Vườn Thảo Dược nằm ở bờ bắc sông Thames, trong khu Chelsea. Đó là một khu vườn lâu đời, có lẽ được xây dựng từ thế kỉ XVII hoặc sớm hơn. Bản thân Kat thì chưa từng tới đây bao giờ nhưng cô biết rằng những cung đường cong cong và những luống cây không bóng người ở đây là địa điểm gặp gỡ lý tưởng nhất, nơi mà một gián điệp và người phụ trách mạng lưới gián có thể gặp nhau và nói chuyện một lúc lâu mà không làm dấy lên nghi ngờ gì.
Đã từng có một thời cô luôn hồi hộp mong ngóng trước những buổi hẹn gặp như thế này. Cô đã từng rất thích cái cảm giác ấy, cái cảm giác phấn khích râm ran khắp người khi được sống một cuộc sống mà hiểm nguy luôn rình rập khắp mọi nơi. Đã từng có một thời, cô chẳng còn gì khác để mất ngoài mạng sống của chính mình. Giờ thì mọi chuyện đã khác rồi.
Cô tự đánh cỗ xe bốn bánh của mình đến Vườn Thảo Dược, George - người giữ ngựa của cô, ngồi kế bên. “Hôm nay trời nóng thật đấy,” cô nói với George, tay ghì lại cương ngựa trước cổng Tây. “Dẫn chúng tới nơi nào mát mẻ một chút nhé.”
Giơ cao một chiếc ô lụa màu xanh ngọc bích để che đi ánh nắng mặt trời đang chiếu rọi xuống, cô tiến vào cổng Tây của khu vườn rồi rẽ sang chỗ hồ nước với hòn non bộ. Ở đây mát hơn. Một cơn gió thoảng qua khẽ làm cành lá cây chanh trên cao rung rinh xào xạc, đưa một bản hòa tấu những mùi hương ngọt ngào tới chỗ cô đang đứng. Mùi hương thảo phơi no nắng, hương hoa nhài ngoại lai và mùi cỏ mới cắt.
Cô đi dạo một lúc giữa những luống hoa hồng ngay ngắn. Cô nhìn thấy một người đàn ông luống tuổi, lưng còng xuống, làn da đen xạm đi vì những năm tháng phơi mình dưới nắng mặt trời nhiệt đới. Nhưng ông không tiếp cận cô và cuối cùng thì cô đã mất dấu ông giữa một đám cây bụi đằng xa.
Cô vẫn đi tiếp, đầu ngón chân mang giày đá vạt váy ra phía trước theo từng bước đi. Cô tự hỏi không biết người phụ trách mạng lưới gián điệp mới này sẽ là ai. Liệu đó có phải là một người Pháp di cư như Pierrepont? Hay là một người Anh dại dột - hoặc bất hạnh - đến mức bị quân Pháp bắt thóp. Hoặc có lẽ là một người bất mãn với chính Tổ quốc của mình nên đã nuôi dưỡng một lòng ngưỡng mộ với người Pháp và những gì bọn họ đang làm bên kia bờ eo biển Manche.
Bản thân Kat thì chẳng có cái gọi là lòng trung thành với quân Pháp. Mặc dù quả thật lý tưởng của cuộc Cách mạng Pháp rất hợp lòng cô nhưng sự tàn bạo đến không tưởng của nó làm cô thấy ghê tởm. Vả lại cuối cùng thì người Pháp cũng đã phản bội lại chính lý tưởng của mình mà quay ra quy phục một tên độc tài quân sự, bị hắn làm cho mê muội bởi viễn cảnh về một tương lai nơi người Pháp nắm quyền tối cao.
Cô tin vào câu châm ngôn cổ: “Kẻ thù của kẻ thù là bạn của ta.” Kẻ thù của Kat là nước Anh. Kẻ thù của cô vẫn luôn là nước Anh, thậm chí trước cả buổi sáng mờ sương ở Dublin ngày ấy, một buổi sáng đã chứng kiến cả thế giới của cô vỡ nát thành nghìn mảnh dưới những bước hành quân rầm rập của lính tráng, bởi tiếng gào thét của một người phụ nữ và hai cái bóng người liêu xiêu trong gió.
Cô phát hiện ra một vị khách khác cũng đang thăm vườn. Đó là một người đàn ông cao lớn, mặc một chiếc quần ống túm thuộc da màu nâu vàng và một chiếc áo khoác màu xanh ô liu được cắt may tinh tế, dáng người có chút gầy nhưng mạnh mẽ. Tất nhiên là cô nhận ra người đó. Tên anh ta là Aiden O’Connell, con trai thứ của Lãnh chúa Rathkeale vùng Tyrawley.
Cả người cô căng lên có chút mất tự nhiên. Trong khi người dân Ireland đang bị đuổi ngay trên đất đai của mình thì nhà Tyrawley O’Connell quay sang quy phục nước Anh và tiếp nhận tôn giáo của họ. Thế nên đến ngày hôm nay, nhà O’Connells không chỉ giữ được toàn bộ tài sản của mình mà thậm chí còn giàu lên.
Cô dừng lại bên hồ nước, chờ anh ta lại gần cô. Anh ta là một người đàn ông điển trai với đôi mắt xanh lá lấp lánh và hai lúm đồng tiền trên hai bên má rám nắng.
“Chúc cô một buổi sáng tốt lành,” anh ta phấn khởi chào cô, lúm đồng tiền hai bên má sâu thêm. “Một khu vườn thật đẹp phải không?”
Cô vẫn chỉ giữ ánh mắt mình tập trung vào mặt nước hồ sáng lấp lánh trong nắng. Cô cảm thấy thật khó tin việc một người như vậy mà lại đi phụ trách mạng lưới gián điệp cho Napoléon ở London và nếu như anh ta quả thật chỉ tình cờ có mặt ở đây thì cô hoàn toàn không mong muốn anh ta có ý định tiếp tục để ý đến mình.
“Làm tôi nhớ đến mấy khu vườn tôi từng nhìn thấy ở Palestin hồi trước,” anh nói tiếp khi không thấy cô đáp lời, “không xa Jerusalem. Dưới ánh nắng mặt trời, bá hương và sung dâu tỏa ánh hào quang rực rỡ như bạc vàng, cao lớn đến nỗi nhìn vào mà tưởng như chúng xuyên thủng cả trời.”
Cô chậm rãi quay sang đối mặt anh ta. Cô nhận ra anh ta lớn tuổi hơn vẻ ngoài, có lẽ là tầm ba mươi chứ không phải hai mươi lăm tuổi. Và trong đôi mắt anh ta ánh lên một sự thông minh sắc bén mà thường người ta sẽ không nhận ra vì đã bị đôi má lúm đồng tiền kia thu hút hết mọi sự chú ý.
“Hôm nay, tôi tới đây gặp ngài chỉ vì phép lịch sự mà thôi,” cô nói, dù sự thật thì không hẳn là như vậy. Cô tới vì cô biết rằng nếu mình không xuất hiện, bọn họ vẫn sẽ tiếp tục tìm cách liên lạc với cô. “Tôi không muốn làm việc này nữa.”
Nụ cười của Aiden O’Connell càng tươi hơn, đuôi mắt anh nheo nheo lại. “Là vì Lãnh chúa Devlin phải không? Lúc trước tôi cũng đã tự hỏi mình chuyện này.”
Cô vẫn nhìn anh ta nhưng không nói câu nào và sau một lúc thì anh ta quay đầu đi, nhìn ngang mặt hồ về phía bờ bên kia, nơi có một con vịt đang lạch bạch xuyên qua một đám sậy, dẫn theo mười con vịt con phía sau. “Ngài ấy có biết tới lòng ái mộ của cô với người Pháp không?”
“Tôi chẳng có lòng ái mộ gì với người Pháp cả. Tôi làm việc là vì Ireland.”
“Tôi không nghĩ là ngài ấy sẽ thấy có sự khác biệt gì ở đây.”
Sự sợ hãi thổi bùng lên cơn tức giận trong Kat. “Đó là một lời nhận xét hay đe dọa?”
Anh thích thú nhìn cô. “Chỉ là một lời nhận xét thôi, tôi xin đảm bảo.”
“Bởi vì nếu như đó mà là lời đe dọa thì thứ lỗi tôi nhắc lại để ngài và chủ nhân của ngài nhớ rằng tôi cũng có thể khiến các vị chịu tổn hại y như những gì mà các vị có thể làm tổn hại đến tôi đấy. Và cho dù tôi có chết đi thì các vị cũng sẽ vô phương ngăn chặn những tổn hại ấy.”
Anh ta không còn cười nữa. “Người Pháp không phải là chủ nhân của tôi,” anh ta nói. “Và tôi cũng không nghĩ có cái gì đe dọa đến tính mạng của cô đâu.”
Cô không mấy tin tưởng gì vế sau lời anh ta vừa nói. Cô đã nói ra rất rõ ràng quan điểm của mình, còn việc O’Conner và cả quân Pháp có coi lời đe dọa của cô là đủ nghiêm túc để không quay lại làm phiền cô trong tương lai nữa hay không thì còn phải chờ xem mới biết được. Và lúc ấy, cô mới chợt cay đắng nhận ra rằng đây là một nguy cơ sẽ mãi mãi ám ảnh cuộc sống của cô. Một nỗi sợ hãi cô sẽ không bao giờ có thể hoàn toàn trút bỏ được.
Cô chăm chú nhìn gương mặt thư thả của người đàn ông bên cạnh. “Sao ngài lại làm việc này?” cô bỗng nhiên hỏi.
“Cũng cùng lý do với cô thôi.”
“Vì Ireland sao?”
Anh ta nhướng một bên mày. “Cô cảm thấy chuyện này khó tin đến thế sao?”
“Từ những gì tôi được biết về nhà O’Connells thì quả thật là vậy.”
“Người nhà O’Connells chúng tôi luôn quan niệm rằng chỉ có kẻ ngu ngốc mới đi lấy trứng chọi đá.”
“Đó là cách ngài nhìn nhận những người đàn ông và phụ nữ dũng cảm đã chiến đấu và hy sinh vì Ireland suốt những năm qua sao? Rằng tất cả bọn họ chỉ là những kẻ ngu xuẩn lấy trứng chọi đá?”
Anh ta lại nở nụ cười để lộ hai cá má lúm đồng tiền. “Đúng vậy. Ngày Ireland giành được độc lập rồi sẽ đến, nhưng nó sẽ không đến một khi nước Anh còn chưa suy yếu. Và thế lực làm nước Anh suy yếu chắc chắn sẽ không thể là Ireland, mà sẽ là một nước khác. Pháp chẳng hạn. Hoặc có thể là nước Phổ.”
“Phổ và Anh là đồng minh.”
“Đã không còn là như vậy nữa rồi.”
Họ đứng yên trong im lặng thêm một hồi, ánh mắt của cả cô lẫn anh ta đều tập trung lên con vịt mẹ đang giúp đàn con của mình xuống nước, từng đứa, từng đứa một. Cả không gian ngập tràn một điệp khúc quác quác vui vẻ và tiếng sóng nước nhè nhẹ tản ra khắp mặt hồ.
“Sự bất mãn của người dân đang dâng lên rất cao,” O’Connell nói. “Các tin đồn. Những lời xầm xì bán tán. Mọi người đều đã sẵn sàng cho một sự thay đổi.”
“Sự thay đổi như thế nào cơ?” cô hỏi, hơi thở đột nhiên vô cùng gấp gáp, hồi hộp, khiến cô phải dùng mọi khả năng của một diễn viên để giữ giọng nói nghe bình thản, không mấy để tâm.
Anh ta vẫn chăm chú nhìn đàn vịt trước mặt. “Một triều đại khác, có lẽ là vậy.”
“Chuyện đó thì có ích gì cho Ireland?”
“Nhà Stuart vốn vẫn có lòng đồng cảm với người theo Công giáo hơn.”
Cô quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt anh ta. “Nhà Stuart đã không còn con cháu nối dõi. Không hẳn. Và nước Anh dù sao cũng sẽ không bao giờ chấp nhận một vị vua Công giáo. Ngài không nhớ những gì đã xảy ra với James Đệ Nhị sao?”
“James Đệ Nhị không hề làm gì để gây dựng lại Công giáo ở nước Anh. Tất cả những gì ông muốn chỉ là sự khoan dung và ngừng những thứ luật lệ làm suy yếu Công giáo.”
“Nhưng người dân vẫn không chấp nhận ông. Và nếu như 120 năm trước người ta còn không chấp nhận được James Đệ Nhị thì điều gì khiến ngài nghĩ bây giờ họ sẽ chấp nhận một người như ông?”
“Bởi vì Nhà Hanover đã phát điên cả và tất cả mọi người đều biết điều đó. Bởi vì hàng ngàn, hàng vạn người đang không có công ăn việc làm, phụ nữ và trẻ em thì đang chết đói nơi đầu đường xó chợ. Bởi vì chúng ta đã tham chiến quá lâu đến mức dường như người ta chỉ còn nhớ mỗi thế. Nếu như có một vị vua mới đảm bảo sẽ mang hòa bình trở lại, chấm dứt chế độ tô thuế cao ngất và chính sách cưỡng bức tòng quân, tôi nghĩ sẽ có rất nhiều người ủng hộ.”
Kat nheo mắt lại. “Ai là người đứng sau chuyện này?”
Anh ta quay sang nhìn cô với một vẻ đăm chiêu làm cô nhận ra mình đã nói quá nhiều, đã thể hiện quá nhiều sự quan tâm. “Đó chính là điểm thú vị của các loại âm mưu,” anh ta mỉm cười, nói.
“Nhiều người có thể có hứng thú trước cùng một âm mưu nhưng lại vì những động cơ hoàn toàn khác nhau. Những động cơ mà đôi khi còn chẳng tương thích lẫn nhau. Sao ta lại cần quan tâm đến người giật dây phía sau, chẳng phải cứ có lợi cho Ireland là được rồi sao?”
“Ý ngài là sự khôi phục của triều đại Stuart có thể sẽ dẫn tới hòa bình với quân Pháp,” cô nói. Mặt trời vượt qua những tán cây cao nhất của cây dẻ bên kia ao nước, rọi thẳng từng tia nắng chói chang vào mắt cô. Cô nghiêng cái ô trên tay về một góc độ che kín được cả khuôn mặt mình khỏi ánh nắng. “Nhưng tôi tưởng việc Anh tiếp tục giao chiến với Pháp mới là có lợi cho Ireland chứ? Chính ngài mới nói rằng chúng ta cần phải làm nước Anh suy yếu. Đó là cơ hội duy nhất để Ireland có thể giành được tự do.”
Anh ta bật cười. “Cô thật thông minh.” Anh ta nghiêng người về phía cô, bỗng nhiên trông anh ta nghiêm túc đến không ngờ. “Nhưng nếu việc nước Anh giao tranh với Pháp đã là có lợi cho Ireland rồi thì cô nghĩ xem, một cuộc nội chiến ở Anh sẽ còn có lợi đến mức nào nữa?”
Cô chăm chú nhìn anh ta, nhưng anh ta cũng giỏi che giấu suy nghĩ thật sự của mình y như cô vậy. “Đó là điều mà những người này đang nhắm tới sao? Một cuộc nội chiến?”
“Có lẽ là không. Nhưng tôi nghĩ đó là điều mà họ sẽ nhận được.”
Đến giữa buổi sáng, Tom đã đói đến mức đầu óc bắt đầu quay cuồng. Trước kia, nó đã từng phải chịu đói, trong những ngày đen tối trước khi số phận mang Tử tước Devlin vào cuộc đời nó. Nhưng mấy tháng qua, nó đã dần quen với một cái bụng no căng và một chiếc giường ấm áp. Nó thậm chí còn bắt đầu cảm thấy an tâm, an tâm như trong những năm tháng hạnh phúc nhất mà giờ đây nó chỉ còn nhớ một cách lờ mờ trước khi cha lâm bệnh và mẹ nó...
Tom vội dập tắt những suy nghĩ đó trong đầu trước khi nước mắt và sự hoảng loạn kịp đổ ập xuống nó lần nữa.
Nó đang ngồi dựa vào bức tường phía trong, trán dựa lên hai đầu gối đang co lại thì bỗng nghe thấy tiếng ầm ĩ ngoài sân, đám đàn ông thì đập đập, gõ gõ mấy cái ca thiếc lên song sắt buồng giam còn mấy người phụ nữ thì cười cợt buông lời khiêu khích mời gọi.
Đám đàn ông và mấy đứa trẻ con trong buồng giam của Tom bâu hết cả lại sau những chấn song sắt. Tom cũng đứng dậy, tìm cách chui qua đám người lên phía trước để nhìn thử xem có chuyện gì. “Cái gì vậy?” nó thắc mắc.
“Một vị quan nào đấy,” một trong mấy đứa nhóc trả lời nó.
Đó là một thằng con trai to cao đến từ khu Cheapside, bị bắt vì tội ăn cắp một cái vại uống bia bằng thiếc ở một quán rượu và có lẽ sẽ bị treo cổ vì cái tội ấy. “Bọn họ nói rằng ông ấy tới đây vì cái vụ con trai một ông nhà giàu bị chém chết ở công viên St. James đêm hôm trước.”
Tom đã nhìn thấy ông ấy rồi, một người đàn ông thấp bé nhìn rất buồn cười với đôi chân vòng kiềng và đôi kính gọng sắt rơi xuống tận chóp mũi. Mặc dù trời rất nóng nhưng ông vẫn mặc một chiếc áo khoác dày cộm, tay cầm một cái hộp thơm đặt trước mũi.
Tom lao về phía trước. “Ngài Henry,” nó gọi, dán mặt lên những chấn song. “Ôi, ngài Henry ơi. Là cháu, Tom đây. Ngài Henry...”
Một bàn tay thô bạo dộng một cú đấm vào vai Tom, khiến nó ngã bật lại ổ rơm bẩn thỉu phía sau. “Mày đấy,” gã cai ngục quát lên. “Thằng nhãi móc túi bẩn thỉu nhà mày, câm mồm vào. Nghe chưa?”
Tom cuống cuồng đứng dậy rồi liền lao về phía trước lần nữa, nhưng đã quá muộn. Ngoài sân đã trống trơn, vị quan hành thấp bé kia đã đi mất rồi.