THỊ SINH, con người quê mùa, nâu sồng, ngây thơ thế kia, mà bị buộc vào tội ăn cắp đồ nữ trang của chị dâu. Hay là bị cảnh phồn hoa cám dỗ, thị cũng muốn đua chị đua em, vấn đường ngôi lệch, cắp ví đầm, nên thị đã trót dại? Nhưng không, vì thị vẫn thẹn thò trong bộ áo tứ thân bạc màu, trong vành mỏ quạ.
Thị kéo giải yếm lau mấy giọt nước mắt long lanh trên mi, nhỏ nhẻ trả lời ông chánh án.
- Bẩm, chị dâu con đổ oan cho chúng con, chuỗi hạt vàng và hoa tai của chị ấy, chị ấy quý như tính mệnh, lúc nào cũng bỏ tủ, con lấy làm sao được.
Thị Sinh ngừng một giây rồi mỉm cười chua chát:
- Chẳng qua chồng con có vợ lẽ nên tình phụ con, xui chị dâu con đặt điều ra thế. Con chỉ biết cám cảnh với giời mà thôi.
Nói xong, Thị Sinh lại lặng lẽ đưa giải yếm lên lau mắt một lần nữa.
Thị Lịch, chị dâu Thị Sinh, một bà to lớn, cổ đầy vàng, tay đầy vàng, khăng khăng một mực đổ tội cho em:
- Tôi nuôi nó, tín cẩn nó, giao thìa khóa cho nó giữ, bây giờ nó trả ơn tôi thế đấy.
Thị Sinh đỏ mặt:
- Chị nuôi tôi thì chị bắt tôi làm quá đầy tớ, chứ dễ chị nuôi không đấy mà chị kể ơn. Chị vu tội cho tôi, rồi chị mượn lão thầy bói Tháp đến khuyên dỗ tôi hễ bằng lòng bỏ chồng tôi thì chí rút đơn ra. Chị chia rẽ vợ chồng người ta như thế, chị không sợ tội với quỷ thần à?
Nhưng hình như Thị Lịch không sợ gì quỷ thần lắm, vì thị nhất định bảo Thị Sinh đã lấy đồ vàng. Thị giảng:
- Còn việc lão thầy bói lại là việc khác.
Nhưng ông chánh án lại không cho là việc khác, ông lại cho là nguyên nhân của vụ án, ông hỏi:
- Vậy có thật thị rút đơn nếu Thị Sinh nghe lời lão thầy bói không?
Thị Lịch ngập ngừng đáp:
- Bẩm...việc chưa ngã ngũ ra sao ạ.
Ông chánh án mỉm cười vì ông cho việc đã ngã ngũ rồi, Ông bèn lên án:
- Tòa tha.
Thị Sinh nét mặt không vui hơn, thở dài bước ra. Có lẽ thị đương nghĩ đến câu phong dao cổ:
Bây giờ anh khỏi, anh lành
Anh âu duyên mới anh tình phụ tôi.