"Ta đã cận kề cái chết rồi, hỡi Ai Cập, đã gần lắm rồi. Ta chỉ có một điều trăng trối này thôi, Nữ hoàng ngọt ngào của ta: Caesar sẽ bảo đảm được cả danh dự lẫn sự an toàn của nàng.” Marc Antony nhìn nàng Cleopatra của mình đầy mong đợi.
Kat, mặc một chiếc tạp dề để bảo vệ bộ đồ diễn của cô bên trong cho buổi tập kịch, nhìn chằm chằm qua những hàng ghế tối om trong rạp hát tới chỗ một người đàn ông đang đứng ẩn mình, chiếc mũ kéo thấp che kín tận lông mày.
Lúc ấy đang là buổi chiều, cả rạp hát trống trơn và im lặng, chỉ trừ những tiếng gõ búa vọng vào từ bên ngoài và tiếng chổi loẹt quẹt của cô lao công đang quét dọn những miếng vỏ cam rơi rải rác trên sàn sau buổi diễn đêm qua. Người đàn ông đó lẽ ra không nên ở đây.
“Caesar sẽ bảo đảm được cả danh dự lẫn sự an toàn của nàng,” Marc Antony nhắc lại, giọng cao vút lên cường điệu. “Ai đó làm ơn hãy đánh thức vị Nữ hoàng ngọt ngào của Ai Cập?”
Kat giật mình quay đầu lại đối mặt với Marc Antony của cô. “Hai thứ ấy không tồn tại song song với nhau,” cô đọc tiếp lời thoại rồi vội tạo khẩu hình miệng nói một câu Xin lỗi.
Sau đó, cô rất cẩn thận tập trung vào buổi diễn tập để không lỡ thêm lượt thoại nào nữa, nhưng cô vẫn không ngừng để ý tới người đàn ông đứng trong bóng tối.
Cô nghĩ là mình nhận ra người đó. Đó là Công tước Royan, một trong những nhà quý tộc đã tới London trên chuyến tàu chở Louis Mười Tám, hay còn gọi là Bá tước Lille - ông ta vẫn tự xưng như vậy. Royan đã từng công khai chống đối lại chế độ cai trị của Napoléon. Nhưng Leon Pierrepont cũng từng tuyên bố mình là kẻ thù của Napoléon trong khi thật ra hắn đứng đầu tổ chức gián điệp Pháp ở London.
“Hãy lại đây, hỡi con rắn độc này,” Kat nói, đặt một con rắn bằng giấy bồi lên ngực. “Bằng những chiếc răng sắc nhọn của ngươi, hãy đặt dấu chấm hết cho cuộc đời rối ren của ta...” Khi cô quay đầu lại, Công tước Royan đã không còn ở đó.
Ngay khi buổi tập kịch kết thúc, cô vội vã chạy xuyên qua dãy hành lang về phòng thay đồ của mình. Cô mở tung cửa phòng, trái tim trong lồng ngực đập nhanh đến đáng sợ. Trên bàn trang điểm của cô đặt một bó hoa, một sự kết hợp hào phóng giữa ly trắng và hoa hồng được bao bọc bởi một tầng mây hoa chấm bi. Một bó hoa hai màu.
Kat vội giật lấy mẩu giấy nhắn được đặt trên những phiến lá đan xen và xé mở dấu niêm phong. “Ngài Bá tước Lille gửi lời chúc mừng và mong nàng hãy nhận lấy những đóa hoa nhỏ bé tầm thường này như một minh chứng cho lòng mến mộ của ngài.”
Không có lời trích dẫn Kinh thánh. Không có lời nhắn bí mật. Không có lời hẹn cho một cuộc gặp nguy hiểm nào cả.
Kat tựa trán lên tường, run rẩy hít vào một hơi thật sâu và khẽ bật cười nhẹ nhõm.
Trong suốt mấy giờ đồng hồ sau cuộc gặp gỡ với ngài Bá tước, Sebastian đi tìm hiểu loanh quanh về người bạn vui tính của Bevan Ellsworth - Fabian Fitzfrederick, đứa con trai ngoài giá thú của Hoàng tử Frederick, hay còn được biết đến là Công tước xứ York. Nhưng những việc Fitzfrederick đã làm vào ngày thứ Tư chết chóc ấy cũng vô thưởng vô phạt chẳng kém gì Bevan. Sau một ngày dài ở Tattersall, Fitzfrederick dành nguyên buổi tối tại đúng cái sòng bài mà bạn hắn là Ellsworth vẫn thường hay lui tới trong khu Pickering Place.
Sebastian cho Tom đi đến mấy cửa hàng trên phố Giltspur ở khu Smithfield xem có tìm thêm được manh mối gì mới không, còn anh thì một mình đi tới ngôi nhà của Hầu tước đảo Anglessey trên phố Mount.
Ngài Hầu tước đang ở trong căn nhà kính lát gạch phía sau ngôi nhà. Dừng lại dưới một tán lá cây dương xỉ thân gỗ nhẹ cong xuống, Sebastian nhìn thấy chồng của Guinevere - một người đàn ông đã đứng tuổi, thân hình cường tráng một thời giờ đây gầy guộc hốc hác, mái đầu bạc cúi xuống chăm sóc một đóa hoa nhài màu vàng đang nở tung rực rỡ. Thế rồi ngài Hầu tước bỗng ngẩng đầu lên và tất cả những ấn tượng về tuổi tác và sự ốm yếu liền bị đánh tan bởi một đôi mắt sáng lên trí thông minh đáng gờm và một tính cách vô cùng mạnh mẽ.
“Ta vừa mới tự hỏi không biết hôm nay ngài có tới không,” ngài Hầu tước nói, tháo đôi găng làm vườn ra rồi đặt sang một bên.
Sebastian nhìn quanh gian nhà kính ẩm ướt rợp bóng cây dương xỉ với những khóm phong lan và những giống cây nhiệt đới um tùm lá. Cả không gian ấm nóng tràn ngập mùi đất ẩm, hương cỏ cây tươi tốt và hương hoa dành dành ngọt ngào trồng ngay gần cửa. Ngài Hầu tước vốn nổi tiếng là người am hiểu các thứ cây cỏ hoa lá hiếm lạ. Người ta nói rằng khi còn trẻ, ngài đã giương buồm thực hiện một cuộc thám hiểm đến Nam Thái Bình Dương để thu thập các giống thực vật ở đó.
“Paul Gibson nói với tôi rằng anh ấy đã trình bày lại với ngài những kết quả thu thập được từ cuộc khám nghiệm tử thi vợ ngài rồi,” Sebastian nói.
Anglessey gật đầu. “Anh ta cho rằng Guin đã bị hạ độc.” Ông đưa một tay lên gần mặt, xoa đôi mắt đang nhắm lại bằng ngón cái và ngón trỏ. “Con dao găm ấy đã có thể là một cái chết nhân đạo hơn rất nhiều. Nhanh chóng. Không quá đau đớn. Nhưng xyanua ư? Xin Chúa cứu vớt, nàng ấy đã phải chịu đựng đau đớn đến thế nào? Nàng thậm chí còn nhận thức được mình đang chết dần. Ta thật không dám tưởng tượng những suy nghĩ cuối cùng của nàng là gì nữa.” Hai tay ông buông thõng, mắt mở lớn mịt mù trong đau thương. “Kẻ nào? Kẻ nào lại có thể làm chuyện tàn ác đến vậy với nàng cơ chứ?”
Sebastian chăm chú nhìn ánh mắt thống khổ của người đàn ông già cỗi. “Bevan Ellsworth nói rằng ngài không phải là cha của cái thai trong bụng phu nhân Anglessey.”
Những lời anh nói rất thẳng thừng và tàn nhẫn, nhưng cần thiết. Ngài Hầu tước quay phắt đầu lại, miệng hé ra vì sửng sốt và tức giận. Ông định bước lại phía anh, nhưng do quá đột ngột nên lại vấp vào một ô gạch bị kênh và phải vung một tay ra nắm lấy cạnh chiếc bàn sắt gần đó để giữ thăng bằng. “Ngài dám? Ngài dám nói những lời như thế sao? Ta đã từng xuống tay với kẻ khác vì những lý do còn ít xúc phạm hơn thế đấy.”
Sebastian vẫn giữ giọng bình tĩnh. “Ellsworth không phải là người duy nhất nói như vậy. Người ta đều bàn tán rằng phu nhân là người tình của Hoàng thân Nhiếp chính.” Mặt ngài Hầu tước đã trắng bệch, khuôn ngực gầy gò rung lên theo từng nhịp thở mạnh đến mức Sebastian bắt đầu lo rằng hình như anh đã đi hơi xa. “Đó không phải là sự thật.”
Sebastian nhìn theo không rời ánh mắt giận dữ của ông. “Vậy xin ngài hãy giúp tôi. Tôi không thể tìm hiểu được những gì đã xảy đến với phu nhân nếu tôi không được biết sự thật.”
Anglessey quay người đi. Đột nhiên, nhìn ông già đi rất nhiều và nhỏ bé hơn. Nhấc lên một cái bình tưới vòi dài, ông đi ra lấy nước. Rồi ông cứ đứng đấy như vậy, đầu cúi thấp.
Mãi rồi ông cũng quyết định lên tiếng, giọng đượm vẻ mệt mỏi. Cam chịu. “Chuyện đấy không hề dễ dàng, ngài biết đấy, phải sống những năm cuối đời mà bị ám ảnh bởi một suy nghĩ rằng thành quả ngài dành cả một đời xây dựng rồi sẽ tiêu tán hết theo lối sống phóng túng của kẻ khác.”
Sebastian im lặng chờ đợi. Một lúc sau, Anglessey hít một hơi thật sâu rồi tiếp tục. “Guinevere và ta đều hiểu rõ đối phương khi đặt chân bước vào cuộc hôn nhân này. Nàng ấy biết rằng ta cần một người vợ trẻ có thể sinh cho ta một người thừa kế, còn ta thì biết rằng trái tim nàng đã thuộc về người khác.”
“Phu nhân đã nói như vậy với ngài ư?”
“Đúng vậy. Nàng nghĩ rằng ta xứng đáng được biết. Và ta thì rất khâm phục nàng vì đã làm điều đó. Ta chỉ hy vọng rằng ít nhất chúng ta cũng có thể trở thành bạn bè và có lẽ chúng ta đã thật sự đạt được mối quan hệ đó.”
Bạn bè. Một mục tiêu lãnh đạm giữa người chồng và người vợ. Ấy thế nhưng cũng rất ít cặp vợ chồng trong xã hội của họ có được mối quan hệ như vậy.
“Vị phu nhân thứ hai của ta, Charlotte, vẫn luôn rất yếu.” Anglessey nói, tay giữ chặt lấy quai cầm của bình tưới nước. “Mười lăm năm cuối đời bà ấy, ta sống như một thầy tu. Những người đàn ông khác ở vị trí của ta hẳn là sẽ kiếm một tình nhân bên ngoài, nhưng ta lại không làm vậy. Có lẽ đó thật sự là một sai lầm.”
Có một câu châm ngôn từng nói về việc khi một người đàn ông ngừng ngủ với phụ nữ, anh ta sẽ mất hẳn khả năng ấy luôn. Một câu châm ngôn cổ có vẻ cũng chứa nhiều phần sự thật trong đó, Sebastian nghĩ vậy.
Anglessey cẩn thận tưới nước vào gốc một hàng dương xỉ. “Ta chưa một lần hoàn thành trọn vẹn nghĩa vụ đêm tân hôn với Guinevere.” Một màu đỏ nhàn nhạt xuất hiện trên đôi gò má cao của ông. “Nàng ấy đã cố. Cả hai chúng ta đều đã cố gắng rất nhiều. Nàng ấy hiểu việc có được một người thừa kế quan trọng đối với ta đến thế nào. Nhưng rồi cuối cùng chúng ta cũng đành phải chấp nhận rằng chuyện đấy sẽ không thể xảy ra.”
Ông thoáng ngập ngừng trước khi tiếp tục. “Hai năm trước, ta gợi ý nàng ấy kiếm lấy một tình nhân, một người có thể giúp ta sinh được đứa con trai thừa kế.” Ông quay đầu ra sau nhìn Sebastian. “Có lẽ ngài nghĩ việc một người đàn ông đẩy vợ mình vào con đường ngoại tình, chỉ để tìm cách kiếm được một đứa con hoang có thể tước đi quyền thừa kế của đứa cháu trai ruột, phải là một kẻ đê tiện lắm?”
“Tôi biết Bevan Ellsworth,” Sebastian trả lời đơn giản.
“À.” Anglessey di chuyển ra kệ trồng lan. “Đó là lần duy nhất mà Guinevere thực sự nổi giận với ta. Đó là một đòi hỏi rất quá đáng với nàng ấy - với bất kì một người vợ nào. Nàng làm ta cảm thấy như thể ta đã bảo nàng đi bán dâm vậy, mà xét ra thì đó cũng chính xác là điều mà ta đã làm. Nhưng rồi vào mùa đông năm ngoái...”
Giọng ông nhỏ dần, ánh mắt bần thần nhìn những khóm sum sê cây dương xỉ và hoa nhài lạ mắt, những khóm dành dành xen kẽ hoa hồng Trung Quốc mỏng manh. Ông cố gắng tìm lời nói tiếp. “Mùa đông năm ngoái, nàng ấy nói với ta rằng...”
“Rằng phu nhân chấp nhận làm việc đó?” Sebastian ướm lời hỏi khi anh thấy ông có vẻ như không thể nói tiếp được nữa.
“Đúng vậy.” Chỉ lớn hơn tiếng thì thầm.
Sebastian đứng đó, ngay giữa ngôi nhà kính trồng cây, hít thở bầu không khí nóng nực, khó chịu. Từ một góc ngôi nhà, vọng lại tiếng bong bóng nước lộp bộp của một cái vòi đang bơm nước vào ao cá vàng nho nhỏ. Bên cạnh nó là một lồng chim hoàng yến, chú chim nhỏ đang hót lên một giai điệu lẽ ra rất vui tươi, nhưng sao người ta nghe vào lại chỉ thấy một nỗi niềm thê lương tuyệt vọng.
“Người tình đó của phu nhân, tên người đó là gì vậy?”
Anglessey đổ hết nước trong bình tưới rồi chỉ đứng yên tại đó, nhìn chằm chằm xuống lớp đất ẩm trước mặt. “Ta không hỏi. Ta thực sự không muốn biết.”
“Liệu đó có phải là người mà phu nhân đã đem lòng yêu trước khi kết hôn với ngài không?”
Ông im lặng thêm một lúc. Hiển nhiên là ông cũng đã từng nghĩ tới khả năng đó. “Có thể. Nhưng thực lòng thì ta không biết.”
Sebastian thầm tính, đến mùa đông năm ngoái thì chàng Hiệp sĩ kia cũng đã hoàn thành việc học ở Oxford rồi. Có lẽ nào đôi uyên ương một thời đã gặp lại nhau ở London và quyết định nối lại mối quan hệ không? Một mối quan hệ đã nhận được sự ưng thuận từ phía người chồng?
“Ngài có biết họ thường hay gặp gỡ ở đâu không?” Sebastian hỏi.
“Không, tất nhiên là không rồi.” Anglessey dừng lại một chút. “Ngài nghĩ rằng có thể người đàn ông này - tình nhân của Guinevere - là kẻ đã giết nàng?”
“Cũng có thể. Ngài có biết lý do nào lại có thể khiến phu nhân tới phố Giltspur ở khu Smithfield không?”
“Smithfield sao? Lạy Chúa, ta không biết. Nhưng sao ngài lại hỏi như vậy?”
Sebastian chăm chú theo dõi những cảm xúc trong đôi mắt ông. “Phu nhân đã đi xe ngựa tới đó vào buổi chiều hôm phu nhân bị giết.”
Không có dấu hiệu gì cho thấy ông vốn đã biết về chuyến đi tới Smithfield của vợ mình nhưng đang tìm cách giấu nhẹm đi cả. Sebastian thử một chiến thuật khác. “Không biết phu nhân có quan tâm tới chuyện chính trị không, thưa ngài?”
“Guin ư?” Ông khẽ mỉm cười. “Gần như là không. Guin thích tìm hiểu về rất nhiều thứ, nhưng chính trị lại không phải là một trong số đó. Nàng vẫn luôn cho rằng đã là vua bù nhìn thì kẻ nào cũng như nhau cả thôi, cái mà người ta cần phải đề phòng cảnh giác là những kẻ nịnh hót và trộm cướp xun xoe quanh ngai vàng.” Ông nở nụ cười lớn hơn khi nhìn vào gương mặt Sebastian. “Ngài có thấy ngạc nhiên không?” ”
Sebastian lắc đầu, mặc dù thật lòng thì anh rất ngạc nhiên - nhưng không bởi quan điểm ấy mà là bởi chủ nhân của nó. Đó không phải là một suy nghĩ thường thấy ở một người phụ nữ lớn lên trong nhung lụa, là con gái của một bá tước và vợ của một hầu tước. Càng đáng ngạc nhiên hơn chính là việc ngài Hầu tước cảm thấy thích thú trước ý kiến này của vợ mình, thậm chí còn thấy nó có phần đáng yêu. Một ý tượng dị giáo như thế mà rơi vào tai Hendon chắc sẽ khiến ông nổi đóa lên mất.
“Vậy còn cháu trai ngài, Bevan Ellsworth, thì sao? Quan điểm chính trị của hắn ra sao?”
“Ta sẽ lấy làm ngạc nhiên vô cùng nếu biết Bevan đã từng dành một giây trong đời nó để nghĩ về chuyện chính trị. Đầu óc nó còn đang bận rộn suy tính những chuyện quan trọng hơn nhiều, đặc biệt là những chuyện liên quan đến phụ nữ, cá cược và quần áo. Vì sao vậy?”
Sebastian bước lại gần ngài Hầu tước, tay ông vẫn còn đang cầm bình tưới. “Ngài có biết gì về chiếc vòng cổ này không?”
Ánh mắt của Anglessey chuyển từ gương mặt Sebastian xuống chiếc vòng cổ bằng bạc với mặt đá xanh trong tay anh. “Không, ta không biết gì cả,” Anglessey nói, đôi lông mày với những nốt đồi mồi lấm tấm xung quanh nhíu lại bối rối trước sự chuyển chủ đề đột ngột này. “Sao vậy? Chiếc vòng này từ đâu ra?”
“Vợ ngài đã đeo nó lúc chết. Ngài có biết phu nhân có được chiếc vòng này từ đâu không?”
Sự bối rối nhường chỗ cho vẻ hoang mang mơ hồ và ánh nhìn trống rỗng không hiểu gì, trông thuyết phục vô cùng. “Không, không có chút ý niệm nào. Ta chưa từng nhìn thấy chiếc vòng cổ này trước đây.”
Sebastian thả bước trên những con phố tấp nập của London, từ Oxford ra đường Edgeware và xa hơn, đến khu vực mà những ngôi nhà ngay ngắn và những con đường lát gạch bị thay thế bởi các khu công trường xây dựng rộng lớn, rồi xa hơn cả thế, tới tận những cánh đồng xanh rì và những thửa ruộng nông sản nhỏ ở Paddington.
Thực sự là không thể tin được, tất cả những người có quen biết với Guinevere Anglessey mà anh được gặp đều chưa từng nhìn thấy chiếc vòng cổ bao giờ. Không chỉ vậy, theo lời người nữ tỳ Tess Bishop thì bộ váy áo phu nhân Hầu tước chọn mặc chiều hôm ấy có phần cổ áo cao nên chắc chắn phu nhân không thể đeo thêm chiếc vòng cổ xưa này được. Như vậy, rõ ràng là chiếc vòng cổ này, cũng giống như bộ váy sa tanh kia, đã được đeo lên người Guinevere sau khi cô chết. Nhưng vì sao? Và là ai?
Mặc dù Sebastian không mấy tin tưởng giả thiết này, nhưng vẫn có khả năng là Lãnh chúa Jarvis đã dùng chiếc vòng cổ này để dẫn dụ anh tham gia điều tra mà thôi. Nhưng nếu thế thì vẫn có một vấn đề nan giải: làm sao mà một chiếc vòng cổ lẽ ra đang nằm dưới đáy eo biển Manche lại đột nhiên xuất hiện ở đây?
Giả thiết của Hendon cho rằng đã có một gã nông dân nào đó tìm thấy xác của phu nhân Bá tước trôi dạt lên bờ rồi lấy chiếc vòng đem đi bán nghe ra thì cũng có lý. Thế nhưng Sebastian vẫn không thể ngừng nghĩ đến một giả thiết hợp lý hơn - rằng Sophie Hendon đã không chết trong vụ tai nạn tàu thuyền ngày ấy mà chỉ đơn giản là bà đã cùng con thuyền ra đi, bỏ lại người chồng, đứa con gái đã xuất giá và một đứa con trai mười một tuổi ở lại khóc thương bà.
Sebastian đưa mắt nhìn qua cánh đồng cỏ trước mặt tới tận hàng cây du bên bờ suối đằng xa. Kể cả khi còn nhỏ, anh cũng không nuôi mộng tưởng gì về cuộc hôn nhân của cha mẹ. Đó vốn là cách mà xã hội của họ vận động, các ông chồng thì bận rộn với công việc của Quốc hội và các câu lạc bộ quý ông, để lại các bà vợ ở nhà tự tìm niềm vui thú ở những thứ khác. Trong kí ức của Sebastian, Sophie Hendon là hiện thân niềm hạnh phúc quý báu của anh, cái ôm của bà dịu dàng và đầy tình thương yêu, tiếng cười rộn rã của bà vẫn còn vọng lại trong tai anh rất nhiều năm sau đó. Thế nhưng, những ngày tháng đi học của anh lại được ghi dấu bởi rất nhiều cuộc ẩu đả để bảo vệ danh dự mẹ mình. Trong một xã hội mà ngoại tình đã là chuyện cơm bữa, phu nhân Bá tước Hendon lại nổi tiếng là vô cùng lăng nhăng.
Một con quạ bay vút lên từ cánh đồng bên cạnh, nó kêu khàn khàn và đôi cánh nó đen ngòm trên nền trời nhiều mây. Sebastian dừng lại, rồi quay người đi về hướng đường New. Anh chưa từng nghĩ rằng mẹ mình sống không hạnh phúc, nhưng giờ nhìn lại anh mới nhận ra rằng có lẽ chính một cuộc sống không hạnh phúc đã khiến bà lúc nào cũng bồn chồn, khiến cho nụ cười của bà có một vẻ dễ vỡ như thế. Chẳng lẽ bà buồn rầu đến mức cứ thế mà lên một con thuyền, dứt áo ra đi bỏ lại họ? Bỏ lại anh?
Anh vẫn còn nhớ nỗi đau thương khôn nguôi của mùa hè năm ấy. Anh đã không tin lúc người ta thông báo với anh kết cục bi thảm của chuyến du thuyền hóng mát. Anh nhớ về những giờ đồng hồ nóng nực dài đằng đẵng mà anh đã trải qua trên vách đá nhìn ra biển. Ngày này qua ngày khác, anh cứ đứng trên đó, dùng đôi mắt khô khốc và đau nhức của mình mà kiên định canh chừng cả một vùng biển lấp lánh ánh mặt trời, chờ đợi một cánh buồm sẽ không bao giờ quay trở lại. Rồi anh nghĩ đến khả năng có thể tất cả những chuyện này chỉ là một màn kịch, trong ngực anh liền tràn ra một cơn tức giận chua xót và cả một nỗi đau âm ỉ quặn thắt.