tôi không thể trách họ một lời. Họ cần phải nghĩ cho sự nghiệp của mình. Tôi đã không thể góp mặt trong một phần của cuộc chiến trụ hạng, và mùa giải của tôi là một thảm họa, nên tôi tự thấy mình có nghĩa vụ phải ở lại để chung tay đưa đội bóng thoát ra khỏi những ngày đen tối phía trước. Tôi ở lại vừa vì thấy tội lỗi vừa vì lòng trung thành.
Newcastle muốn có tôi, nhưng họ lại không có tiền. “Chúng tôi sẽ đề nghị mua cậu với giá 2 triệu, nhưng chỉ có thể làm thế vào kỳ chuyển nhượng tiếp theo, nên cậu sẽ phải cố bám trụ ở đây,” họ nói với tôi. Đấy là kiểu làm ăn quá thể kỳ lạ, có cảm giác là họ không thực sự chắc chắn muốn có tôi hay không, nên tôi quyết định rất rõ ràng là mình sẽ tiếp tục gắn bó với West Ham.
Những gì tôi thấy ở Chadwell Heath trong giai đoạn trước mùa giải là một câu lạc bộ đang chìm trong sầu thảm. Cảm giác khi thấy hết người này tới người kia mất việc, hậu quả của việc bị rớt hạng, thật khủng khiếp. Mỗi lần hỏi khi nhận thấy một vài gương mặt thân quen không còn xuất hiện, tôi đều nhận được câu trả lời buồn bã, “Họ bị sa thải rồi”. Tôi ghét phải nghĩ về những hệ lụy của việc đó lên cuộc sống và gia đình của họ, những tổn thất về cả tài chính lẫn tinh thần mà nó gây ra, nên tôi lại càng thêm quyết tâm tìm lại sự sung mãn để đưa West Ham trở lại. Tôi vẫn gặp những vấn đề cũ với cái háng của mình, thế nên, lo sợ rằng bản thân sẽ không bao giờ có thể hết đau, vào tháng 8, tôi quyết định tới Leicester để gặp bác sĩ David Lloyd, người đã mổ cho tôi bằng một kỹ thuật khác. Thay vì đặt các tấm lưới ở phía sau háng, ông đặt chúng ở phía trước. Vì dùng kỹ thuật vi phẫu, nên tôi chỉ phải nghỉ có hai tuần. Bác sĩ Lloyd cũng làm gì đó với một trong các dây chằng để giải tỏa bớt áp lực. Phương pháp ấy đã phát huy tác dụng, nên từ đó về sau tôi không còn gặp vấn đề gì.
Glenn cũng đã trở lại, và tôi càng thêm ngưỡng mộ ông vì điều đó. Ông có thể chọn cách từ bỏ, không tự đặt mình dưới tất cả những áp lực đó một lần nữa sau những gì đã xảy ra. Nhưng tình yêu với bóng đá đã kéo Glenn trở lại. Tôi rất thích thú với các buổi tập dưới thời Glenn. Ông là một huấn luyện viên tuyệt vời. Nhưng rất tiếc là ban lãnh đạo lại quyết định sa thải ông chỉ sau có ba trận, và West Ham lại trở lại với tình trạng hỗn loạn.
Trevor Brooking một lần nữa phải tái xuất trong vai trò huấn luyện viên tạm quyền. Trước trận đấu trên sân của Derby vào ngày 4 tháng 10 năm 2003, ông kéo Rob Lee ra một góc để tham vấn về tình trạng của tôi. Tôi vẫn chưa hoàn toàn lấy lại được phong độ tốt nhất sau ca phẫu thuật. “Cậu có nghĩ là Michael sẵn sàng trở lại trong trận đấu ngày mai chưa?” Trev hỏi. Rob trả lời: “Rồi. Chúng ta cần cậu ta. Ông phải cho cậu ta ra sân. Cho đá chính luôn ấy.” Rob hẳn đã nghĩ rằng chúng tôi sẽ chơi cùng nhau trên hàng tiền vệ. Trevor: “Ok, cảm ơn Rob. Tôi nghĩ là cậu đúng đấy. Ngày mai cậu ngồi dự bị nha,” nói rồi ông đi luôn. Rob lập tức đem chuyện đấy ra kể với tôi. Quả là hài hước. Nhưng Rob thì không thấy buồn cười lắm. Chúng tôi giành chiến thắng ở Derby. Không lâu sau, vào tháng 9 năm 2003, Alan Pardew tới tiếp quản ghế huấn luyện viên trưởng. Tôi thích các buổi tập của Alan vì chúng rõ ràng, nghiêm túc, và được tổ chức tốt. Tôi biết Alan gây ra nhiều tranh cãi bởi ông quá tự tin, nhưng phong thái đó chính là thứ mà phòng thay đồ đang bị tổn thương của West Ham lúc ấy cần nhất. Cá tính của ông đã vực đội bóng dậy. Ông cũng luôn tốt với tôi, cố gắng để tôi nhận được nhiều bóng nhất có thể. Tuy nhiên, mùa giải đó với tôi vẫn thực sự khó khăn. Tôi lúc ấy 22 tuổi, không hề muốn chơi ở giải Hạng Nhất, nơi chẳng được ai chú ý tới, và tự thấy sự nghiệp của mình đang ở một ngã tư đường. Việc không có tên trong danh sách triệu tập của đội tuyển Anh cũng khiến tôi đau đớn. Chứng kiến Glenn Johnson và Coley thành công ở Chelsea càng khiến cho tinh thần của tôi đi xuống trầm trọng. Có phải là mình đang bị bỏ lại phía sau không? Tôi không ngừng tự hỏi câu đó. Rồi sự nghiệp của mình sẽ đi về đâu?
Ở giải Hạng Nhất, các đội chơi thứ bóng đá rất nặng về thể lực. Khi gặp West Ham, họ còn quyết liệt hơn như thể để chứng tỏ rằng chúng tôi một khi đã thất thế rồi thì cũng chẳng có gì đáng ngại nữa. Tôi vẫn còn một vết sẹo làm kỷ niệm. Trong trận đấu với Stoke City vào tháng 12, một cầu thủ của Stoke, John Eustace, đã thể hiện sự quyết tâm một cách hơi thái quá và khiến cho mắt cá của tôi rách bươm. Trong giờ nghỉ, bác sĩ phải khâu để giữ các miếng da lại với nhau. Lẽ ra tôi nên rời sân luôn. Nhưng không muốn mang tiếng bị đá ra khỏi vòng chiến đấu, nên tôi quyết tâm trở lại sân và chơi tới hết trận, dù phong độ đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Tan trận, các cổ động viên của West Ham lại dành cho chúng tôi thêm những màn thóa mạ mới. Lúc đó tôi chỉ nghĩ, Mắt cá mình tê hết cả rồi, tất cũng đã đẫm máu. Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Lòng cảm thấy cô đơn quá đỗi, tôi không ngừng tự hỏi mình còn có thể làm gì khác hay không. Hay là tại mình không đủ giỏi? Các cổ động viên West Ham đâu có biết tôi đau đớn thế nào. Họ chỉ biết gào lên, “Mày không nỗ lực, mày thiếu đam mê.” Thế đấy, tôi đã hy sinh cả bản thân, để rồi nhận lại toàn những lời thóa mạ. Trong sự nghiệp của mình, tôi khó chịu nhất là khi nghe ai đó nói tôi “thiếu đam mê”. Tôi đá không tốt không có nghĩa là tôi không quan tâm. Đấy là một trong những lần tôi đã không giữ được bình tĩnh khi nghe người ta nói thế.
Thực tình là khi các cổ động viên West Ham đứng về phía chúng tôi, họ có thể làm nên được những điều kỳ diệu. Tới giờ tôi vẫn còn nghe được âm thanh khó tin mà họ tạo ra ở Upton Park khi chúng tôi tiếp đón Ipswich Town trong trận bán kết lượt về vòng play-off giải Hạng Nhất. Chúng tôi đã để thua 0-1 ở trận lượt đi ở Portman Road, nhưng điều đó không những không ngăn cản mà còn thôi thúc các cổ động viên tới lấp đầy Upton Park. Ngay từ khi đang khởi động, tôi đã “ngửi” được thấy “mùi” hy vọng, thậm chí là khát khao, rằng chúng tôi sẽ có mặt trong trận chung kết. Dưới ánh đèn, Upton Park trở nên thực sự đặc biệt. Tôi luôn có cảm giác hưng phấn kỳ lạ mỗi khi lái xe dọc theo đường Green Street để hướng về sân vận động lúc đó đã sáng rực trong ánh đèn. Trong những đêm lớn, bầu không khí ở đây thực sự khiến ta ngộp thở. Nên bạn có thể tưởng tượng được khung cảnh trong trận đấu với Ipswich, khi Matty Etherington và Christian Dailly ghi bàn cho chúng tôi. Bàn thắng của Matty là một tuyệt phẩm sau cú sút từ góc vòng cấm.
Chúng tôi tới Cardiff để chơi trận chung kết với Crystal Palace. Hoàn toàn có thể xem đó là thời khắc định hình sự nghiệp của tôi. Tôi biết rằng nếu chúng tôi đánh bại đội bóng của Iain Dowie, tôi sẽ tiếp tục gắn bó với West Ham. Hợp đồng của tôi vẫn còn thời hạn một năm, và nếu chúng tôi trở lại Premiership, thì tại sao lại phải ra đi? West Ham lúc đó thiếu tiền trầm trọng, nhưng nếu giành quyền thăng hạng, chúng tôi sẽ có khoảng 30 triệu bảng, đủ để không phải rơi vào cảnh bán tống bán tháo một lần nữa. Tôi tin là có hơn 35.000 cổ động viên West Ham tới sân Millennium để cổ vũ cho chúng tôi trong trận chung kết. Họ biết được tầm quan trọng của trận đấu này với đội bóng của họ. Còn tôi thì biết được tầm quan trọng của nó với chính mình: thắng thì tôi ở lại, thua thì tôi đi. Ý tôi đã quyết. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để giúp West Ham thăng hạng. Tôi kiến tạo cho Bobby Zamora một cơ hội đẹp nhưng anh ấy không thể tận dụng được, và khi trận đấu còn 7 phút, trong tình thế đang bị dẫn bàn, tôi lẽ ra đã kiếm được về cho đội một quả penalty. Sau khi xâm nhập vòng cấm, tôi đẩy bóng vượt qua Mikele Leigertwood và anh ta đá vào mắt cá của tôi - 100% penalty, không còn phải nghi ngờ. Tôi lăn lộn trên sân, quá đau để có thể phản đối quyết định của trọng tài Graham Poll, người đã xua tay cho trận đấu tiếp tục. Mắt cá tôi sưng vù lên ngay lập tức. Chấn thương mà tôi gặp phải hồi được cho mượn ở Birmingham đã tái phát. Tôi vẫn gượng dậy được, nhưng mắt cá của tôi đau tới mức tôi không thể nhúc nhích trong ít phút sau đó. Chúng tôi đã sử dụng hết quyền thay người, nên tôi gần như chỉ có thể tập tễnh trên sân trong 10 phút cuối trận. Bạn thấy đó, một quyết định tồi của trọng tài có thể thay đổi toàn bộ tương lai của một cầu thủ, thậm chí một đội bóng. Nếu Poll thổi penalty, chúng tôi có thể đã đưa trận đấu trở lại vạch xuất phát, có thể đã thắng, có thể thăng hạng, và tôi có thể đã ở lại.
Để cho nhẹ đầu, Lisa và tôi quyết định đi trốn ở Jumeirah Mina A’Salam, Dubai. Người đầu tiên mà tôi gặp ở bể bơi lại chính là Iain Dowie. Dù đã đi xa hơn 5.000km, tôi vẫn không thể nào trốn được trận play-off. Tôi có một cuộc trao đổi ngắn với Ian, chúc mừng ông vì thành tích thăng hạng, cố gắng giấu đi nỗi đau thất bại và cảm giác bất an về tương lai. Cả tôi lẫn West Ham đều ở trong một tình thế tồi tệ. Nếu chúng tôi trở lại Premiership, có một khả năng là nhiều người sẽ được trở lại làm việc. Nhưng bây giờ thì khả năng ấy không thể xảy ra nữa. Nghe có vẻ quá vô cảm, nhưng tôi cần phải nghĩ cho chính mình. Giờ là lúc tôi phải ưu tiên cho bản thân - tương lai của tôi, tham vọng của tôi. Tôi đã có một mùa giải không đến nỗi nào, và được bầu vào đội hình tiêu biểu của giải Hạng Nhất. Thế nên, tôi nói chuyện với người đại diện của tôi, David Geiss.
Tôi bắt đầu làm việc với David khi 17 tuổi. Lúc đó tôi đã ký hợp đồng chuyên nghiệp rồi, nhưng vẫn cảm thấy mình cần được hướng dẫn. Bố mẹ cũng muốn tôi tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp, bởi vì những gì tôi đang trải qua là một thế giới hoàn toàn mới mẻ đối với họ. Không ít người đại diện đã tiếp cận tôi trong bãi đỗ xe, hay tìm tới bố mẹ sau các trận đấu, hứa hẹn đủ chuyện trên trời dưới biển, nhưng tôi không cảm thấy thoải mái với bất kỳ ai. Trước khi đưa ra những quyết định lớn, tôi vẫn thích lắng nghe con tim, tĩnh tâm và chờ đợi mọi việc tự tìm tới đúng chỗ của chúng. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng việc của tôi là thể hiện thật tốt, và nếu làm được điều đó, thì tôi không cần phải quan tâm tới những gì mà những người đại diện hứa hẹn. Tôi phải là người làm chủ vận mệnh của mình. Dave là một người thông minh và điềm đạm, có nghề chính là một kiểm toán viên, nên tôi lập tức tin tưởng rằng ông có thể giúp tôi quản lý tài chính một cách hiệu quả. Những ngày đó, quanh sân tập của West Ham lúc nào cũng có hàng tá người tụ tập, mang theo đủ kiểu lời mời chào đầu tư. Đó có thể là những cái bẫy nguy hiểm, mà thú thực tôi chẳng có chút ý niệm nào về chúng. Điều quan trọng nhất với tôi là tôi biết rằng Dave thực sự quan tâm tới quyền lợi của tôi. Ông muốn theo đuổi một tầm nhìn dài hơi, điều cũng rất quan trọng. Khi nhìn lại, tôi nhận thấy mình đã thật may mắn khi gặp được David ngay từ những ngày đầu và gắn bó với ông cho tới hết sự nghiệp. Ông ấy giống một thành viên gia đình hơn là một “người đại diện”.
David là một cổ động viên của West Ham, nhưng cả hai chúng tôi đều biết điều cần phải làm là gì. Tôi cần phải trở lại giải đấu cao nhất, trong khi West Ham thì cần tiền. West Brom và Portsmouth đều hỏi mua tôi, trong khi Iain Dowie cũng tìm mọi cách để đưa tôi về Palace. Tôi chưa từng nói chuyện với bất kỳ đội bóng nào trong số các đội bóng đó, vì tôi không thấy có hứng thú. Everton là một đội bóng khác muốn có tôi, và tôi cũng đã nói chuyện với David Moyes qua điện thoại, nhưng rồi mọi chuyện cứ âm thầm rơi vào quên lãng. Sau vài tuần, Portsmouth trở lại gõ cửa. Thời điểm đó thì Portsmouth là một đội bóng không tồi, họ đã tạo được chỗ đứng khá vững chắc ở Premiership. Ở đó có Harry, và cả Giám đốc Điều hành Peter Storrie mà tôi biết từ khi ông còn ở West Ham. Lúc đó chúng tôi đã bước vào giai đoạn tập huấn trước mùa, thời gian đang cạn dần, thế nên tôi quyết định tới gặp Harry.
Tôi nói với David: “Cứ thử xem sao, tôi sẽ tới Premiership, cố gắng chơi tốt, rồi xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.” Vì thế, chúng tôi tới gặp Harry và Peter trong một khách sạn gần Heathrow vào ngày 6 tháng 8 năm 2004, một vài ngày trước khi mùa giải chính thức bắt đầu với trận tranh Community Shield (Siêu Cúp Anh). Trên đường đi, chúng tôi nhận được một cuộc gọi từ David Dein, và cảm thấy thực sự bối rối. Dein là Phó Chủ tịch của Arsenal, và là người rất gần gũi với Arsène Wenger. Chưa có gì chắc chắn cả, chúng tôi thậm chí còn chưa biết họ có thực sự quan tâm hay không, nhưng dù sao thì đó vẫn là Arsenal! Dẫu vậy, một cuộc gọi cũng chỉ là một cuộc gọi, thế nên chúng tôi quyết định cứ làm theo kế hoạch cũ, nghĩa là tới nói chuyện với Harry và Peter. “Ngày mai xuống Portsmouth nhé,” Harry nói. “Cậu sẽ kiểm tra y tế ở đó.” Có vẻ như mọi chuyện thế là chốt rồi, tôi sẽ tới chơi bóng cho Pompey. Nhưng trên đường trở về, chúng tôi lại nhận được một cuộc gọi khác. Lại là từ Arsenal, lần này thông điệp rõ ràng hơn: tới gặp Arsène. Thật vô tình là trên đường về chúng tôi sẽ đi qua nhà của Arsène, nên chúng tôi quyết định dừng lại gọi luôn cho ông. Một tiếng sau đó tôi thấy mình đang ngồi trong phòng khách của nhà Arsène Wenger, không thể tin đó là sự thật. Có thể nào đây không phải là một giấc mơ? Arsenal ư? Mình đang chuẩn bị ký hợp đồng với The Invincibles, những người vừa trải qua một mùa giải bất bại thật sao? Thời điểm đó Arsène Wenge còn đang ở đỉnh cao quyền lực, một người khổng lồ trong giới huấn luyện viên, nên việc ngồi nói chuyện với ông trong phòng khách của nhà ông, với tôi có gì đó rất siêu thực. “Kể cho tôi vài điều về cậu đi, Michael,” Wenger nói. “Điểm mạnh của cậu là gì? Điểm yếu của cậu là gì?” Bầu không khí có vẻ hơi mang tính hình thức, như thể tôi đang ở trong một buổi phỏng vấn tuyển công chức vậy. Nó hoàn toàn trái ngược với cuộc trò chuyện thoải mái mà tôi vừa có với Harry.
Nhưng rồi tôi vẫn làm như được yêu cầu, cố gắng vạch ra những điểm mạnh của mình. Tôi thấy hơi ngại khi nói về chúng, bởi vì tôi không muốn tự thổi mình lên cao quá và trở thành một kẻ kiêu ngạo trong mắt Arsène Wenger. Nhưng tôi hiểu lý do ông hỏi những câu đó, ông muốn qua những câu trả lời mà khám phá tính cách của tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau về bóng đá trong khoảng một giờ. Wenger sẽ có trận đấu ở Community Shield vào cuối tuần nhưng ông vẫn dành một tiếng cho tôi, thế thì chắc chắn là ông thực sự muốn có tôi rồi?
“Để xong trận đấu với Cardiff đã, rồi vào thứ Hai, chúng tôi sẽ gặp lại cậu,” Wenger nói khi tiễn chúng tôi về. Mọi chuyện diễn tiến quá nhanh, tới mức tôi phải mất vài phút để trấn tĩnh và sắp xếp lại mọi chuyện. Tối hôm đó, tôi và Lisa đã nói chuyện với nhau rất lâu, cố gắng vẽ ra trong đầu tất cả mọi viễn cảnh. Chuyện xảy ra quá đột ngột. Đầu tôi cứ xoay mòng mòng. Ở Premiership, Arsenal không nhất thì cũng nhì. Lisa biết rằng tôi không phải là người nói nhiều, tôi có xu hướng giữ kín mọi chuyện trong lòng và tự tìm cách giải quyết. Nhưng lần này thì khác. Quyết định hôm nay có thể thay đổi hoàn toàn cuộc sống của chúng tôi. Tôi quá hạnh phúc khi biết Arsenal muốn có tôi, nhưng cũng đủ tỉnh táo để biết rằng mình phải cư xử với Harry sao cho phải phép. Đầu tiên, tôi gọi điện cho ông. “Chú Harry ạ, cháu muốn nói là cháu sẽ không xuống chỗ chú nữa đâu. Bây giờ cháu thấy không ổn, đầu óc cháu không sao mà tập trung suy nghĩ được. Cháu có vài việc cần phải xử lý. Là Arsenal ạ. Cháu xin lỗi. Cháu không theo chú được.” Thái độ bình tĩnh của Harry khi nhận được thông tin càng khiến tôi có cảm giác tội lỗi. Ông ấy hiểu được sức hút của Arsenal.
Trở lại Chadwell Heath vào ngày thứ Bảy, tôi sướng rơn khi biết Dein và Terry Brown đã bắt đầu thương thảo về phí chuyển nhượng rồi. Wow! Tin được không, tôi sẽ nhảy một phát từ giải Hạng Nhất lên Champions League. Tôi nghe được tin Vieira đang trên đường rời Arsenal, nên ở hàng tiền vệ của họ có một khoảng trống lớn cần được lấp đầy. Thế nên, không còn gì phải lăn tăn về việc vào sáng thứ Hai tới, tôi sẽ trở thành một cầu thủ của Arsenal. Tôi vẫn ra tập luyện bình thường. Rất may là có Graeme ở đó, cả Rich nữa, cậu ta ném cho tôi một cái áo bib màu đỏ. “Màu đỏ hả? Dí dỏm đấy!” Rich rõ ràng đã biết tin về Arsenal.
Vào Chủ nhật, tôi ở nhà, nhà tôi lúc đó ở Theydon Bois, Epping, để xem Arsenal, đội bóng tương lai của tôi, đá với Manchester United ở Community Shield. Tôi thấy có một cậu nhóc, Cesc Fàbregas, người mới 17 tuổi, đá ở vị trí của Vieira. Fàbregas đã chơi rất hay, nhưng tôi không thực sự để tâm lắm tới chuyện đó. Cả tối Chủ nhật ấy tôi chỉ ngồi nhà để chờ đợi một cuộc gọi nhằm bàn bạc trước những việc phải làm trong ngày hôm sau. Arsenal! Ôi, tôi không thể nào mà chờ được. Song tôi vẫn phải chờ, chờ, và chờ. Cuộc gọi đó không bao giờ xảy ra. Ngày hôm sau, tôi vẫn phải đến sân tập của West Ham như bình thường. Trên đường đi, David gọi cho tôi, thông báo là ông vừa nhận được một cuộc gọi từ Dein. Tóm lại là, “Tôi rất tiếc, huấn luyện viên nói rằng chúng tôi không cần Michael nữa. Chúng tôi đã có Fàbregas rồi. Xin lỗi, sẽ không có vụ chuyển nhượng nào cả.” Màn trình diễn của Fàbregas đã khiến huấn luyện viên Wenger đổi ý, ông ta không còn cần tôi nữa. Tôi suy sụp nặng, bởi vì tôi đã lỡ hướng trái tim mình về Arsenal, về viễn cảnh được chơi bóng bên cạnh những tài năng lớn của họ. Tôi không nghĩ được gì nữa. Arsenal đá tôi rồi, giờ tôi biết phải làm gì?
Khi tới sân tập, Alan nói ông muốn gặp tôi. “Chúng tôi sẽ đề nghị với cậu một bản hợp đồng hai năm, Michael ạ.”
“Cảm ơn, nhưng tôi không có ý định đó. Tốt nhất, cho cả tôi và tất cả mọi người, là tôi ra đi.”
“Cậu không có cơ hội tới một đội bóng hàng đầu đâu, Michael. Chẳng có đội bóng lớn nào muốn có cậu cả. Hoặc là cậu đến một trong những đội bóng ở Premiership vẫn còn quan tâm tới cậu. Hoặc là ký vào hợp đồng này. Tôi cần một quyết định.” Nếu tôi nhất quyết ra đi, Alan muốn điều đó xảy ra càng sớm càng tốt. Tôi hiểu Alan. Ông không muốn chuyện của tôi cứ dây dưa mãi, rồi tới phút cuối lại phải cuống cuồng tìm người thay thế. Nhưng sẽ không có chuyện tôi phải ra một quyết định vội vàng vì sức ép từ Alan Pardew hay West Ham United. Tôi muốn chắc chắn rằng mình chọn được đúng đội bóng, và đội bóng ấy phải là một đội bóng mới, không phải là những đội bóng đã từng liên hệ với tôi, bởi vì tôi muốn giũ bỏ hết chuyện cũ. Dù thế nào thì Alan cũng có cái đúng. Tôi vừa mới chơi ở giải Hạng Nhất, vậy thì có cớ gì mà một đội bóng sắp sửa dự Champions League lại theo đuổi tôi? Nhưng việc Arsenal tỏ ra quan tâm tới tôi mang lại cho tôi chút hy vọng. Ngay khi vừa rời khỏi văn phòng của Alan, tôi bốc máy gọi cho David: “Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi ở lại và đội bóng không thể lên hạng? Tôi sẽ lãng phí thêm một năm. Tôi phải đi ngay bây giờ.” Nhưng đi đâu? Tôi không muốn tới một đội bóng vật lộn trụ hạng. Đầu tôi cứ ong ong.
Harry vẫn chưa chịu từ bỏ, sau đó ông lại gọi cho tôi, “Tôi đang trên đường tới gặp cậu đây, Michael.”
“Harry, làm ơn, đừng.”
“Tôi ở trên xe rồi.”
“Cháu nói thật đấy, Harry, chú tới gặp bọn cháu lúc này cũng đâu giải quyết được cái gì. Mà cháu thì không muốn làm phiền chú.” Tôi không nói dối, tôi không muốn làm những việc bất kính với Harry. Thật may mắn là cuối cùng tôi cũng thuyết phục được Harry từ bỏ. Tới Portsmouth vào lúc này, tôi thấy không ổn một tí nào.
Đùng một cái, Giám đốc Thể thao của Spurs, Frank Arnesen, gọi điện: “Chúng tôi đang chiêu mộ những cầu thủ trẻ người Anh xuất sắc, Michael, và chúng tôi muốn có cậu.” Tôi biết là họ đã có Paul Robinson và Sean Davis. Spurs ở thời điểm đó đang trên đà lớn mạnh, đầu quân cho họ là rất hợp lý. Và còn điều này nữa: Spurs là kình địch của Arsenal! Tôi đánh giá phong cách chơi bóng của Spurs và nghĩ, Mình sẽ rất hợp với chỗ này. Tôi vừa được ném cho một con đường sống. Tôi gọi cho Lisa, rồi sau đó gọi cho bố mẹ, lúc ấy còn đang đi nghỉ hè với bố mẹ của Lisa. “Nhân tiện con xin thông báo là bọn con sẽ tới Tottenham nhé!” - tôi nói.
“Thế à, tuyệt vời,” họ nói, giọng như vừa trút đi được một gánh nặng.
Vẫn còn nhiều chi tiết nữa cần phải thống nhất. Nhưng nói thật là làm việc với Spurs là một trong những trải nghiệm kỳ dị nhất tôi từng trải qua. Tất cả các cuộc gọi với họ dường như đều được thực hiện sau 11 giờ đêm. Khi tôi lên giường rồi, David sẽ gọi để thông báo tình hình. “Tôi lại vừa mới nói chuyện với Frank Arnesen,” ông ấy sẽ nói đại loại thế. Thật điên rồ. Cả ngày im lìm, rồi sau 11 giờ đêm, chuông reo ầm ĩ. Người gọi có thể là David hoặc Frank.
Trong thời gian các cuộc nói chuyện diễn ra, Alan Pardew cho tôi xuống tập với đội dự bị. Ít ra thì việc đó cho tôi cơ hội chơi bóng chung đội với Graeme, lúc đó vừa gia nhập West Ham. Tôi nhớ một lần Graeme gọi điện về nhà thông báo với bố, “Bố ơi, ngày mai con sẽ đá cho đội dự bị, gặp Norwich. Anh Michael cũng vừa hết chấn thương, nên con và anh ấy sẽ đá cùng nhau ở hàng tiền vệ!”
“Tuyệt đấy, con trai.” Bố chỉ nói thế thôi, nhưng ông biết hai anh em tôi cùng ra sân trong một trận đấu là một sự kiện lớn. Khi đang trên xe buýt tới Norwich, tôi nhận được một cuộc điện thoại nói rằng tôi sẽ không được ra sân vì hợp đồng của tôi sắp chốt xong rồi. West Ham không muốn có rủi ro, nên tôi phải ngồi trên khán đài theo dõi trận đấu. Graeme không tin nổi điều đang xảy ra. Cũng như tôi, Graeme đã rất mong ngóng tới ngày mà chúng tôi được chơi bóng bên nhau. Nhưng West Ham thông báo là ngày hôm sau tôi sẽ ký hợp đồng với Tottenham. Nếu tôi ra sân và chấn thương, đội bóng sẽ mất toi 2.750.000 bảng, và đó là nguy cơ mà họ muốn tránh bằng mọi giá. Bố mẹ đến để xem hai thằng con trai chơi bóng, để rồi phát hiện ra tôi cũng ngồi trên khán đài như họ. Thật buồn là tôi không bao giờ có cơ hội chơi bóng chung với Graeme trong một trận đấu chính thức.
Ngày hôm sau, 24 tháng 8, tôi chính thức là cầu thủ của Spurs. Khép lại một mùa hè quá nhiều biến động. Tôi đã ở rất gần Arsenal, nhưng cuối cùng lại chơi cho kình địch của họ. Nhưng nếu tôi không nhận được cuộc gọi của Arsenal từ đầu, tôi có thể đã gia nhập Portsmouth của Harry, và nếu thế, thì đời tôi sẽ đi về đâu khi mà tới tháng 11, ông thì ra đi còn Portsmouth thì gặp những vấn đề tài chính nghiêm trọng!? Điều lạ lùng duy nhất trong vụ chuyển nhượng tôi tới Spurs là tôi không một lần tiếp xúc với người sẽ là huấn luyện viên của tôi ở đội bóng mới. Jacques Santini không tham gia một chút nào vào những cuộc đàm phán. Nhưng vì quá háo hức được tới Spurs, nên tôi cũng không lấy làm bận tâm.