"Hắn nhớ khá rõ chuyến xe ấy,” Lovejoy nói. “Người ta không thường bắt gặp một vị phu nhân thuê xe đi tới phía Đông thành phố.”
Sebastian ngạc nhiên hạ ly rượu trong tay xuống. “Khu phía Đông sao?”
“Đúng vậy. Phố Giltspur, tại Smithfield.”
“Chính xác là ở đâu trên phố Giltspur?”
“Người đánh xe đó không rõ. Có vẻ như là phu nhân Anglessey đã xuống xe ngay đầu phố. Lần cuối cùng hắn nhìn thấy phu nhân là lúc phu nhân đi về hướng chợ.” Lovejoy hắng giọng lần nữa. “Tôi đã cho người xuống đó hỏi han rồi, nhưng không một ai nhớ đã từng nhìn thấy phu nhân.”
Sebastian không nghĩ đó là sự thật, tay anh rót thêm một ly rượu nữa. Hình ảnh một quý cô trẻ tuổi xinh đẹp như phu nhân Hầu tước đảo Anglessey trong bộ váy đi đường màu đỏ Pompeii không phải là hình ảnh người ta có thể dễ dàng quên đi như vậy. Thế nhưng ngay cả một công dân London đáng kính nhất cũng thường ngần ngại hợp tác với các đơn vị điều tra. Một người đàn ông ăn mặc bình thường đi hỏi han một cách kín đáo có lẽ sẽ thu được nhiều thông tin có ích hơn.
Khi Sebastian trả tiền xe ngựa ở cuối phố Giltspur, mưa lại ngớt, mặc dù mây đen vẫn đang phủ trùm nặng nề trên bãi đất trống ám mùi chết chóc của khu chợ Smithfield.
Bây giờ Smithfield là chợ thịt gia súc. Nhưng đã từng có lúc vào triều đại Tudor khoảng hai trăm năm trước, nơi này là bãi thiêu người. Tín đồ Công giáo đã thiêu sống những người theo đạo Tin lành để cứu rỗi linh hồn họ khỏi ngọn lửa bất diệt dưới địa ngục và người theo đạo Tin lành thì thiêu sống tín đồ Công giáo vì đó là chuyện mà người ta sẽ làm với những người không hình dung về Chúa trời giống mình. Sebastian luôn cảm thấy thật kì lạ khi người ta làm tất cả những chuyện đó nhân danh Chúa, trong khi chính Chúa đã dạy môn đồ của mình phải biết tha thứ cho lỗi lầm và yêu thương lấy đồng loại như yêu thương chính bản thân mình. Nhưng rồi những môn đồ của Chúa cũng chẳng mấy khi thực hiện tử tế lời răn dạy này, họ vẫn cứ nhân danh Chúa mà tàn sát tất cả mọi người, từ những cư dân da màu ô liu ở Jerusalem cho tới những người Ireland ở Dublin.
Khoác trên mình tấm áo choàng cổ lỗ và mặc chiếc quần ống túm bằng da tiện lợi như một quý ông trung lưu điển hình tới từ nông thôn, Sebastian đi xuyên qua dòng người tấp nập trên phố. Phần đông trong số họ là các tay lái trâu, lái bò tới đây để chuẩn bị cho ngày họp chợ thứ Hai hàng tuần. Có những người đi xa nhất là từ Bắc Anh quốc và Scotland tới, mang theo những đàn gia súc đủ để cung cấp cho hàng triệu miệng ăn của thành phố này. Ngoài ra thì ở đây còn có cả người bản địa nữa, những người đi làm thuê và những người còn học việc, những người đầy tớ và cả các chủ cửa hàng, bởi Chủ nhật là ngày duy nhất mà hầu hết mọi người đều được nghỉ.
Không khí ở đây rất thanh bình và vui tươi, cả con phố ngập tràn tiếng cười nói phấn khởi, thơm nức mùi thịt nướng và rượu bia lên men quyện lẫn mùi bùn đất, mùi mồ hôi và cả mùi chất thải vốn vẫn luôn hiện diện ở những nơi thế này. Ở ngã tư đầu tiên, Sebastian đứng lại, đưa mắt nhìn một lượt các hàng quán trên mặt phố: hàng thuộc da, hàng tạp hóa xen lẫn những hàng bán than và những nhà chưng cất rượu, những nhà bán cúc và những hàng bán len. Đó đều là những cửa tiệm khiêm tốn, không phải dạng cửa hàng mà một quý phu nhân sẽ ghé vào mua đồ. Vậy phu nhân Guinevere Anglessey tới đây làm gì?
Anh đi tiếp, bước ngang qua ô cửa chớp của một hàng buôn trà và hàng kim chỉ kế bên. Cả hai đều đã đóng cửa vì ngày lễ Chúa Nhật1. Thứ Hai, anh sẽ bảo Tom đi tới từng tiệm một dò hỏi tin tức, có điều anh vẫn nghĩ rằng phu nhân Anglessey không đi tới tận đây chỉ để tìm mua trà hay mấy cái cúc áo.
1 Ngày nghỉ hàng tuần, tưởng nhớ ngày nghỉ của Thiên Chúa sau sáu ngày tạo dựng vũ trụ. 2 Vụ hỏa hoạn tồi tệ nhất trong lịch sử London. Vụ hỏa hoạn bắt nguồn từ một tiệm bánh mỳ ở Pudding Lane, gần bờ sông Thames vào ngày 2 tháng 9 năm 1666 và kéo dài trong 5 ngày.
Đi được nửa con phố, anh bắt gặp một quán trọ cổ, một phần dựng bằng gỗ, tên là Norfolk Arms. Bằng một cách nào đó, nó đã sống sót được qua trận Đại Hỏa Hoạn năm 16662 và đứng vững đến ngày hôm nay. Quán trọ này có khá nhiều tầng và được chăm nom cẩn thận. Theo như kiến trúc bên ngoài của tòa nhà thì có vẻ như nó đã được xây lên từ thời Edward và Mary Tudor, cái thời mà Smithfield còn là một giàn hỏa thiêu.
Sebastian bước về phía quán trọ. Hai đứa nhóc choai choai chạy ngang qua va vào người anh rồi lại vội đứng dậy chạy biến đi mất, vừa chạy vừa hét mấy câu xin lỗi. Một cựu binh cụt mất một bên chân với gương mặt gớm ghiếc bị biến dạng bởi một nhát kiếm xoẹt qua má đang chống cây gậy bọc giẻ rách và xóc xóc chiếc cốc trong tay, miệng khẽ lầm rầm những lời van lơn.
Sebastian thả một đồng tiền vào chiếc cốc đang chìa ra ngoài. “Anh đã chiến đấu ở đâu vậy?”
Hít một hơi thật dài, gã ăn mày ưỡn vai đầy tự hào rồi đáp, “Ở Antwerp, thưa ngài,” bằng một giọng nói đặc sệt phương ngữ Scotland. Bên dưới bộ râu bờm xờm, mái tóc rối bù và làn da xám ngoét nổi sẹo là một gương mặt còn khá trẻ, Sebastian nghĩ có lẽ không hơn hai mươi lăm.
“Ngày nào anh cũng ở đây à?”
Một nụ cười nở ra trên môi gã cựu binh người Scotland, kéo căng vết sẹo trên má và làm sâu hoắm thêm những nếp nhăn xuất hiện trước tuổi quanh đôi mắt xám ngập tràn đau đớn. “Đúng thế, thưa ngài. Đây là chỗ của tôi.”
“Chiều thứ Tư tuần trước có một người phụ nữ trẻ đã đi ngang qua đây. Tóc sẫm màu. Xinh đẹp. Thật ra thì là một quý phu nhân. Mặc một bộ váy đỏ và khoác áo choàng lông. Anh có nhìn thấy người nào như vậy không?”
Gã bật cười, nghe rõ cả tiếng thở nặng nề. “Mắt tôi vẫn tinh lắm đấy. Đó quả thật là một người phụ nữ rất quyến rũ. Cô ấy còn cho tôi năm đồng shilling nữa.”
“Không biết anh có nhìn thấy cô ấy đi đâu không?”
Gã cựu binh hất đầu về phía quán trọ ngay sau lưng. “Có, thưa ngài. Cô ấy đi vào quán trọ Norfolk Arms này đây.”
Sebastian cảm thấy một niềm vui hân hoan thắng lợi và cả một chút chờ mong dâng lên trong lòng. “Cô ấy đã vào đó bao lâu vậy? Anh có biết không?”
Gã ngẫm nghĩ lại một lúc, nhưng rồi lắc đầu. “Tôi cũng không dám chắc. Hình như tôi không nhìn thấy cô ấy đi ra khỏi đó.”