London rất khác với vùng nông thôn. Ở nông thôn, các vị quan tòa mỗi quý chỉ đến xử án một lần - ấy là tối đa rồi. Ở những tỉnh xa nhất, một người có thể còn phải sống mòn mỏi trong tù từ ba tháng đến một năm để chờ ra xét xử. Còn ở London này, một người - hoặc là một đứa trẻ - có thể bị bắt, bị xét xử và bị treo cổ chỉ trong vòng chưa đến một tuần.
Sebastian cố không nghĩ đến trường hợp đó khi anh và Lovejoy bước theo sau một người canh cổng băng qua những buồng giam bẩn thỉu được chiếu sáng yếu ớt bởi những ngọn bấc le lói. Trong này không khí vô cùng hôi thối, sặc mùi phân, mùi nước tiểu và mùi của sự mục ruỗng. Những ổ rơm mục ruỗng, những hàm răng mục ruỗng, những cuộc đời mục ruỗng.
Họ được dẫn tới một căn phòng sàn đá tuy lạnh lẽo nhưng khá sạch sẽ, những ô cửa sổ song sắt nhỏ trên cao lờ mờ chiếu sáng mấy chiếc ghế gỗ đơn giản và một cái bàn sứt mẻ.
“Lúc ấy, ngài tới đây làm gì vậy?” Sebastian hỏi Lovejoy khi hai người chỉ còn lại một mình.
“Đội tuần tra có bắt được hai tên đột nhập vào một ngôi nhà gần công viên St. James vào đêm con trai của Humphrey Carmichael bị giết. Tôi tới hỏi xem liệu bọn họ có nhìn thấy cái gì khả nghi không.”
“Và?”
Lovejoy mím môi. “Chẳng có gì cả.”
Có tiếng bước chân đang đi tới ngoài hành lang, tiếng sải bước nặng nề của một người đàn ông và tiếng bước đi nhỏ hơn của một đứa trẻ con. Sebastian xoay người về phía cửa.
Tom kéo lê từng bước chân tiến vào căn phòng, đầu cúi thấp. Áo khoác của nó dính đầy bùn đất và đã rách tươm, cái mũ vải đã không còn trên đầu, gương mặt tái nhợt, mọi sinh lực đã bị rút cạn. Dường như một đêm địa ngục dài đằng đẵng vừa qua đã dập tắt lòng quyết tâm đầy gan dạ và cái tính hoạt bát chẳng để ý trên dưới gì của nó.
“Nó đây, thưa ngài,” tay cai ngục làu bàu.
“Cảm ơn.” Giọng Sebastian vang lên khản đặc. “Vậy là được rồi.”
Tom ngẩng phắt mặt lên, miệng há hốc kinh ngạc. “Chủ nhân!”
Lovejoy giơ tay ra cản nó lao về phía Sebastian. “Nào, nào, nhóc. Chớ quên vị trí của mình.”
“Ngài cứ kệ nó đi,” Sebastian nói trong khi Tom chạy vòng qua vị quan để lao lên ôm chặt lấy anh.
“Em không làm chuyện đó! Em thề em không hề ăn cắp cái đồng hồ của gã đó.” Đôi vai nó gồng lên, cả người run rẩy không thôi. “Bọn chúng bịa ra chuyện đó vì em đã nhìn thấy thuốc súng và nghe lỏm được chúng nói chuyện.”
“Ừ, không sao nữa rồi,” Sebastian nói, quàng một tay ôm chặt lấy vai thằng bé, trao đổi một ánh mắt với Lovejoy. Thuốc súng? “Ta đến đón em về.”
“Bọn họ định đem em đi treo cổ.” Tom nức nở. “Treo cổ em giống như chúng đã treo cổ Huey vậy.”
Sebastian nhìn xuống gương mặt khổ sở, giàn dụa nước mắt của cậu bé. “Huey là ai cơ?”
“Anh trai em. Huey là anh trai em.”
Sau khi rời khỏi trại giam, Sebastian vội nhét Tom lên cỗ xe riêng của anh và lệnh cho người đánh xe đưa cậu bé tới chỗ Paul Gibson.
“Gibson á?” Tom hỏi, nhảy bật dậy khỏi ghế. “Em không cần đi bác sĩ. Ngài đang định trở lại đó, đúng không? Smithfield ấy? Em cũng muốn đi.”
“Em sẽ ngoan ngoãn làm theo lời ta,” Sebastian nói bằng một giọng đã từng chế ngự được cả đám lính tráng nổi loạn vừa rời khỏi trận đánh.
Nó ngồi lại vào ghế, đầu rũ xuống. “Vâng, thưa chủ nhân.”
Sebastian gật đầu với người đánh xe ngựa rồi quay đi gọi một cỗ xe trên đường.
“Bất kể dù ngài có thích hay không thì tôi cũng sẽ đi cùng ngài,” Lovejoy nói, chen vào cỗ xe sau lưng Sebastian khi anh còn đang bận chỉ đường tới Smithfield cho người đánh xe. “Luật pháp không dung thứ cho những kẻ vu oan tội trộm cắp cho người khác.”
Sebastian khó hiểu nhìn vị quan bên cạnh, nhưng cũng không nói gì.
Lovejoy ngồi trong một góc xe ngựa, răng cắn môi dưới vẻ lo lắng trong lúc ông im lặng suy nghĩ chuyện gì đó. Một lúc sau, ông nói, “Toàn bộ câu chuyện về những hòm thuốc súng và sự tái diễn của cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 này, ngài có nghĩ đó là chuyện đang thực sự chuẩn bị nổ ra không? Một cuộc cách mạng?”
Sebastian lắc đầu. Tom đã kể chi tiết lại tất cả những gì nó nhìn thấy và nghe thấy được cạnh hầm rượu của quán trọ Norfolk Arms. Mới nghe thì cũng có lý, nhưng chuyện đó khó mà xảy ra được. “Một cuộc đảo chính có vẻ hợp lý hơn là cả một cuộc cách mạng. Nhưng có Chúa mới biết rồi chuyện đó có thể dẫn tới những cái gì. Sự thay đổi một khi đã nổ ra thì khó kiểm soát lắm. Cuộc Cách mạng Pháp được khơi mào bởi một vài vị quý tộc muốn khôi phục lại Quốc hội cũ, ngài nhớ chứ? Nhưng rồi mọi chuyện phát triển vượt rất xa mục tiêu ban đầu đó.”
Mây kéo đến càng lúc càng thêm dày đặc, chặn kín lại ánh sáng ban ngày khiến cho trời tối sầm hẳn lại. Sebastian đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhìn những ngôi nhà bằng gạch bám đầy bồ hóng, nhìn những quán rượu đổ tràn ra đường tiếng cười nói say xỉn. Bầu không khí oi bức đặc quánh mùi bắp cải luộc, mùi phân ngựa và mùi rác đang cháy. Một thằng nhóc tầm mười, mười hai tuổi, trông có vẻ như hành nghề quét rác, vội vã chạy sang một bên tránh đường, tay giữ chặt một cây chổi và trợn tròn mắt nhìn họ chạy qua. Sau lưng nó, một cô bé tầm tám tuổi ăn mặc rách rưới với gương mặt nhợt nhạt và trống rỗng đang chìa một cánh tay đầy cáu ghét ra phía trước - hành động van lơn giúp đỡ của những người ăn xin ở khắp mọi nơi trên thế giới này.
Cỗ xe vẫn tiếp tục chạy, bỏ lại đứa bé trai và bé gái ấy lẫn lộn trong đám đông rách nát.
Sebastian ngồi nghĩ về hai đứa trẻ khác, một đứa tên Huey và đứa còn lại tên Tom. Về cả người mẹ của chúng, một góa phụ chân chất và ngoan đạo, không có công ăn việc làm, bị vứt ra đường và phải nuôi hai đứa con nhỏ. Với cô cũng như hàng ngàn những người phụ nữ vô danh khác cùng lâm vào hoàn cảnh ấy, chỉ có ba lựa chọn, rất đơn giản nhưng đều vô cùng nghiệt ngã: chết đói, trộm cắp hoặc mại dâm. Mẹ của Tom đã chọn trộm cắp và rồi bị bắt, bị xử đi đày ở Vịnh Botany. Con đường bán dâm có thể khiến cô mắc bệnh truyền nhiễm rồi phải lìa bỏ thế gian này rất sớm, nhưng đó không phải là tử tội. Trộm cắp để kiếm bữa cơm nuôi những đứa con đang chết đói thì có.
Từ những gì Tom đã kể với Sebastian thì anh đoán cậu bé mới chỉ chín tuổi lúc hai anh em nó phải đứng trên bến tàu, nhìn theo mẹ mình cùng một hàng người bị dẫn ra một con tàu đang thả neo trên sông Thames. Huey, cậu anh trai lớn hơn Tom ba tuổi, đã quyết định phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc cho em trai bằng cách duy nhất mà mình biết - trộm cắp - cho tới khi chính cậu ta cũng bị bắt. Chỉ có điều Huey không được may mắn như mẹ hai đứa. Cậu ta bị treo cổ.
Giọng của Lovejoy vang lên làm gián đoạn dòng suy nghĩ của Sebastian. “Phía cảnh sát đã tìm ra danh tính của người đàn ông bị ngài giết bên bờ sông đêm hôm trước.”
Sebastian đặt trán tựa lên lớp da bọc nứt nẻ của cỗ xe. “Tôi không giết hắn. Là hắn tự ngã.”
Môi Lovejoy khẽ chuyển động một chút - ấy đã là nụ cười của vị quan thấp bé nghiêm nghị này rồi. “Tên người đó là Ahearn. Charles Ahearn. Ngài đã từng nghe thấy bao giờ chưa?”
Sebastian lắc đầu. “Hắn là người như thế nào?”
“Không có điều tiếng gì. Người này làm gia sư cho các con trai của Lãnh chúa Cochran cho tới mùa thu năm ngoái, khi mà cậu út nhà đó đi Eton nhập học.”
“Từ bấy đến nay hắn làm gì?”
Lovejoy lấy ra một chiếc khăn mùi xoa rất lớn từ trong túi áo rồi đưa sát lên mũi. “Cái đó thì bên cảnh sát vẫn chưa nắm rõ.”
Sebastian nhận thấy một mùi khói khét lẹt đang lấn át dần những thứ mùi đặc trưng của cái quận Smithfield này: mùi hôi thối bốc lên từ những cái hố thuộc da và mùi tanh tưởi của những lò giết mổ gia súc. Họ vừa rẽ vào phố Giltspur thì đã bắt đầu nghe được những tiếng hét lớn, tiếng chân chạy bình bịch và tiếng lửa liếm tanh tách. Cỗ xe phải rất vất vả để tìm cách đi qua đám đông dày đặc người. Từ phía xa xa, tiếng chuông báo cháy rung lên từng hồi đinh, đinh, đinh.
“Đang có cháy,” Lovejoy nói, đầu vươn ra ngoài cửa sổ.
Sebastian nhìn thấy rồi. Ngọn lửa đang nhảy múa trên một mái nhà nhọn cũ kĩ, cháy lên phừng phừng trong những ô cửa sổ như những cái lỗ nứt toác ra từ mặt tường gạch đổ nát. Làn khói xám dày đặc bốc lên cuồn cuộn, hòa vào những đám mây đen trên đầu.
“Khốn kiếp,” Sebastian chửi thề, mở tung cửa nhảy xuống trước khi cỗ xe kịp phanh lại. “Đó là quán trọ Norfolk Arms.”