• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tượng thần sụp đổ
  3. Trang 33

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 69
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 69
  • Sau

Chương 30

Sáng sớm hôm sau khi Kat tỉnh dậy, cô nhắm mắt nằm yên thêm một lúc, lắng nghe nhịp thở đều đặn của Devlin đang nằm bên cạnh mình. Cô khẽ mỉm cười. Anh đã ở lại qua đêm.

Cô chống một khuỷu tay nâng người dậy, lặng lẽ ngắm nhìn anh. Cô biết rất rõ từng đường gân thớ thịt trên cơ thể anh, sự xuất chúng hiếm thấy của trí não anh và cả tâm hồn cao quý còn hiếm hoi hơn nơi anh. Và cô cũng biết rất rõ kết cục mà anh sẽ phải chịu nếu như cô thực sự làm theo những mong mỏi đã gặm nhấm trái tim cô đến đau buốt suốt những năm qua và lấy anh.

Nụ cười tắt dần trên môi cô. Cô đã yêu anh từ ngày cô mới mười sáu, khi cô còn là một ca sĩ hát bè chẳng ai biết tới và anh thì là một chàng trai trẻ măng mới tốt nghiệp Oxford. Thậm chí từ hồi đó, anh đã hỏi cưới cô rồi. Và cô, bởi lúc đó còn quá trẻ và tha thiết mong giữ được anh bên mình trọn đời, đã nhận lời anh. Chỉ đến khi cha anh và lương tâm của chính cô giúp cô nhận ra được một cuộc hôn nhân như vậy sẽ ảnh hưởng tới con đường tương lai của Devlin thế nào thì cô mới quyết định phải đẩy anh ra thật xa. Những gì cô nhìn thấy trong đôi mắt anh đêm hôm ấy - nổi khổ sở tột cùng khi bị phản bội - đã cứa đôi trái tim cô và xé nát tâm hồn cô thành ngàn mảnh.

Cô vẫn còn nhớ mình đã lang thang khắp những con đường mù sương của thành phố này, nước mắt nóng hổi ướt đẫm hai má, trái tim như muốn nổ tung với tất cả những xúc cảm đau đớn của tuổi trẻ và chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng cái chết không đến gặp cô và những người ngày trước nói với cô rằng thời gian sẽ xoa dịu mọi vết thương thật ra cũng có phần đúng. Bởi khi thời gian dần trôi đi, cô đã tìm được lý do để sống tiếp và một lý tưởng để có thể vì nó mà đấu tranh. Bây giờ thì cái lý tưởng ấy lại trở thành một phần của mọi rắc rối. Nhưng chỉ là một phần thôi.

Cô tự nhủ rằng những việc cô đã làm trong mấy năm ấy sẽ không gây ảnh hưởng gì cả, rằng cô vẫn sẽ có đủ nghị lực để kháng cự lại trái tim mềm yếu không đáng tin chút nào trong lồng ngực mình. Cô luôn cảm thấy thật kì diệu khi mà Devlin, với tất cả những gì anh đã chứng kiến và đã làm suốt bảy năm qua, lại vẫn không hề thay đổi chút nào, ít nhất là ở phương diện ấy. Anh vẫn tin rằng chỉ cần có tình yêu là sẽ có thể vượt qua tất cả. Cô thì lại nhìn cuộc sống thực tế hơn thế.

Cô biết rõ những tổn hại mà một cuộc hôn nhân như vậy sẽ gây ra cho anh, anh sẽ bị gạt bỏ khỏi tầng lớp quý tộc, sẽ bị người ta khinh miệt rẻ rúng, bị coi thường, bị nhạo báng. Việc anh lấy cô sẽ trở thành một sự xúc phạm mà cả cha anh lẫn chị gái anh, Amanda, đều không bao giờ có thể tha thứ cho anh. Cô khá chắc sự ghẻ lạnh của người chị ruột duy nhất còn sống sót sẽ không làm anh đau khổ gì lắm, nhưng tình cảm giữa ngài Bá tước và người thừa kế của ông là anh thì lại rất sâu nặng và bền chặt.

Cô biết điều đó. Thế nhưng có những lúc cô vẫn không ngăn nổi ước muốn có thể từ bỏ tất cả và nhận lời anh.

Chính những lúc đó, cô lại phải nhắc nhở bản thân rằng một cuộc hôn nhân không thể được xây dựng trên cái nền của những lời nói dối, rằng dù Devlin có lẽ biết rõ những năm tháng tuổi thơ nhớp nhúa nơi đầu đường xó chợ của cô, nhưng anh lại không biết về những năm cô rời xa anh. Những năm tháng cuộc đời cô đã dùng để quyến rũ những gã đàn ông quyền lực nhằm moi tin bán cho quân Pháp.

Có những lúc yếu lòng, cô nghe thấy một giọng nói phản bội thì thầm vào tai mình rằng anh chẳng bao giờ cần phải biết đến những năm tháng đó. Cô đã không còn dây dưa gì với quân Pháp kể từ khi Pierrepont biến mất khỏi London bốn tháng trước. Và dù cô đã được thông tri là sẽ có một tên quản lý mạng lưới gián điệp khác tới liên hệ với cô thì cái dấu hiệu mà cô hằng khiếp sợ những ngày này - một bó hoa hai màu gửi kèm một lời trích dẫn từ Kinh Thánh - vẫn chưa thấy xuất hiện. Vả lại dù sao thì lòng trung thành thật sự của cô vẫn luôn hướng về Ireland, mảnh đất bi thương của tuổi thơ đã chứng kiến cái chết của mẹ cô.

Vậy nhưng sâu thẳm trong tim, cô cũng hiểu đó chỉ là lời ngụy biện mà thôi. Nếu như Devlin biết được sự thật, rằng cô đã trợ giúp lũ kẻ thù mà anh dành sáu năm ròng chiến đấu chống lại, anh sẽ ruồng rẫy cô trong ghê tởm mất... hoặc là anh sẽ xử cô tội chết, một cái chết không thể nhục nhã hơn của một kẻ mang tội làm gián điệp.

Cô chợt phát hiện mắt anh đã mở ra và đang chăm chú nhìn cô. Anh có đôi mắt đặc biệt nhất trên đời, đôi mắt màu hổ phách với năng lực gần như không phải của mắt người thường, ấy là khả năng không chỉ nhìn thấy được rất xa mà còn nhìn được trong bóng tối. Thính giác của anh cũng nhạy đến bất thường nữa. Cô vẫn hay thích trêu rằng anh có một phần của loài sói trong người. Dù vậy, cô biết rằng những năng lực có chút siêu nhiên này luôn khiến anh cảm thấy bất an, bởi từ trước tới nay cả hai họ nội ngoại nhà anh đều chưa từng có người nào có những khả năng ấy cả.

“Kat yêu dấu,” anh nhẹ giọng gọi, tay vươn về phía cô. Cô chui vào vòng tay anh, một nụ cười vẽ ra trên môi khi cô cúi đầu đón nhận nụ hôn của anh. Cô rất thích mỗi khi anh gọi cô như vậy.

Anh siết chặt vòng tay đang ôm lấy cô, cọ má anh vào mái tóc cô. Và rồi cô đẩy hết những nghi ngại, những nỗi sợ hãi và cả những mộng tưởng xa vời ra khỏi đầu, dành trọn cả sự sống của cô cho riêng người đàn ông này, cho khoảnh khắc này.

Trong ấn tượng của Sebastian, ngài Bá tước xứ Hendon luôn bắt đầu mỗi ngày mới của mình ở London bằng một chuyến cưỡi ngựa đi dạo buổi sáng sớm trong công viên Hyde.

Buổi sáng thứ Hai hôm ấy, không khí mát mẻ và ẩm ướt với một màn sương mù dày len lỏi qua từng tán cây và không có dấu hiệu tan đi. Nhưng Sebastian hiểu tính cha mình: bảy giờ sáng, ông sẽ có mặt ở công viên, cưỡi con ngựa thiến màu xám của mình trên Rotten Row1. Vậy nên sáng hôm đó, anh đã cưỡi con ngựa cái Ả Rập màu đen duyên dáng mà anh nuôi ở London, phóng về hướng công viên.

1 Một con đường trong công viên Hyde chuyên dùng cưỡi ngựa vào thế kỉ XVIII và thế kỉ XIX.

“Ta không hay thấy con ra ngoài trước buổi chiều,” Hendon càu nhàu khi nhìn thấy Sebastian cưỡi con ngựa cái tên Leila đến đi ngang hàng với con ngựa xám to lớn của ông. “Hay là con còn chưa về nhà ngủ đấy?”

Sebastian nhẹ mỉm cười với chính mình, bởi anh biết sự thật là cho dù Hendon có thích cằn nhằn đến đâu thì trong thâm tâm ông lại kín đáo cất giữ niềm hãnh diện về cái mà ông gọi là sự hoang dã của con trai, cũng giống như niềm kiêu hãnh của ông về khả năng đấu kiếm, bắn súng và cưỡi ngựa của anh. Rượu chè, yêu đương và thậm chí cả bài bạc đều chỉ là những hoạt động khẳng định sự nam tính, mà mỗi một quý ông đều cho rằng con trai mình dù có dính vào thì cũng chỉ là chuyện hoàn toàn bình thường - miễn là không lún sâu quá mức. Ngược lại, cái mà Hendon chưa bao giờ chịu đựng và thông cảm được lại là niềm say mê của anh với sách vở và âm nhạc, là niềm hứng thú của anh với những tư tưởng triết học cấp tiến của Pháp và Đức.

“Con muốn được nghe quan điểm của cha về một chuyện,” Sebastian nói. Anh thong thả cưỡi ngựa bên cạnh cha mình một lúc trong im lặng rồi đột nhiên hỏi thẳng thừng, “Theo cha thì sự ủng hộ trong nước với việc khôi phục lại triều đại nhà Stuart lớn đến đâu?”

Hendon suy nghĩ câu trả lời lâu đến độ Sebastian bắt đầu nghi ngờ không biết liệu ông đã nghe thấy câu hỏi của anh chưa. Nhưng Hendon, cũng giống như Kat, thường hay suy nghĩ thật thấu đáo câu trả lời trước khi nói.

“Nếu như là một năm trước thì câu trả lời của ta là hoàn toàn không có ai ủng hộ.” Ông nheo mắt nhìn về phía một đàn vịt trời đang cất cánh bay lên, những đôi cánh sẫm màu sải rộng đưa chúng lẫn vào làn sương mù trên cao và để lại cả một không gian tràn ngập những tiếng kêu quang quác nghe thật ai oán. “Nhắc đến triều đại Stuart luôn khiến những người như Walter Scott và những người thuộc đảng Tory ở Scotland cảm thấy hoài niệm. Nhưng hoài niệm thì hoài niệm vậy thôi, chứ không ai phủ nhận được sự thật là một vị vua quá ư ngu ngốc khi đánh mất ngai vàng của mình chỉ vì cứ khăng khăng muốn chống lại ý nguyện của cả một dân tộc.”

“Vậy còn bây giờ thì sao?”

Ông khẽ liếc sang Sebastian một cái. “Giờ thì chúng ta đang có một vị vua bị điên, một vị Hoàng thân Nhiếp chính sống phóng túng và nợ ngập đầu, dành thời gian với các thợ may của mình nhiều hơn cả với các bộ trưởng, một vị công chúa mười lăm tuổi luôn ở trong trạng thái phấn khích, trong khi chính cha cô thì công khai gọi mẹ đẻ cô là gái điếm. Hôm trước ta vừa mới nghe thấy ai đó - mà hình như là Brougham - nói rằng tình hình triều chính dưới thời Stuart chẳng là gì nếu đem so với những chuyện đang diễn ra bây giờ.”

“Nhưng nhà Stuart không còn con cháu nào cả. James Đệ Nhị có hai người cháu trai là Hoàng tử Charlie và em trai ngài ấy là

Hoàng tử Henry. Hoàng tử Charlie không có đứa con hợp pháp nào trong khi Hoàng tử Henry thì trở thành một mục sư Công giáo và cũng đã qua đời cách đây... hình như là bốn năm rồi? ”

Hendon gật đầu. “Henry IX, ngài ấy vẫn hay tự xưng như vậy.

Giờ đây quyền thừa kế trong nội bộ gia tộc Stuart đang nằm trong tay con cháu của con gái Charles Đệ Nhất, Henrietta. Thật ra nếu theo đúng phép tắc mà tính thì ngai vàng lẽ ra phải thuộc về bọn họ sau khi Ann, con gái của James Đệ Nhị, qua đời vào năm 1714 chứ không phải cho George Đệ Nhất của nhà Hanover. Nhưng vấn đề lại nằm ở chỗ họ đều là người Công giáo.”

“Vậy người có khả năng giành lại ngai vàng bây giờ là ai?”

“Victor Emmanuel vùng Savoy.”

“Một vị quốc vương không vương quốc cai trị,” Sebastian trầm ngâm nói. Trước khi bị cách mạng Pháp bắt phải từ bỏ phần lãnh thổ nằm trên đất liền của nước Ý, Nhà Savoy đã từng cai trị Vương quốc Sardinia và Piedmont.

Hendon mím môi cười. “Chính xác”.

“Nhưng Savoy lại theo Công giáo - hơn một trăm năm trước, James Đệ Nhị cũng vì lý do này mà gặp rắc rối. Anh quốc thậm chí còn không chấp nhận cho một con chiên Công giáo được phép ngồi vào ghế Quốc hội, chứ đừng nói đến ngồi hẳn lên ngai vàng.”

“Không sai. Nhưng trước Savoy cũng đâu có thiếu người chấp thuận thay đổi tín ngưỡng để được lên ngôi vua.”

“Savoy chấp thuận thật sao?”

“Ta không biết. Gần đây ta nghe được nhiều chuyện rất nhiễu loạn. Về cái lời nguyền chẳng hạn, rằng Nhà Hanover bị nguyền rủa và cả Anh quốc cũng sẽ sớm bị nguyền rủa theo nếu những kẻ tiếm quyền vẫn còn tiếp tục ngồi trên ngai vàng. Con nghĩ chuyện này từ đâu mà ra được?”

“Cha nghĩ Jacobite2 là những người đã tung tin đồn ư?”

2 Tên gọi của những người ủng hộ James Đệ Nhị.

“Ai mà biết được chứ. Chỉ có điều là những tin thế này đang được người dân tiếp thu và rỉ tai truyền bá nhau nhanh lắm. Nếu ngoài kia thực sự vẫn còn tồn tại một tổ chức có âm mưu lật đổ Nhà Hanover thì bây giờ sẽ là thời điểm thích hợp nhất để hành động.”

Hendon tiếp tục cưỡi ngựa trong im lặng, ánh mắt nhìn vô định vào một điểm nào đó phía trước. Trong không gian im ắng vang lên tiếng ma sát kẽo kẹt của yên ngựa bằng da và những nhịp bước đều đều của vó ngựa trên đất mềm. “Ta ra đời một năm sau cuộc nổi dậy của Jacobite năm 1745.” Ông nói với chất giọng cứng ngắc. “Ta lớn lên cùng những câu chuyện về thời chiến tranh khói lửa ấy. Ta thực lòng không mong muốn phải nhìn thấy một tên ngốc nào đó bắt đầu lại những tháng ngày kinh hoàng đó.”

Sebastian chăm chú nhìn gương mặt nghiêm nghị của cha mình. Đó là một trong những sự kiện đã đi vào huyền thoại, cuộc nổi dậy vùng cao nguyên Scotland năm 1745 ủng hộ Hoàng tử Charlie. Sebastian cũng đã từng được nghe bà nội anh, một người thuộc phe Grant ở Glenmoriston3, kể chuyện về thời đó. Ấy là câu chuyện về những người trong dòng họ tay không tấc sắt, bị kéo lê ra khỏi lều trại và bị giết ngay trước mắt những đứa con đang gào khóc của họ. Về những người phụ nữ và trẻ con bị thiêu sống, hoặc bị đuổi ra khỏi làng để rồi chết rét trong tuyết lạnh. Những chuyện mà người dân cao nguyên Scotland đã phải chứng kiến sau trận Culloden4 sẽ mãi mãi là một vết nhơ trên tâm hồn nước Anh. Tất cả mọi thứ từ những chiếc kèn túi, những bộ đồ họa tiết kẻ ô cho tới tiếng Gael đều đã bị cấm lưu hành, xóa sạch hoàn toàn cả một nền văn hóa.

3 Một chi của phe Grant, đã tham gia chiến đấu ủng hộ quân Jacobite trong cuộc nổi dậy năm 1745.

4 Cuộc chiến cuối cùng trong cuộc nổi dậy Jacobite và một phần trong cuộc nội chiến Anh.

“Những ai sẽ ủng hộ việc khôi phục triều đại Nhà Stuart?” Sebastian hỏi. “Người Scotland sao?”

Hendon lắc đầu. “Những người cầm quân ủng hộ hoàng tộc Stuart đều đã bị giết hoặc lưu đày rất nhiều năm trước rồi, những người dưới trướng họ thì giờ đều nằm sâu trong những nấm mồ đã bị lãng quên - hoặc đã bị đẩy sang Mỹ hết cả. Thêm vào đó, cuộc nổi dậy năm ấy mục tiêu lớn nhất vẫn là vì Scotland chứ không phải vì Nhà Stuart. Người Scotland thì quan tâm gì tới một vị Hoàng tử Ý có cụ là con gái của Charles Đệ Nhất chứ không phải James Đệ Nhất chứ?”

Hendon nói đúng: ngoại trừ chút hoài niệm về một thời chiến đấu vì lý tưởng đã qua, người Scotland đã không còn hứng thú gì với việc ủng hộ Nhà Stuart giành lại ngôi vị nữa. Đã thế bây giờ phong trào chính trị Jacobite cũng không hấp dẫn đảng Tory. Đối với đảng Tory ngày xưa, sự tiếp quản của Nhà Hanover quả thực là một tai họa. Đảng Tory vào đầu thế kỉ XVIII và chủ nghĩa Tory của hiện tại, được xây dựng dựa trên nỗi khiếp sợ cách mạng Pháp, đã chẳng còn mấy điểm tương đồng. Đảng Tory giờ đây thay vì đồng cảm với Công giáo đã quay sang bảo vệ Giáo hội Anh, phản đối tinh thần tự do tôn giáo của Công giáo và tất cả những người phản đối khác. Mỉa mai thay, giờ đây đảng Whig mới là đảng bênh vực cho tự do tôn giáo.

Nhưng cũng khó để tưởng tượng nổi là đảng Whig sẽ ủng hộ hoàng tộc Stuart giành lại ngôi vị. Trong vấn đề này, đảng Whig vẫn giữ vững quan điểm từ xưa. Trong khi đảng Tory đã quay lưng lại với cải cách và ủng hộ quyền bất khả xâm phạm tài sản thay cho đấu tranh vì quyền tự do cá nhân, thì đảng Whig vẫn cống hiến hết sức lực cho việc hạn chế tối đa quyền lực của hoàng gia và khẳng định rằng những mục tiêu và thành tựu của cuộc Cách mạng Vinh quang cũng chính là mục tiêu và thành tựu của bản thân họ.

Hai cha con tiếp tục đi, màn sương mù buổi sáng đã bắt đầu tan dần với những cơn gió lạnh thổi tới làm người ta không ai lại muốn ra công viên tản bộ, ngoại trừ hai người cưỡi ngựa đơn độc. Hendon vẫn im lặng, ông đang suy nghĩ chuyện gì đó. Rồi ông lên tiếng, “Vì cái vòng đó phải không? Cái vòng đó là nguyên nhân con tham gia vào chuyện này.”

Sebastian quay sang, nhìn một bên mặt nghiêm nghị, cứng cỏi của cha mình. Họ chưa bao giờ thực sự thân thiết, kể cả trong những năm tháng tuổi thơ đầu đời rực rỡ nhất của Sebastian, khi mà những người anh yêu thương nhất trên trần đời này - mẹ anh, hai người anh trai anh là Richard và Cecil, vẫn còn sống. Thế rồi mùa hè tăm tối ấy cũng tới, năm mà họ mất đi Cecil và Sophie. Sau đó, anh có cảm giác ngài Bá tước đã thực sự bắt đầu căm ghét anh - căm ghét anh vì vẫn còn sống trong khi những người khác lại phải chết. Thời gian cứ dần trôi đi, Sebastian cũng bắt đầu nhìn thấy được tình yêu thương của ngài Bá tước với anh trở lại qua những phương thức biểu hiện có chút thô lỗ, cộc cằn. Nhưng mọi chuyện đã chẳng còn có thể trở về như xưa, cứ như thể đã có một bức tường của sự im lặng và không tin tưởng dựng lên kiên cố giữa hai người. Sebastian thực sự không biết phải làm thế nào để có thể phá bỏ bức tường ấy.

“Cũng một phần,” anh đáp đơn giản.

Sebastian vẫn chưa hỏi ngài Hầu tước đảo Anglessey vì sao vợ ông lại đeo chiếc vòng cổ xưa, vốn là vật phù hộ bình an mà một phù thủy xứ Wales đã tặng cho người cô yêu - Hoàng tử Stuart. Lúc trước, câu hỏi này có vẻ không thực sự phù hợp, bởi sự quan tâm của anh dành cho chiếc vòng lúc ấy chỉ mang tính cá nhân. Nhưng bây giờ nghĩ lại, có vẻ như chiếc vòng đá xanh này đóng một vai trò quan trọng hơn rất nhiều trong cái chết của Guinevere.