• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tượng thần sụp đổ
  3. Trang 44

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 43
  • 44
  • 45
  • More pages
  • 69
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 43
  • 44
  • 45
  • More pages
  • 69
  • Sau

Chương 41

T om không thích Smithfield. Những thứ làm cậu bé có ác cảm không chỉ là mùi máu tanh, mùi thịt sống hay mùi da mới thuộc nồng nặc nơi đây mà còn là tấm màn chết chóc phủ trùm từng ngõ ngách, rút cạn hết không khí, dù vô hình nhưng vẫn đè lên ngực nó nặng trĩu và bức bối.

Cả ngày hôm nay, nó rất nản lòng bởi cứ phải đi loanh quanh từ sáng đến giờ mà không thực sự hiểu mình đang tìm gì và cũng chẳng phát hiện ra được cái gì có ích cả. Vậy nên khi bóng người bắt đầu đổ dài theo ánh hoàng hôn, chuẩn bị đón màn đêm buông xuống, nó cảm thấy nhẹ cả người, quay bước về nhà.

Khi đang bước ngang qua con ngõ hẹp dẫn vòng ra sau nhà trọ Norfolk Arms, ánh mắt nó vô tình liếc vào trong và nó để ý thấy có một cỗ xe bò đang đỗ lại trước cửa hầm rượu của quán trọ. Ba người đàn ông đang im lặng dỡ hàng từ trên xe xuống. Chẳng hề có một lời đùa cợt vui vẻ nào như người ta vẫn thường thấy, người đàn ông đứng trên xe chỉ im lặng lần lượt truyền từng cái thùng nhỏ xuống cho hai người đứng dưới những bậc thang dẫn xuống hầm.

Một người đàn ông khác, dáng mảnh khảnh và đang mặc một chiếc áo choàng kiểu quý ông, đứng gần đó, quay lưng lại cửa ngõ.

Tom đứng nấp vào sau mấy chồng thùng thưa, theo dõi hoạt động của họ một lúc. Ban đầu, nó nghĩ rằng có lẽ đó chỉ là những thùng vang Pháp lậu được chuyển về từ đâu đó phía bên kia bờ biển. Chỉ có điều là trông chúng không giống mấy thùng rượu lắm, mà giống mấy thùng thuốc súng hơn.

Hình ảnh ấy cũng chẳng phải là lạ lẫm gì giữa lòng London những ngày này. Sau gần hai mươi năm liên tục nước Anh sống cùng chiến tranh, có lẽ chẳng có một đứa trẻ nào lại chưa từng nhìn thấy hình ảnh binh lính hành quân qua phố, hình ảnh những cỗ xe chở đầy các thùng thuốc súng và những hộp súng nòng dài đang ra cầu tàu để rồi được người ta chất lên những con thuyền đi tới vùng Bán đảo, Tây Ấn, Ấn Độ và tới vùng biển phía Nam.

Chỉ có điều là thuốc súng này lại không được chuyển ra cảng mà đang dần biến mất vào trong hầm rượu của quán trọ mà phu nhân Anglessey đã ghé qua vào đúng ngày cô ấy bị giết. Và đó là một việc mà Tom - sau một hồi thầm tranh luận với bản thân - quyết định là mình không thể bỏ qua được.

Nó không cần nhớ tới lời dặn vẫn còn văng vẳng trong đầu của Lãnh chúa Devlin để hiểu được rằng những người đàn ông này rất nguy hiểm. Tom đã từng vất vưởng nơi phố chợ đủ lâu - ban đầu là với Huey, sau đó là một mình - để ngửi được mùi nguy hiểm trước mắt. Có đôi lúc, nó vẫn hay tưởng tượng rằng Huey vẫn còn ở đây bên cạnh giống như là một thiên thần hộ mệnh vậy, cảnh báo nó mỗi khi có mối nguy lại gần. Nó cảm nhận được Huey đang ở trên vai, ngăn nó không được đi vào con ngõ đó.

“Em phải làm chuyện này, Huey à,” Tom thì thầm. “Anh biết là em cần phải làm vậy mà.”

Nó rón rén tiến lại gần mấy người đàn ông, lưng áp sát vào bức tường gạch gồ ghề phía sau. Mùi không khí nhớp nháp, ẩm mốc của con ngõ xộc thẳng vào mũi. Một người đàn ông bước ra từ bên trong quán trọ, một gã to cao, hói đầu, với những đặc điểm gương mặt của người châu Phi mà Tom nhận ra là chủ quán trọ, Caleb Carter.

Carter và người đàn ông mặc áo choàng đứng nói chuyện với nhau. Gần như cúi gập người lại, Tom tiến lại gần bọn họ, tiếng bước chân nó êm ru trên nền đất ẩm.

“Lẽ ra phải có hai xe,” gã chủ quán trọ nói, cái đầu hói phản chiếu sáng bóng ánh đèn phía sau lưng gã. “Sao bây giờ lại thế này?”

Tom không dám thở, cúi người nấp sau một đống ván cũ và những khung cửa sổ bị gãy xếp chồng lên nhau.

“Chỉ có ngần này thôi. Họ nói rằng thế là đủ rồi.”

Gã chủ quán trọ ngoảnh đầu nhìn hai bên trước khi cãi lại. “Nếu như gặp phải sự chống cự...”

“Sẽ không có chuyện đó đâu,” gã đàn ông mặc áo choàng nói, chân bước vào phần ánh sáng hình chữ nhật phát ra từ bên trong quá trọ qua khung cửa ra vào để mở.

Giờ thì Tom đã có thể nhìn rõ được gã. Đó là một người đàn ông thấp bé với một mái tóc màu vàng nhạt khá dài và một gương mặt gầy. Quần áo của gã đích thị là đồ của một quý ông thuộc tầng lớp trên và Tom thắc mắc không biết sao gã lại ở đây, giám sát việc dỡ hàng như một công nhân bình thường thế này.

“Cái này chỉ là để đề phòng thôi,” gã đàn ông tóc vàng nói. “Đây sẽ là một cuộc Cách mạng 1688 thứ hai.”

Carter làu bàu. “Theo như những gì tôi nghe được thì mặc dù họ gọi đó là cuộc Cách mạng Không Đổ Máu, nhưng ngài cũng thừa biết sự thật không phải là như vậy, thậm chí còn khác xa thế nữa.”

Bỗng nhiên ngoài phố nổ ra một tràng những tiếng nổ bồm bộp, kéo theo một tràng cười của trẻ con, như thể có ai đó vừa đốt một dây pháo. Âm thanh ấy nổ ra quá đột ngột, mà thần kinh Tom lại đang căng lên như dây đàn nên nó giật mình, một bàn chân liền sơ ý trượt sang ngang, dẫm vào một mảnh thủy tinh vỡ.

Gã đàn ông tóc vang xoay phắt người lại, một tay cho vào túi áo khoác. “Tiếng gì vậy?”

Gã chủ quán trọ bước về phía trước và Tom có thể cảm thấy Huey đang hét lên, Chạy đi, Tom! Nhưng Tom không cần phải để người khác nhắc, nó đã bật dậy chạy đi.

Nó chạy về phía phố Giltspur tràn đầy âm thanh và hoạt động, bước chân trơn trượt trên nền đất đầy bùn lầy của con ngõ. Nó lao ra khỏi cửa ngõ, suýt thì đâm phải một cỗ xe ngựa nhỏ. Gã đàn ông tóc vàng phía sau nó hét theo đầy giận dữ, “Bắt nó lại! Bắt thằng ăn trộm lại!”

Ôi, lạy Chúa, Tom nghĩ, tim đập nhanh đến phát đau. Ôi Chúa ơi, không. Nó vừa phóng vào một con phố nhỏ thì nghe thấy tiếng tuýt còi chói tai không dứt sau lưng. Tom nhảy qua một cái xe ba gác chắn giữa đường và tiếp tục chạy, thở hồng hộc nặng nề.

Trời sắp tối hẳn. Nó có thể nhìn thấy được bóng dáng lờ mờ của những sạp hàng trong khu chợ trước mặt. Nếu như chạy ra được đến đó, nó sẽ có thể ẩn mình vào giữa những sạp hàng trống trơn ấy, có thể là chui xuống dưới một cái quầy nào đó chẳng hạn...

Tiếng tuýt còi lại vang lên. Nó vội liếc nhìn ra phía sau rồi cứ thế đâm sầm vào vòng tay mở lớn của một tay quản lý trật tự trị an khu chợ vừa bước ra từ sau sạp hàng cạnh đó.

Đôi tay to khỏe của tay quản lý kìm chặt hai vai Tom. “Bắt được rồi nhé.”

Tom cố giãy về phía sau, máu chảy rần rần trong tai, hơi thở gấp gáp. Gương mặt tay quản lý to bành đầy thịt, cái mũi của gã thì phồng ra như củ hành. Trong ánh sáng cuối ngày, những cái cúc áo bằng đồng của hắn sáng lên lấp lánh như vàng ròng.

“Mày gây ra chuyện gì vậy hả?”

“Không,” Tom hổn hển đáp. “Cháu không làm gì cả.”

Gã tóc vàng chạy lại, cái áo khoác của hắn phấp phới bay lên theo từng bước chân. “Thằng nhãi ranh này ăn cắp chiếc đồng hồ của bạn ta.”

Tom run lên trong vòng kìm cặp của tay quản lý. “Cháu không ăn cắp!” Nó sợ hãi đến mức chân không ngừng run lên lẩy bẩy và nó phải gồng mình lên mới có thể ngăn bản thân không tè luôn ra quần.

“Không sao?” gã tóc vàng nói, tay vươn ra. “Thế đây là cái gì?”

Đấy là một mánh khóe cũ rích. Tom nhìn thấy cái đồng hồ vàng gã giấu trong lòng bàn tay và cố gắng bước lùi lại cách xa hắn ra, nhưng tay quản lý giữ nó cứng còng tại chỗ. Hắn cứ giữ nó như vậy trong khi gã tóc vàng cho tay vào túi nó rồi cầm phần dây kéo chiếc đồng hồ ra ngoài.

“Đây rồi.”

Tom gồng mình cố giật ra khỏi hai tay của gã quản lý. “Hắn giấu nó trong lòng bàn tay. Ngài cũng thấy nó mà, đúng không? Đúng không?”

“Chà chà, nhóc con,” tay quản lý nói. “Mày đã bị bắt quả tang tại trận rồi. Tốt hơn hết thì bây giờ mày hãy sẵn sàng đón nhận hậu quả như một người đàn ông Anh đích thực đi.”

“Cháu bảo với ngài rồi mà, cháu không ăn cắp cái đồng hồ khỉ gió nào của ai hết. Cháu là người hầu của Tử tước Devlin và những gã đàn ông kia thì...”

Tay quản lý rống lên cười. “Hô, hẳn là vậy rồi. Còn ta đây là Henry VIII.” Hắn nhìn qua gã tóc vàng. “Ngài có định báo án không?”

Gã tóc vàng có một vẻ mặt rất đáng ngờ, nhìn như là đang tính toán chuyện gì đó. Đột nhiên Tom cảm thấy hối hận vì đã nhắc đến tên Lãnh chúa Devlin trước mặt hắn.

“Bạn tôi sẽ làm vậy,” gã tóc vàng nói, nở một nụ cười lạnh lẽo nhìn Tom. “Chúng tôi muốn thằng ranh con này bị treo cổ.”