Các bộ váy áo của Kat được may bởi những thợ may thời thượng nhất London, giày của cô làm từ thứ lụa và da dê thượng hạng nhất, áo sơ mi của cô được viền những dải ren Bỉ vô cùng tinh tế. Nhưng đã từng có lúc cô thuộc nằm lòng từng ngõ ngách và cửa hiệu của ngành buôn bán quần áo cũ đang phất lên như diều gặp gió ở London. Cô biết rõ ai sẽ thu mua một chiếc khăn tay lụa, cũng như ai sẽ là người trả giá tốt nhất cho một chiếc đồng hồ ăn cắp.
Không phải mặt hàng nào trong mấy cửa hàng buôn đồ cũ cũng đều là hàng ăn cắp. Những người đàn ông hay phụ nữ gặp khó khăn và không còn gì để bán cũng sẽ bán quần áo của chính mình, ngoại hình của họ sẽ ngày một rách rưới khi ngày càng túng quẫn.
Thế nhưng tất nhiên, thị trường mua bán đồ cũ này béo bở tới mức nó trở thành một đầu mối tiêu thụ ổn định, khiến bọn trộm cắp càng thêm hoành hành. Vì đã từng có thời đi ăn trộm, Kat biết chính xác mình nên đi đâu khi cô quyết định tìm người đã bán bộ váy màu xanh của phu nhân Addison Peebles cho tên giết người.
Nhiều người bán đồ cũ mở cửa hàng ở Rag Fair trên đường Rosemary, còn những người khác thì bán hàng trên xe ba gác trong khu Whitechapel, thỉnh thoảng bên dưới những chiếc váy lót dài và quần ống túm đã sờn rách còn giấu những khoanh phô mai hoặc thịt lợn muối xông khói vừa ăn cắp được. Nhưng nói chung, đồ có chất lượng tốt nhất vẫn là trong cửa tiệm nhỏ của Má Keyes ở Long Acre.
Đằng sau khung cửa kính tao nhã nhẹ nhàng uống cong ra ngoài, Má Keyes đặt những chiếc khăn tay tinh tế cạnh đồ ngủ bằng vải lanh viền ren, những đôi găng tay da mềm trắng muốt như tuyết và cả những bộ váy áo lộng lẫy mà một nữ hoàng sẽ mặc đi dự yến tiệc. Tất cả mọi thứ đều trông tinh tươm như mới, nhưng hiển nhiên là không phải vậy. Một vài trong số đó được bán lại cho cửa hàng bởi chính chủ nhân của chúng hoặc những người hầu được chủ nhân ban đồ cho. Số khác đến với cửa hàng thông qua những con đường bất chính hơn, mọi dấu hiệu hay những chữ cái viết tắt tên chủ nhân cũ của chúng đều được xóa đi vô cùng cẩn thận trước khi được cho lên giá trưng bày.
Khi Kat tiến vào trong, mang theo hơi ấm mặt trời bên ngoài và một chút mát lành của buổi sáng, chiếc chuông trên cửa nhẹ ngân lên một tiếng vui tai. Từ sau quầy hàng, Má Keyes ngẩng đầu lên nhìn vị khách mới tới, đôi mắt màu nâu lục nhạt sắc bén khẽ nheo lại khi bà đưa mắt nhìn từ dưới lên trên bộ váy đi đường bằng lụa viền tua và thêu tay, đánh giá cái gói mà cô cầm trong tay và sau cùng mới nhìn thẳng lên mặt cô.
Cũng đã được gần mười năm rồi kể từ khi cô bé Kat lách mình tiến vào cửa nhà Má Keyes thế này và ngày đó, cô bé ấy không hề đeo găng tay da dê mềm mại hay đội chiếc mũ gắn lông đà điểu trang nhã, có cái giá đủ để nuôi sống được cả một gia đình suốt nhiều tháng trời. Nhưng dù vậy, Kat biết người đàn bà này vẫn nhận ra cô.
Khả năng ghi nhớ các gương mặt và đọc thấu những nét tính cách ẩn giấu đằng sau đã trở thành tấm bùa hộ mệnh giúp bà tránh xa khỏi cánh cổng nhà tù Newgate suốt hơn sáu mươi năm qua.
Kat nhìn thẳng người đàn bà trước mặt, tay trải bộ váy bằng lụa sa tanh màu xanh lá lên mặt quầy bóng nhẵn giữa họ và nói, “Nếu như cháu là tỳ nữ của con dâu một vị công tước và chủ nhân đem một bộ váy áo thế này tặng lại cháu vì cô ấy không còn cần đến nó nữa thì cháu nghĩ là mình sẽ mang tới bán ở chỗ của bà.”
Má Keyes liếc nhìn xuống bộ váy, đôi mắt nheo lại dù gương mặt vẫn không biểu lộ cảm xúc gì đặc biệt. Bà là một người thấp bé, thân hình mảnh mai, từng nét trên gương mặt nhăn nheo đều nhỏ nhắn và cân xứng. Bà ngẩng đầu lên nhìn Kat. “Nghĩ rằng ta dễ dụ lắm sao?”
Kat bật cười. “Cháu biết rất rõ là không phải vậy. Và người nữ tỳ mà cháu đang nói đến này - người đã bán chiếc váy này cho bà ấy? Cô ta đã nói thật. Phu nhân Addison Peebles đã cho cô ta bộ váy này. Mẹ chồng phu nhân nói rằng màu này làm cô ấy trông giống một con ếch đau ốm.”
Má Keyes chớp mắt. “Cô đã có váy rồi, cũng biết ai là người bán nó. Vậy cô còn đến đây làm gì?”
Kat đặt một đồng tiền vàng lên mặt vải lụa sa tanh lấp lánh. “Cháu muốn biết ai đã mua nó.”
Má Keyes thoáng ngập ngừng rồi cũng quyết định nhanh lẹ cầm lấy đồng tiền vàng. “Ta không biết tên họ, nhưng vẫn còn nhớ họ là ai.”
Kat không ngạc nhiên. Con người vốn luôn là một sở thích của Má Keyes. Bà tự kiếm niềm vui trong việc quan sát họ, nghiên cứu họ, phân tích họ. “Đó là một cặp khách kì lạ,” bà nói. “Quả thật là vậy đấy.” Bà dừng lại vẻ chờ đợi.
Kat đặt đồng tiền thứ hai lên quầy. “Bọn họ có hai người sao?”
“Đúng vậy. Một trong hai đến từ vùng thuộc địa. Vùng thuộc địa phía Nam, nghe giọng thì là thế.” Bà ngả người về phía trước, giọng hạ xuống. “Một gã châu Phi, không hơn không kém. Da hắn sáng màu như người Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng đường nét trên mặt thì là người châu Phi, cô cũng hiểu mấy đặc trưng đó mà. Mũi tẹt và môi dày. Gã cũng rất to cao nữa. Hói như một con ngỗng trụi lông vậy.”
Kat nghiêm túc tự giác đưa một đồng tiền nữa ra. “Vậy còn người kia? Trông hắn như thế nào?”
“Không phải đàn ông. Là một đứa con gái. Một con bé London. Chắc chỉ tầm mười lăm, mười sáu là cùng, ta nghĩ vậy. Có khi còn nhỏ hơn. Tóc vàng và cao, ngoài ra thì không có gì nổi bật. Ta không nhớ gì nhiều về con bé ấy, ngoại trừ đôi mắt nó.”
“Đôi mắt?”
“Màu rất nhạt. Làm ta nhớ đến nước mưa vào một ngày mây che dày đặc. Không nhìn được gì trong đó ngoại trừ hình ảnh phản chiếu.”
“Bà có nhớ bọn họ đã nói những gì không?”
Má Keyes nhìn qua cửa sổ ra một hàng binh lính đang hành quân ngang qua cửa hàng, môi mím lại ngẫm nghĩ. “Chà, để ta xem nào...”
Kat đặt một đồng tiền nữa lên bàn.
Đồng tiền ngay lập tức biến mất dưới bàn tay bé xíu của Má Keyes. “Bọn họ tranh cãi một chút về kích cỡ của chiếc váy. Đứa con gái, nó cứ khăng khăng rằng cần phải kiếm cái lớn hơn, nhưng gã châu Phi lại bảo không, chiếc váy này là vừa rồi. Và rồi hắn nói một câu nghe kỳ quặc vô cùng.”
Người đàn bà luống tuổi lại dừng nói, vẻ mặt chờ đợi. Nhịn xuống một hơi thở dài mất kiên nhẫn, Kat lấy ra một đồng tiền nữa.
Đôi môi Má Keyes giãn ra thành một nụ cười lớn để lộ hàm răng trắng khỏe đến không ngờ. “Hắn nói rằng chiếc váy này chỉ là bộ trang phục để một vị phu nhân mặc tới Cung điện Brighton.”