Sebastian cảm thấy chỉ có hai lời giải thích hợp lý cho sự biến mất của con dao găm: hoặc là bằng một cách không tưởng và vì một lý do khó hiểu nào đó mà gã thủ phạm đã quay trở lại Phòng Vàng để lấy con dao găm mà hắn cố ý để lại, hoặc chính Lãnh chúa Jarvis là người đã lấy nó đi mất. Và giả thiết thứ hai thì rõ ràng là hợp lý hơn hẳn. Sebastian cũng đoán ra được một vài lý do khiến người giám hộ không chính thức của Hoàng thân Nhiếp chính hành động như vậy, chỉ có điều chẳng lý do nào có lợi cho người bị phát hiện đang ôm thi thể của phu nhân Guinevere cả.
Quyết tâm phải hỏi Lãnh chúa Jarvis cho ra lẽ, Sebastian đánh xe tới Nhà Carlton, nhưng ở đó thì tên thư ký với gương mặt tái nhợt đầy hoảng loạn của Jarvis sống chết quả quyết rằng chủ nhân của hắn còn đang ở nhà riêng. Sebastian lại đi tới Quảng trường Grosvenor để nghe phu nhân Jarvis nửa điên nửa dại nói bằng thái độ cợt nhả rằng bà nghĩ có lẽ chồng mình đang ở nhà Watiers. Bên Watiers thì vẫn cứ ngỡ Lãnh chúa Jarvis còn chưa trở về London.
Vì cuộc chất vấn tạm thời bị ngăn trở, Sebastian quyết định tới thăm nhà Hiệp sĩ Varden.
Alain, Hiệp sĩ Varden, là một chàng trai trẻ mới ngoài hai mươi hai tuổi và chỉ vừa tốt nghiệp trường Oxford. Cậu được mọi người trong giới quý mến, gương mặt đặc biệt điển trai kết hợp với một tiểu sử bi thảm lại càng khiến trái tim các bà mẹ của những cô gái tuổi cập kê phải thổn thức xúc động. Cái danh ngoại quốc thật ra cũng rất bóng bẩy, nhưng ấy chỉ là nếu như cái danh đó đi kèm với thật nhiều đất đai. Những nông trang, đồn điền trải rộng mênh mông mà lẽ ra Alain được thừa kế từ người cha quá cố của cậu đã bị mất sạch trong cuộc Cách mạng.
Bản thân cũng không kiếm ra được thu nhập đáng kể nên chàng Hiệp sĩ này vẫn đang sống cùng mẹ mình là bà Isolde, cũng là phu nhân Audley, trong ngôi nhà của bà trên phố Curzon. Bà đã để tang hai đời chồng, phần lớn thời gian bà sống tại London, bỏ không tòa lâu đài quạnh hiu ở xứ Wales mà con trai bà, Lãnh chúa Audley hiện tại, được thừa hưởng khi người chồng thứ hai của bà qua đời.
Sebastian đến nhà họ hỏi tìm chàng Hiệp sĩ và được gia nhân đưa tới một gian phòng sinh hoạt chung tuy nhỏ nhưng bài trí tao nhã, ngập tràn nắng chiều. Ở đó, anh thấy một người phụ nữ mảnh dẻ với mái tóc đỏ rực chỉ điểm một hai sợi bạc đang quỳ gối trên tấm thảm trong góc phòng. Bên cạnh bà là một chú chó côli với cái bụng chửa tròn vo đang thở rất nặng nhọc, dường như sắp sinh đến nơi rồi.
“Xin bà thứ lỗi,” Sebastian lên tiếng, “dường như có gì đó nhầm lẫn ở đây...”
“Không phải đâu,” phu nhân Audley lên tiếng. Sebastian đoán bà đã ngoài bốn mươi, dù trông bà trẻ hơn tuổi với làn da trắng như trong suốt và khung xương nhỏ nhắn. “Ta đã dặn gia nhân mời ngài tới đây. Thật mong ngài thứ lỗi vì phải tiếp đón ngài trong hoàn cảnh này nhưng Cloe tội nghiệp đang sắp sinh rồi và ta muốn ở bên cạnh nó. Mời ngài ngồi.”
Khước từ lời mời, Sebastian ra đứng cạnh khung cửa sổ mở rộng, quay lưng về phía mặt trời.
“Ta biết mục đích ngài tới đây,” phu nhân Audley nói, tâm trí vẫn đang đặt vào chú chó côli sắp làm mẹ. “Ngài cho rằng con trai ta có liên quan tới cái chết của Guinevere. Nhưng ngài lầm rồi.”
Anh nhìn theo đôi tay mảnh mai của bà nhẹ nhàng vuốt ve đôi vai ướt đẫm mồ hôi và phần hông run rẩy của chú chó côli. “Nếu tôi đoán không sai,” anh nói, nhớ về việc cô chị gái Morgana của Guinevere cũng biết trước chuyện anh đang điều tra cái chết của phu nhân Hầu tước. “Phu nhân đây hẳn cũng là người quen của phu nhân Portland.”
“Phu nhân Portland là con gái ta, Claire.”
“À, ra là vậy.”
“Ngài có biết nhiều về xứ Wales không?”
“Cũng không hẳn.”
Chú chó côli khẽ bật ra tiếng rên nho nhỏ. Phu nhân Audley áp lòng bàn tay lên đầu chú chó. “Nào, nào, cô gái. Rồi mọi chuyện sẽ ổn cả.” Bà nói với Sebastian, “Lâu đài Athelstone nằm ở bờ bắc, cũng khá gần lâu đài Audley. Đi đường cái thì hai lâu đài cách nhau tầm ba, bốn dặm. Nhưng nếu men dọc theo vách biển thì chỉ cần mười lăm phút là sẽ đến nơi. Với tốc độ chạy của một đứa trẻ thì thậm chí còn nhanh hơn.”
“Ý bà là với tốc độ chạy của một cô bé con thường xuyên trốn gia sư rong chơi khắp vùng đồng nội?”
Phu nhân Audley gật đầu. “Mẹ của Guinevere, Katherine, đã đối xử với ta rất tốt lúc ta mới chuyển về sống tại đó. Khi Katherine qua đời... không một ai dỗ nổi đứa bé gái đáng thương đó. Tất nhiên chẳng ai có thể thay thế được vị trí của một người mẹ, nhưng ta đã cố gắng chăm sóc con bé hết mình.”
“Nhưng sau đó Athelstone đã lấy thêm vợ kế rồi mà?”
“Quả thật là vậy, nhưng đáng tiếc vị phu nhân Bá tước ấy cũng không quan tâm mấy đến các cô con gái của những vị phu nhân trước.”
Sebastian chăm chú nhìn người phụ nữ thanh lịch đang quỳ trên sàn bên cạnh chú chó sắp sinh. Bà có một đôi vai hẹp, đôi bàn tay nhìn rõ từng khớp xương linh hoạt và một vẻ mỏng manh yếu ớt mà anh nghi ngờ là trái ngược hoàn toàn với con người thật của bà. “Nói thật lòng thì tôi đã tưởng phu nhân là người Pháp.”
“Ôi, không,” bà nói, vẫn không nhìn lên. “Ta sinh ra và lớn lên ở Devonshire. Mùa xuân năm 1786, khi tròn mười tám tuổi, ta đã tới Paris với một người cô. Ngài không thể tưởng tượng nổi Paris những ngày ấy đâu, mỗi ngày đều là liên hoan và vũ hội, mỗi ngày đều ngập tràn tiếng nhạc và tiếng cười. Lẽ ra chúng ta nên biết trước rằng cuộc vui nào rồi cũng sẽ tàn.” Bà khẽ thở dài. “Nhưng không có ai nghĩ đến chuyện đó.”
“Đó là nơi phu nhân đã gặp cố Hiệp sĩ Varden sao?”
Bà duỗi thẳng lưng lên, một nụ cười dịu dàng nhưng buồn bã bỗng xuất hiện trên môi. “Đúng vậy. Trong một bữa tiệc ở Versailles. Chúng ta kết hôn chỉ chưa đầy sáu tuần sau lần gặp gỡ đầu tiên. Ta vẫn tự cho rằng mình là người phụ nữ cực kỳ may mắn - nhưng rồi, chỉ vài tuần sau khi con trai chúng ta, Alain, ra đời thì sự kiện Chiếm ngục Bastille1 nổ ra.”
1 Sự kiện quan trọng trong Cách mạng Pháp. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1789, những người dân Paris đã nổi dậy, tới chiếm nhà tù Bastille, một biểu tượng của quyền lực Vương triều.
Sebastian nhìn nụ cười đầy ám ảnh đó dần phai đi. Cái năm 1789 định mệnh đó hẳn không phải là một năm dễ dàng đối với một quý phu nhân người Anh kết hôn với một quý tộc Pháp.
“Mùa thu năm đó, một đám người xuất hiện và tấn công tòa lâu đài. Ta đã kịp thời bế Alain trốn thoát theo hệ thống hầm ngầm, nhưng lúc đó Varden đang cưỡi ngựa bên ngoài vườn nho và...” Bà dừng lại, hít một hơi thật sâu, nghe run rẩy đến tận sâu thẳm linh hồn. “Bọn họ kéo ngã chàng khỏi lưng ngựa rồi xé xác chàng thành nhiều mảnh.”
Cái bụng tròn căng của chú chó côli đột ngột giật nảy lên, cơ thể nó gập lại khi chú chó con đầu tiên trượt ra ngoài với thế giới, ướt sũng và bóng loáng vì máu. Phu nhân Audley cúi đầu nhìn nó chằm chằm, nhưng Sebastian cảm thấy dường như bà đang nhìn thấy một cái gì đó khác, một ký ức bà không thể nào xóa bỏ.
Có một lần khi còn chiến đấu tại vùng Bán đảo, đại tá cấp trên của Sebastian đã ra lệnh cột một nông dân Thổ Nhĩ Kỳ vào hai con ngựa rồi quất cho chúng chạy theo hai hướng ngược nhau. Chỉ để tiêu khiển. Anh chớp mắt xua đuổi đoạn ký ức ấy đi. “Phu nhân quả thật rất may mắn khi có thể trở về đến Anh quốc.”
“May mắn sao? Quả thật ta cũng cho là vậy. Người ta phải cố mà tìm đường để tiếp tục sống thôi.”
Bên chân họ, Cloe đã cắn đứt nhau thai và đang liếm cho sạch đứa con nhỏ. Phu nhân Audley im lặng vuốt ve đầu chú chó mẹ. Rồi bà nói bằng một giọng đều đều, “Một năm sau đó, ta kết hôn với Audley.”
Sebastian theo dõi người phụ nữ tao nhã trước mặt giúp chú chó côli sinh con. Dù đã bước vào tuổi trung niên nhưng phu nhân Audley vẫn còn rất xinh đẹp. Hai mươi năm trước, bà hẳn là một góa phụ trẻ đẹp lộng lẫy. Liệu việc lấy Lãnh chúa Audley quá cố có phải là một trong những việc mà người ta phải làm để tiếp tục sống không?
“Xin phu nhân hãy kể cho tôi nghe về mẹ của phu nhân Anglessey,” anh lên tiếng.
“Katherine ư?” Câu hỏi của anh dường như làm bà bất ngờ. “Bà ấy nhìn giống Guinevere lắm, chỉ có điều bà ấy thì bé nhỏ, còn Guinevere lại cao lớn giống cha thôi. Cả hai đều có mái tóc xanh đen và đôi mắt làm người ta nhớ tới những thung lũng bát ngát dương xỉ ngày xuân.” Bà dịu dàng mỉm cười. “Và cả cái tính luôn nồng nhiệt nhưng không phải lúc nào cũng khôn ngoan ấy nữa.”
“Tôi được biết bốn người vợ của Lãnh chúa Athelstone đã mất vì sinh nở, không biết điều này có đúng không?”
“Cũng không hẳn. Ta khá chắc vị phu nhân đầu tiên đã qua đời vì lao phổi khi đứa con gái, Morgana, mới một, hai tuổi. Còn ba vị phu nhân sau đó thì đúng là đã qua đời lúc sinh con. Lãnh chúa Athelstone là một người đàn ông vô cùng cao lớn. Cả ba cô con gái của ông ta đều cao hơn hẳn người thường, cho nên đúng lý thì con trai ông ta còn phải to cao hơn thế. Bản thân ta thấy chuyện đó giống như là phối giống một con chó cái Yorkie với một con Great Dane ấy. Mấy đứa con trai của ông đều to lớn quá khổ, đến nỗi chúng dường như đã giết chết cả ba vị phu nhân nhỏ bé. Thế rồi khi Lãnh chúa Athelstone đủ sáng suốt để cưới về một vị phu nhân to lớn ngang cỡ ông thì cuối cùng gia tộc ấy mới sinh hạ được một người con trai.”
Cloe vẫn đang liếm láp đứa con nhỏ cho sạch máu, dùng mõm dụi vào chú chó sơ sinh. Chắc cũng phải một tiếng nữa, hoặc thậm chí lâu hơn, trước khi đứa thứ hai chào đời. Sebastian hỏi, “Vì sao phu nhân lại muốn gặp tôi?”
Phu nhân Audley chùi tay lên chiếc áo tạp dề bà mặc ngoài bộ váy bằng vải muxơlin rồi đứng lên. Đột nhiên ở bà xuất hiện một thái độ rất dữ dội, cái khí chất của một người mẹ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ con mình. “Varden đã ở đây với ta suốt cả buổi chiều thứ Tư. Ta sẽ không cho phép ngài đổ oan cho con trai ta để Hoàng tử thoát tội đâu.”
Sebastian nhìn thẳng vào ánh mắt kiên quyết của bà. “Tôi chỉ muốn tìm ra sự thật thôi.”
Bà bật cười chua chát. “Sự thật ư? Ngài nghĩ có mấy khi chúng ta biết được chân tướng sự thật?”
“Theo lời phu nhân Quinlan, chị gái phu nhân Guinevere, thì cô ấy đã có mong muốn được gả cho Varden khi đến tuổi trưởng thành.”
Phu nhân Audley mím môi, rồi gần như miễn cưỡng gật đầu. “Ta nghĩ có lẽ chuyện đó cũng có lỗi của ta. Hai đứa nhỏ chỉ cách nhau có một tuổi. Ta vẫn luôn coi hai đứa như anh em trong nhà. Ta không thể ngờ được rằng Guinevere lại nhìn mối quan hệ đó theo cách hoàn toàn khác. Nhưng đó cũng chỉ là mơ mộng con trẻ mà thôi. Khi ấy hai đứa vẫn còn bé quá. Lúc Guinevere kết hôn, Varden thậm chí còn chưa học Đại học.”
“Đó đã là chuyện của bốn năm trước rồi. Rất nhiều thứ đã đổi khác.”
Bà ngẩng cao đầu, đôi mắt như tóe lửa. “Ta biết ngài đang ám chỉ điều gì, nhưng ngài nghĩ sai rồi. Guinevere tuy là đứa bé có tình cảm mãnh liệt, nhưng nó cũng là đứa vô cùng kiên trinh. Nó sẽ không bao giờ lừa dối Anglessey. Không bao giờ.”
Anh tự hỏi không biết việc bà giận dữ bảo vệ danh dự của Guinevere chứ không phải của con trai bà có phải là một chi tiết quan trọng hay không. Hay đó chỉ đơn giản là phản ứng bản năng của một người đã bị ăn mòn bởi tư duy cách nhìn nhận rất khác biệt của cả xã hội giữa chuyện ngoại tình của đàn ông và chuyện ngoại tình của phụ nữ? “Tôi rất mong được nghe xem con trai phu nhân nói gì về chuyện này.”
Bà Isolde hít một hơi thật sâu và trong một tích tắc, lớp mặt nạ bình tĩnh của bà đã tuột xuống. Anh nhận ra rằng đằng sau mối lo lắng của bà dành cho chú chó côli dưới chân còn che giấu một mối lo khác, một nỗi lo sợ khiến bà phiền lòng và bất an hơn thế rất nhiều.
“Con trai ta hiện không ở đây,” bà nói, bỗng nhiên trông bà thật mệt mỏi, như đã già đi cả chục tuổi. “Cái chết của Guinevere làm nó chấn động rất mạnh. Ta vẫn chưa gặp lại nó kể từ sáng thứ Năm vừa rồi, lúc chúng ta hay tin xấu.”