Amanda đang ngồi bên bàn ăn với tờ Morning Post trải rộng cạnh đĩa thức ăn khi Sebastian cứ thế đi vào mà không có lấy một lời thông báo. Chị chẳng ngẩng đầu lên.
Chiếc vòng bạc với mặt đá xanh của phu nhân Bá tước Hendon bất ngờ bị ném độp xuống tờ báo trước mặt làm Amanda giật mình, chị phải kiềm chế lắm mới duy trì được vẻ điềm tĩnh.
Chị bình tĩnh, đưa mắt lên nhìn Devlin. Những cảm xúc chị nhìn thấy trong đôi mắt em trai dữ dội và mãnh liệt đến mức chị phải quay mặt đi ngay trước khi kịp điều khiển được hành vi của mình.
“Bà ấy vẫn còn sống, phải không?” anh hỏi.
Amanda hít một hơi thật sâu, bình ổn lại nhịp thở của mình trước khi nhìn thẳng vào đôi mắt màu vàng đáng sợ của anh. “Đúng vậy.”
“Chị biết từ khi nào?”
“Từ mùa hè năm đó.”
Anh gật đầu như thể chị mình chỉ đơn giản là vừa mới xác nhận lại nghi ngờ của anh. “Còn Hendon?”
“Ông ấy cũng biết, tất nhiên rồi. Từ đầu ông ấy đã biết rồi. Chính ông đã góp tay vào việc dàn dựng nên cái chết của bà.”
Chị thoáng bắt được một tia của - cái gì vậy nhỉ? Sự ngạc nhiên? Hay sự đau lòng? - trong đáy mắt anh, một đôi mắt thật kì lạ, không hề giống mắt người.
“Và vì sao em lại không được biết chuyện này?”
Amanda nở một nụ cười tươi rói đầy ác ý. “Ta nghĩ là cậu nên đi hỏi Hendon thì hơn.”
Sebastian không thường cho phép dòng suy nghĩ của mình trôi dạt lại về mùa hè năm đó, mùa hè trước khi anh lên mười hai tuổi. Mùa hè năm đó trời rất nóng, những ngày trời xanh thẳm làm nền cho vầng mặt trời chói chang như lửa đốt liên miên, thiêu rụi mọi hoa màu ngoài ruộng đồng thành một đống tro bụi. Những cái giếng vốn luôn đầy nước từ hơn một trăm năm cuối cùng cũng phải chịu cảnh cạn khô.
Phần lớn mùa xuân và mùa hè năm đó, phu nhân Bá tước Hendon ở lại cơ ngơi chính của gia đình họ tại Cornwall. Mẹ anh yêu thích London, yêu sự nhộn nhịp và kích thích mà những buổi bàn luận chính trị mang lại, cũng rất thích những buổi dạ hội, những bữa tiệc sáng và những chuyến đi mua sắm luôn chiếm phần lớn thời gian của các quý bà quý cô. Thế nhưng Hendon thì lại cho rằng London không phải là một nơi ở tốt cho sức khỏe của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là khi phố xá bắt đầu chuyển khô, hít vào trong phổi chỉ toàn bụi bặm. Công việc trong chính phủ bắt buộc ông phải ở gần khu đầu não hành chính Whitehall và cung điện St. James, nhưng năm đó ông kiên quyết bảo vợ mình ở lại Cornwall. Cả Sebastian lẫn anh trai Cecil của anh cũng sẽ phải ở cùng bà khi họ trở về từ trường Eton.
Sebastian thử cố nhớ lại xem mùa hè năm đó Sophie đã làm những gì qua ngày, nhưng trong kí ức của anh chỉ còn đọng lại những chuyến rong ruổi khắp các cánh đồng và những khu rừng với Cecil, bơi trong vịnh nước nhỏ bị cấm dưới chân vách đá. Trong hồi tưởng của anh, bà là một hình bóng mờ ảo phía xa, mỗi sáng đều cưỡi con ngựa nâu đỏ của mình ra ngoài đi dạo. Anh chỉ còn lưu giữ lại được một hình ảnh rõ nét nhất về bà vào một buổi trà chiều ngoài thềm nhà ngập nắng, khi ấy nụ cười của bà tươi tắn vô cùng, nhưng vẫn có cái gì đó... xa cách. Thế rồi vào tháng Bảy, cả gia đình đã quyết định tới Brighton.
Sophie rất thích Brighton, bà say mê những buổi hòa nhạc ở Steyne và những buổi dạ vũ ở khách sạn Castle lẫn khách sạn Ship. Nhưng mùa hè năm ấy, cả Brighton cũng nóng nực và bụi bặm, chật kín những người chỉ mong thoát ra khỏi ngôi nhà ngột ngạt, khó thở của mình. Hendon cằn nhằn rằng Brighton đã trở nên ô nhiễm và ầm ĩ chẳng khác gì London và đã định bắt phu nhân cùng các con trai trở lại Cornwall. Nghe đến đó, phu nhân Bá tước đã nổi cơn tam bành, khóc lóc rất nhiều và cầu xin được ở lại.
Và thế là họ ở lại Brighton, cho đến một buổi sáng giữa tháng Bảy, khi người anh trai Cecil của Sebastian thức dậy trong tình trạng cả người đỏ bừng và nóng hầm hập. Đến nửa đêm thì Cecil bắt đầu mê sảng. Những vị bác sĩ tốt nhất đã được mời từ tận London xuống, nhưng họ đều chỉ biết lắc đầu. Họ chích máu rồi cho Cecil dùng thủy ngân clorua, nhưng cơn sốt càng trầm trọng hơn. Hai ngày sau, Cecil qua đời và Sebastian trở thành Tử tước Devlin mới, đứa con trai duy nhất còn sống và là người thừa kế của cha anh.
Tiếp sau đó là những tuần lễ căng thẳng của những cuộc tranh cãi lớn tiếng và những lời buộc tội đầy giận dữ. Thế nhưng mỗi khi ở gần Sebastian, Hendon lại duy trì một sự im lặng kì lạ và tù túng. Cứ như thể là ông không thể nào hiểu được vì sao Số phận lại cướp đi hai đứa con trai đầu và chỉ để lại cho ông đứa nhỏ nhất - đứa không giống ông nhất.
Đối với Sebastian, những ngày ấy chỉ là một ký ức mơ hồ đầy đau đớn. Nhưng anh lại nhớ khá rõ buổi sáng nhuộm vàng màu nắng mà Sophie Hendon lên thuyền để đi chơi cùng bạn bè.
Và không bao giờ quay trở lại.
Nỗi đau lòng từ mùa hè năm đó như đổ thêm dầu vào lửa giận của Sebastian, theo từng bước chân anh đi tới nhà cha mình trên quảng trường Grosvenor.
Anh gặp Hendon ở ngoài tiền sảnh, ông đang chuẩn bị lên tầng. Ngài Bá tước mặc quần ống túm và giày bốt ống cao, một tay còn cầm roi da - chắc hẳn là ông vừa mới trở về từ chuyến cưỡi ngựa buổi sáng. “Có chuyện gì vậy?” ông hỏi, mắt nhìn thẳng Sebastian.
Sebastian đi dọc hành lang rồi mở tung cánh cửa vào phòng đọc sách. “Chuyện này chúng ta cần phải nói riêng.”
Hendon thoáng ngập ngừng, rồi cũng đi xuống cầu thang. “Được thôi.” Ông tiến vào phòng đọc sách rồi ném sợi roi da lên bàn trong khi Sebastian đứng sau đóng cửa lại. “Giờ thì nói thử xem, con có chuyện gì vậy?”
“Đến khi nào thì cha mới định nói cho con biết sự thật về mẹ?”
Hendon xoay người lại, vẻ mặt ông đề phòng và thận trọng. “Sự thật nào cơ?”
“Trời đất ơi.” Sebastian bật cười một tiếng khô khốc. “Chẳng lẽ lại có nhiều bí mật đến thế sao? Ý con là sự thật về chuyện đã xảy ra mười bảy năm trước ở Brighton ấy. Hay con nên nói là sự thật về chuyện đã không xảy ra nhỉ? Bây giờ mẹ còn sống không? Hay cha cũng không biết?”
Hendon đứng yên trong im lặng, như thể đang cẩn thận cân nhắc câu trả lời. “Ai nói với con?”
“Chuyện đó quan trọng sao? Đáng lẽ ra chính cha phải nói với con chuyện đó - trước cả khi con mang chiếc vòng cổ đến hỏi cha.”
Hendon lặng lẽ thở dài. “Ta sợ.”
“Cha sợ cái gì?”
Ngài Bá tước lấy tẩu thuốc từ trong ngăn kéo ra rồi chậm rãi đổ thuốc lá vào, dùng một ngón tay ấn thuốc nằm gọn vào tẩu. “Bà ấy vẫn còn sống,” ông nói. “Hay ít nhất là cho đến tháng Tám năm ngoái. Mỗi năm, bà ấy sẽ gửi một bức thư tới chuyên viên ngân hàng của ta, kể lại vắn tắt những sự kiện chính trị và quân sự nổi bật suốt mười hai tháng trước đó, rồi một khi chúng ta chắc chắn rằng bà ấy vẫn còn sống thì chúng ta sẽ gửi một khoản trợ cấp hàng năm cho bà ấy.”
Sebastian cảm nhận rõ ràng được sự run rẩy chạy khắp cơ thể mình. Anh không khẳng định được chuyện phát hiện ra Sophie vẫn còn sống sau mười bảy năm nghĩ rằng bà không còn trên cõi đời này, khiến anh nhẹ lòng hay chỉ càng thổi bùng cơn tức giận của anh dữ dội hơn. “Cha trả tiền cho mẹ ư? Vì sao chứ? Để bà ấy không quay trở lại sao?”
“Chuyện này cũng đâu phải hiếm gặp. Những cặp vợ chồng không thể sống với nhau nữa thường sẽ thỏa thuận sống ly thân. Con cứ nhìn Công tước và phu nhân xứ York mà xem.”
“Phu nhân Công tước xứ York không đi dàn dựng cái chết của chính mình.”
Hendon đi ra đốt một sợi bấc rồi đặt nó lại gần tẩu thuốc của mình. “Mẹ con... Bà ấy có quan hệ với một gã đàn ông khác. Nếu như để bà ấy sống tự do ở nước Anh này với hắn thì vị thế của ta trong chính phủ sẽ bị tổn hại rất nghiêm trọng. Bà ấy đồng ý ra nước ngoài với điều kiện hằng năm ta phải gửi tiền cho bà ấy.”
Sebastian im lặng. Mùa hè năm đó có sự hiện diện của một người đàn ông - một người đàn ông đặc biệt nào không nhỉ? Không thể nhớ nổi. Quanh Sophie Hendon lúc nào cũng có đàn ông. “Sao cha không ly hôn với mẹ cho xong?” anh hỏi, chăm chú quan sát vẻ mặt nặng nề của cha mình. “Mẹ nắm giữ được bí mật gì của cha?”
Hendon nhìn thẳng vào mắt anh. “Không phải chuyện mà ta có ý định kể cho con nghe.”
“Ôi Chúa ơi. Vậy còn chiếc vòng cổ?”
“Ta thật lòng không biết vì sao Guinevere Anglessey lại đeo chiếc vòng đó. Ta nghĩ có thể mẹ con đã trao nó lại cho người khác.”
Sebastian nghi ngờ khả năng đó. Sophie Hendon không phải là người quá mê tín, nhưng bà tin vào chiếc vòng cổ đó và cả sức mạnh của nó. “Giờ mẹ đang ở đâu?”
Hendon rít một hơi thuốc. “Venice. Hay ít ra thì đó là nơi mà ta đã gửi tiền đến. Những người mà bà ấy lên thuyền ra khơi cùng hôm đó - những người đã góp sức vào việc dàn dựng nên vụ tai nạn - đều đến từ Venice.”
Cả không gian tràn ngập mùi ngòn ngọt của khói thuốc lá. Sebastian đứng trước một trong những khung cửa sổ dài nhìn ra quảng trường. “Bao nhiêu năm qua,” anh nói, nửa như tự vấn, “bao nhiêu năm nhớ đến bà, khóc thương bà... Tất cả chỉ là một sự dối trá.” Anh biết Hendon đã bước lại gần phía sau mình dù anh không hề quay đầu lại.
“Nếu như bà ấy có thể mang con theo,” Hendon nói, giọng ông khô khốc. “Ta nghĩ là bà ấy đã làm vậy rồi. Trong tất cả các con, ta vẫn luôn nghĩ tình yêu thương bà ấy dành cho con là sâu đậm nhất.”
Sebastian lắc đầu, mắt anh tập trung vào cảnh vật ngoài cửa sổ. Một bé trai và một bé gái tầm mười, mười hai tuổi đang chạy cùng một cái vòng đồ chơi, tiếng cười lanh lảnh của chúng bay bổng theo làn gió mát lành của buổi sáng. Trước kia, anh cũng có cảm giác đó. Rằng tuy Sophie Hendon yêu thương cả bốn đứa con của mình, Sebastian vẫn có một vị trí đặc biệt hơn cả trong trái tim bà. Nhưng dù thế thì bà vẫn bỏ anh lại mà đi.
Anh cảm thấy ruột mình quặn thắt lại, miệng thì đắng chát. Sự im lặng giữa hai cha con kéo dài ra nặng trĩu. Thế rồi Sebastian đột ngột cắt đứt sự im lặng ấy bằng cách đập mạnh tay xuống bệ cửa sổ rồi xoay người lại đối mặt với cha mình. “Vì lý do quái quỷ gì mà cha lại không cho con biết sự thật? Cha để cho con nghĩ rằng mẹ đã chết. Mỗi ngày, con đều leo lên vách đá ngoài biển tìm mẹ. Hy vọng rằng tất cả chỉ là một sự nhầm lẫn và rằng con sẽ thấy được con thuyền của mẹ quay trở lại. Nhưng rồi con cũng bỏ cuộc. Cuối cùng con cũng đành tin lời cha nói. Và bây giờ thì hóa ra đó lại là một lời nói dối?”
Sebastian nhìn chằm chằm cha mình. Hàm ngài Bá tước khẽ động, nhưng ông không nói gì.
“Vì sao?”
“Ta đã nghĩ như vậy là tốt nhất.”
“Tốt cho ai cơ? Cho cha, cho con, hay cho mẹ?
“Cho tất cả chúng ta.”
Sebastian bước ngang qua cha mình về phía cửa. “Cha sai rồi.”