• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ung thư không phải là bệnh, mà là cơ chế chữa lành
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 119
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 119
  • Sau

Phóng xạ hằng ngày

Thực sự, phóng xạ nguy hiểm có thể đến từ nhiều thứ chứ không riêng gì công nghệ y tế. Nó đã xâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta dưới nhiều dạng, nhất là qua những thiết bị công nghệ hiện đại và những máy móc mới mẻ. Ví dụ, theo nghiên cứu mà tôi sẽ thảo luận chi tiết ở chương 2, do ở gần sát điện thoại di động, nên ngay cả bức xạ không ion hóa cũng gây ra đứt gãy sợi kép hoặc sợi đơn của ADN ở nhiều chỗ và sinh ra cái gọi là các protein sốc nhiệt (HSP).

Tế bào của chúng ta sản sinh ra những protein này để đề kháng lại những kích thích có hại. Việc thường xuyên tiếp xúc với các dạng bức xạ không tự nhiên này có thể dẫn tới những tổn hại nghiêm trọng do căng thẳng và rất nhiều đột biến gien. Nói cách khác, đều đặn hoặc liên tục tiếp xúc với cả bức xạ ion hóa lẫn không ion hóa có thể gây ra một phạm vi rộng các bệnh mà về sau y khoa nhóm chúng vào phạm trù những rối loạn do gien gây ra.

Phát hiện của các nhà nghiên cứu di truyền về số lượng gien bị đột biến ngày càng tăng ở những người mắc ung thư và bị nghi là mắc các bệnh khác, đã đánh lạc hướng chú ý của chúng ta khỏi những nguyên nhân thực sự của thứ đang làm hại cơ thể chúng ta. Chính tại đây tồn tại mối nguy hiểm thực sự của Dự án Hệ gien người. Với tất cả nguồn lực khổng lồ dành cho nghiên cứu ADN của con người, không một trường hợp nào cho thấy kiến thức về chuỗi ADN của bất cứ gien cụ thể nào góp phần chữa được ung thư. Giống như tất cả những hứa hẹn trước đó của giới y học rằng “chúng ta sắp sửa tạo ra một phương thuốc chữa được ung thư,” y học dựa vào hệ gien đã không tạo ra được khác biệt đáng kể nào cả.

Cả giới hàn lâm lẫn những kẻ ngoại đạo đều tin rằng nghiên cứu gien sắp định hình tương lai y học, nhưng không ai có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác điều đó có nghĩa là gì. Nghiên cứu gien không đạt được các kết quả rõ ràng như một số người muốn chúng ta và các nhà đầu tư cho nghiên cứu bộ gien tin như thế.

Một bài báo nhan đề “Trình độ tiên tiến” trên số ra ngày 13-2-2011 của tờ báo Đức danh tiếng Die Süddeutsche Zeitung (Nhật báo Nam Đức), đã đưa ra một cái nhìn tổng quan thực tế về tình trạng nghiên cứu gien. Mặc dù các chuỗi của hầu hết 3,2 tỷ cặp bazơ ADN đã được giải mã, nhưng theo bài báo này, như thế chúng ta mới chỉ biết được gien được tạo ra từ những vật liệu nào. Gần như chúng ta vẫn chưa biết gì về tương tác của chúng và mối quan hệ của ADN, ARN, các protein, các hoàn cảnh sống và điều kiện môi trường. Bài báo này nói rằng chúng ta chỉ biết rất ít về việc cơ thể con người có bao nhiêu gien, mặc dù ước đoán là có đến 20 – 22 nghìn gien.

Nếu những ước tính đó là đúng, thì chúng ta có hơn 60 tỷ cặp bazơ ADN, và thực ra chúng ta cũng biết rất ít về chúng! Điều khiến cho việc lý giải hệ gien rất không chắc chắn và dễ lạc lối chính là thực tế rằng chuỗi ADN của người này luôn luôn khác chuỗi ADN của người khác. Không có chuyện hai người có ADN giống hệt nhau – đó là điều hiển nhiên. Nhưng chính yếu tố không thể đoán định này khiến cho việc xác định thế nào là hệ gien bình thường, thế nào là không là điều bất khả. Suy cho cùng, chúng ta không phải là những cỗ máy giống nhau như đúc, mà khác nhau về nhiều mặt hơn là giống nhau.

Nhiều người cho rằng cơ thể con người chỉ sử dụng 1,5% hệ gien của nó để sản xuất protein. Và chúng ta chưa biết gì về vai trò của 98,5% ADN còn lại – nó từng bị loài người kiêu ngạo đặt cho biệt danh là ADN rác (junk DNA). Thật là liều lĩnh một cách dại dột khi tin rằng cơ thể không dùng đến chúng. Nhưng lại một lần nữa, dường như chúng ta đang chơi đùa với thứ gì đó cực kỳ phức tạp và sâu xa, mà không nhận ra rằng thậm chí mình còn không biết những kiến thức cơ bản nhất về cách thức vận hành của nó. Đặt nền móng cho một công nghệ hoàn toàn mới về một thứ mà chúng ta gần như hoàn toàn mù tịt quả là cực kỳ vô trách nhiệm.

Chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy, ví dụ, những hệ quả tàn phá của việc sản xuất thực phẩm biến đổi gien: hàng triệu mẫu Anh (acre) hoa màu biến đổi gien đang thất bát vì chúng ta đã thao túng một vài quy luật mạnh mẽ nhất của tự nhiên – do cái nhìn thiển cận vô trách nhiệm và lòng tham của các tập đoàn. Nhiều người trong chúng ta đã quá quen thuộc với những hậu quả nghiêm trọng phát sinh từ việc xáo trộn gien trong thực phẩm.

Không hề ý thức được điều đó, mỗi ngày, hàng trăm triệu người đang tiêu thụ những thực phẩm Frankenstein1 có thể gây ra những thay đổi vĩnh viễn trong ADN. Những đột biến trong ADN này cho phép chúng ta tạo ra những thực phẩm trước đây chưa từng tồn tại trên hành tinh của chúng ta, nhưng “sự điều chỉnh” này thế nào cũng dẫn đến những dị thường vĩnh viễn nhưng chưa được con người hiểu rõ. Thực phẩm biến đổi gien chưa bao giờ được khoa học chứng minh là an toàn cho bất kỳ ai. Trên thực tế, còn chưa có một công bố bình duyệt nào của các nghiên cứu lâm sàng về tác động của thực phẩm biến đổi gien lên sức khỏe con người. Thay vì thế người ta yêu cầu chúng ta chỉ cần tin tưởng vào những kẻ sản xuất (và thu lợi nhuận từ) những thực phẩm biến đổi gien này. Tuy nhiên, hàng chục nghiên cứu và đánh giá đã chỉ ra rằng thực phẩm biến đổi gien cho gia súc đã gây ra ung thư, gây hại cho dạ dày và đường ruột, cùng vô vàn các triệu chứng khác của chứng mất cân bằng nội môi trầm trọng – thậm chí là tử vong.

1 Nhân vật trong tác phẩm khoa học viễn tưởng cùng tên của nhà văn nữ Mary Shelley. Frankenstein đã tạo ra một quái vật vượt khỏi tầm kiểm soát, có thể giết chết cả người sáng tạo ra nó. Ở đây ngụ ý thứ thực phẩm được tạo ra nhưng vượt khỏi tầm kiểm soát và gây hại cho chính con người (ND).

Điều này tất nhiên dấy lên câu hỏi: tại sao loài người chúng ta vẫn muốn ăn những thực phẩm này? Rất may là những thảo luận trên toàn cầu đã dẫn đến một số bước đi tích cực. Hầu hết các nước châu Âu đã cấm nhập khẩu thực phẩm biến đổi gien. Tuy nhiên, điều này lại khiến chính phủ Hoa Kỳ cực kỳ khó chịu, vì Hoa Kỳ là kẻ cổ súy và sản xuất thực phẩm biến đổi gien lớn nhất. Và kể từ khi pháp luật không quy định những nhà sản xuất thực phẩm biến đổi gien của Hoa Kỳ buộc phải dán nhãn thực phẩm biến đổi gien (từ năm 2012), thì mối quan hệ thực phẩm dẫn đến ung thư ở con người về cơ bản không thể nào lần ra được.

Điều có vẻ hợp lý là nếu chúng ta chưa có khả năng xử lý kỹ thuật một cách an toàn lên gien của thậm chí những thực phẩm cơ bản nhất, thì chắc chắn chúng ta còn xa mới có thể chữa được bệnh bằng gien. Nhưng bất chấp vốn hiểu biết nông cạn của chúng ta về tất cả những cơ chế hoạt động và ứng dụng của nó, nhiều người vẫn cho rằng y học hệ gien sẽ trở thành nền y học mới trong thế kỷ này. Trên thực tế, hệ gien học đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh, tạo ra những công nghệ chẩn đoán mới mẻ và đắt đỏ cùng những dược liệu tốn tiền.

Không hề ngạc nhiên là các công ty công nghệ sinh học đã dấn sâu vào việc thiết kế các xét nghiệm chẩn đoán để xác nhận một nhận định của bác sĩ khi nghi ngờ một tình trạng cụ thể nào đó dựa trên những đột biến gien và các triệu chứng. Và bởi lẽ tất cả các bệnh tật đều có một phần tác động thuộc về gien – dù do di truyền hay là kết quả cơ thể đáp ứng với những căng thẳng của môi trường bên ngoài như bức xạ, virus hay chất độc – những nguyên nhân để gia tăng phạm vi và ảnh hưởng (và, do đó, lợi nhuận kinh tế) của hệ gien học quả thật là không giới hạn.

Việc chế các lớp thuốc mới chuyển sang hướng liên quan đến thông tin về chuỗi gien và chức năng cấu trúc của protein, hơn là theo phương pháp thử - sai truyền thống. Những thuốc mới này chỉ nhắm vào những khu vực cụ thể của cơ thể, do đó hứa hẹn có ít tác dụng phụ hơn nhiều loại thuốc ngày nay, khiến cho các bác sĩ và bệnh nhân thoải mái sử dụng chúng hơn. Nhánh mới của dược lý học này được gọi là hệ gien dược lý học (pharmacogenomics), và đang được sử dụng cho tất cả các bệnh quan trọng như ung thư, rối loạn tim mạch, HIV, bệnh lao, hen suyễn và tiểu đường.

Liệu pháp gien, sử dụng những gien bình thường để thay thế hoặc bổ sung cho những gien lỗi, được coi là ứng dụng hấp dẫn nhất của khoa học về ADN. Mặc dù tôi không phản bác chuyện phương pháp này có thể có ích trong việc sửa chữa các lỗi gien ở những người có những bệnh di truyền cụ thể nào đó như bệnh máu loãng khó đông, nhưng tôi vô cùng thận trọng, ví dụ, về việc hỗ trợ miễn dịch bằng cách cấy thêm vào một gien ức chế sự phát triển của khối u. Đó là vì tôi tin vào tính tương tác tổng hòa của sức khỏe mỗi cá nhân. Để minh họa điều này, bạn hãy tưởng tượng thay sàn nhà của một ngôi nhà mà toàn bộ móng của nó đã mục nát và bắt đầu lún có giải quyết được gì không? Chắc chắn là không rồi. Thay vào đó, sẽ khôn ngoan và hiệu quả hơn nhiều nếu giải quyết móng trước: sửa chữa những chỗ mục nát, ngăn chặn sự hư hỏng tiếp diễn và phục hồi khả năng nâng đỡ toàn bộ ngôi nhà của nó. Tương tự, việc cấy một gien mới hoành tráng vào cơ thể vốn đã rệu rã vì chất độc, suy dinh dưỡng và căng thẳng chắc hẳn không phải là cách thông minh để chữa trị bệnh.

Để chữa lành thực sự cho toàn bộ một con người, chúng ta phải phục hồi cân bằng nội môi khắp cơ thể, chứ không phải chỉ vá víu một khiếm khuyết tại một hay vài bộ phận trong số nhiều bộ phận. Thúc đẩy hệ miễn dịch một cách phi tự nhiên cũng mạo hiểm chẳng khác nào ức chế nó. Chúng ta thực sự không hề biết một dấu hiệu nào của những tác động dài hạn có thể phát sinh do việc làm xáo trộn gien, cho chúng ta cũng như con cháu đời sau. Chúng ta chưa từng làm việc này bao giờ.

Sinh ra với một khiếm khuyết về gien di truyền thừa hưởng từ cha mẹ và nó biểu hiện thành một chứng rối loạn hiếm gặp như tan máu bẩm sinh, máu loãng khó đông, hội chứng Down, loạn dưỡng cơ, nhiễm sắc tố sắt mô hoặc u sợi thần kinh là một chuyện. Nhưng một người bị mắc phải đột biến gien vì những thay đổi trong lối sống hoặc những ảnh hưởng không tốt trong môi trường tích tụ sau nhiều năm lại là một câu chuyện hoàn toàn khác.

Phần lớn các rối loạn là do nhiều nguyên nhân hay yếu tố, điều đó có nghĩa là chúng có liên quan đến các tác động của nhiều gien kết hợp với những thay đổi trong lối sống và môi trường. Những rối loạn như thế bao gồm ung thư, bệnh tim, tiểu đường, đa xơ cứng (hay đa thần kinh hóa sợi), hen suyễn, tăng huyết áp, béo phì và vô sinh. Mặc dù những rối loạn này có xu hướng di truyền trong gia đình, nhưng sự di truyền này không khớp với những quy luật đơn giản như với các bệnh di truyền thực sự. Nhưng Dự án Hệ gien người đang cố tìm ra mối quan hệ ở cả những nơi chúng không tồn tại.

Ngày càng có nhiều bệnh được đưa vào chương trình Hệ gien thông qua việc phát hiện ra các gien đột biến xuất hiện trong hoặc trước khi phát bệnh. Tuy nhiên, điều này chỉ càng khiến con người trở nên xa lạ hơn với chính cơ thể mình. Suy cho cùng, người ta dạy chúng ta tin rằng mình không kiểm soát được gien của bản thân. Gien kiểm soát chúng ta, hay, có đúng thế không?

Các nhà nghiên cứu Nga đã nhiều lần chứng tỏ rằng có thể sửa chữa gien và tái tạo các cơ quan của cơ thể mà không cần phải viện đến liệu pháp tế bào gốc hay những phương pháp điều trị đắt đỏ. Và khi chúng ta nói chuyện, hay thậm chí là chỉ thoáng có một ý nghĩ thôi, ADN của chúng ta cũng đã lắng nghe và đáp ứng.

Không chỗ nào trong các tài liệu khoa học về Dự án Hệ gien người đề cập đến dữ kiện y sinh đã được chứng minh nói rằng, sau rốt, chỉ một mình các gien thôi không kiểm soát được cái gì. Chức năng và mục đích chính của gien là tái sản xuất các tế bào, mà các tế bào này đến lượt chúng lãnh trách nhiệm đối với sức khỏe và hoạt động của các cơ quan và các hệ thống trong cơ thể. Gien làm việc đó hiệu quả như thế nào phần lớn phụ thuộc vào bạn và việc bạn để bản thân mình tiếp xúc với những gì.

Trong một đoạn băng video, bác sĩ Bruce Lipton đã giải thích rằng thông qua một quá trình có tên là cơ chế di truyền biểu sinh (ngoại di truyền), chúng ta có thể bắt đầu bằng một bộ thông tin gien duy nhất và tạo ra hơn 30.000 phiên bản các sản phẩm khác nhau, như protein và enzyme. Chúng ta cũng làm điều này mọi lúc mọi nơi. Tâm trí chúng ta (cả trong ý thức lẫn tiềm thức) đều kích hoạt một số lượng lớn các phản ứng sinh hóa trong não và khắp cơ thể, cơ bản là có nhiệm vụ tắt hay bật gien.

Mặc dù gien không thể thực sự bật hay tắt được, nhưng đó là thuật ngữ mà giới y học di truyền ưa dùng. Trên thực tế, gien hoặc là tồn tại, hoặc không. Những bộ thông tin gien không phải cứ đơn giản biến mất hoặc bị tắt được. Điều quyết định việc chúng hoạt động hay không hoạt động là chúng có đang được đọc hay không. Thứ cho phép chúng được đọc hoặc bị bỏ qua chính là suy nghĩ, là cảm xúc, hành vi, chế độ ăn uống, môi trường và lối sống của chúng ta. Theo đó, một sự xung đột với người khác, hoặc chuyện mất việc hay mất tiền (góp phần gây ra một xung đột chia lìa) có thể nhanh chóng gây ra một xung đột chia lìa y như thế bên trong các tế bào, do đó ngăn không cho đọc gien. Gien không được đọc đúng đắn gây ra những thay đổi trong hành vi tế bào, mà chúng ta gọi là đột biến gien. Và giống như việc chúng ta có thể khiến một gien trở thành lỗi (không được đọc), chúng ta cũng có khả năng viết lại biểu hiện di truyền và điều chỉnh nó trở lại trạng thái đọc được – có nghĩa là một trạng thái cân bằng và khỏe mạnh.

Thậm chí trong trường hợp lỗi gien như hội chứng Down1, phải có gì đó gây ra tổn hại ADN hiếm có và tự phát này. Với mọi tác động, ắt hẳn phải có một nguyên nhân đằng sau, cho dù nó vẫn còn chưa được khoa học tìm ra.

1 Hội chứng Down là rối loạn bẩm sinh do thừa một thể nhiễm sắc thứ 21, thường là trong mỗi tế bào của cơ thể. Xem thêm: http://www.cdc.gov/ncbddd/birthdefects/ downsyndrome.html (TG).

Có thể bào thai đang phát triển đã tiếp xúc với nhiều ảnh hưởng từ môi trường, mà bất kỳ ảnh hưởng nào trong số đó cũng có thể gây ra một sai sót như tạo thêm một nhiễm sắc thể, như trong trường hợp hội chứng Down. Trong thế giới ngày nay, có vô vàn nguồn cơn có thể gây đột biến cho ADN và gien của nó.

Chúng ta có thể thấy rõ rằng ngay cả khi thừa hưởng gien dị thường từ cha mẹ, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ thừa hưởng luôn cả bệnh tật của họ. Ngoài gien, còn có những thứ khác ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta.

Trên thực tế, tất cả các gien trong cơ thể đều chịu sự kiểm soát và ảnh hưởng của môi trường tế bào, trong đó có nhận thức và niềm tin cá nhân. Nếu, trên thực tế, trong cơ thể có một gien lỗi, như bác sĩ Kramer và các nhà nghiên cứu ung thư hàng đầu khác đã phát hiện và chứng minh, thì nó cũng không thể gây ra và phát triển ung thư được. Rất có thể mỗi người mắc một bệnh trọng đều có những gien bị biến đổi trong cơ thể. Có điều đó là do những thay đổi trong môi trường tế bào, không phải là chuyện xảy ra ngẫu nhiên. Và dù gien có bị đột biến hay không, thì chốt lại là chúng cũng không thể gây ra ung thư hoặc những bệnh giả định khác. Phải có những yếu tố khác cùng hoạt động mới làm cho hệ cân bằng và tự chữa lành của cơ thể con người bỗng nhiên bị mất cân bằng và ốm đau.

Người ta dễ cho rằng các gien lỗi có trách nhiệm, ví dụ, cho việc xuất hiện bệnh đục nhân mắt bẩm sinh ở trẻ. Đục nhân mắt là hiện tượng mắt mờ đục, và khi xảy ra ở trẻ hoặc trẻ sơ sinh, chúng có thể dẫn đến mù ngay từ khi còn bé. Người ta nghi ngờ đục nhân mắt sớm có liên quan đến gien, đặc biệt đáng tin khi tất cả trẻ em trong cùng một gia đình đều bị như thế.

Mặt khác, quan điểm cho rằng việc thiếu dinh dưỡng hoặc thiếu hoóc môn triền miên ở người mẹ có thể gây đục nhân mắt cho con cũng thuyết phục chẳng kém. Một bài báo khoa học được đăng trên tạp chí Lancet năm 1996 [Edward B. Blau, “Đục nhân mắt bẩm sinh và tình trạng thiếu vitamin D ở mẹ”, Lancet 34 7(9001):626 (ngày 2-3-1996)] chỉ ra rằng tình trạng thiếu vitamin D ở người mẹ có thể nhanh chóng làm xuất hiện đục nhân mắt ở đứa con cũng thiếu vitamin D. Bởi lẽ phần lớn mọi người thực ra đều thiếu vitamin D, nên có thể suy ra rằng điều này góp phần gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe.

Trẻ sơ sinh kế thừa việc thiếu vitamin D từ mẹ không phải do lỗi gien, mà vì lối sống không có lợi cho sức khỏe. Như được chỉ ra trong phát hiện này, tình trạng thiếu vitamin này xảy ra khi người mẹ không để da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thường xuyên. Nếu cô ấy truyền thói quen này cho con mình, đứa trẻ vốn đã không nhận đủ vitamin D từ trong bụng mẹ, thì đứa trẻ đó sẽ tiếp tục thiếu vitamin D cho dù nó được nuôi bằng sữa mẹ. Điều này khó có thể khiến người ta ngạc nghiên bởi lẽ gần như là không có vitamin D trong sữa mẹ, nhất là khi bản thân người mẹ đó đã thiếu vitamin D.

Một nghiên cứu được đăng trên Pediatrics (tháng 1-2011) chỉ ra tầm quan trọng của vitamin D đối với sự phát triển bình thường của một bào thai và trẻ sơ sinh. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã đo mức vitamin D trong máu cuống rốn cho gần 1.000 trẻ sơ sinh khỏe mạnh. Rồi họ quan sát những đứa trẻ này trong thời gian 5 năm để theo dõi các vấn đề hô hấp và dị ứng, đối chiếu với kết quả về mức vitamin D khi sinh. Họ phát hiện có 20% trẻ sơ sinh thiếu vitamin D và sự thiếu hụt này có liên quan đến việc trẻ bị các vấn đề hô hấp và dị ứng thường xuyên hơn.

Vitamin D hết sức quan trọng đối với chức năng hệ miễn dịch khỏe mạnh, và các bà mẹ muốn giúp cho con khởi đầu thuận lợi thì cần đảm bảo rằng chính bản thân họ không thiếu vitamin D.

Ngoài những chức năng khác, vitamin D (mà thực ra là một hoóc môn steroid) có chức năng nội cân bằng canxi. Thiếu canxi (hạ canxi máu) rõ ràng có liên quan đến bệnh đục nhân mắt. Một đứa trẻ thiếu vitamin D do đó có thể nhanh chóng khởi phát bệnh đục nhân mắt ngay từ khi sinh ra hoặc thậm chí còn trước cả khi đó nữa.

Ở người lớn, thiếu vitamin D từ lâu đã được chỉ ra là nguyên nhân của chứng còi xương1, vẫn còn rất phổ biến ở những xứ thiếu ánh mặt trời như Anh (England) và Ireland. Tuy nhiên, chúng ta ngày càng nhận thức được rằng thiếu vitamin D còn có thể gây ra nhiều chứng rối loạn khác, trong đó có ung thư.

1 Còi xương là một bệnh lý tác động đến xương của trẻ sơ sinh và trẻ, khiến chúng mềm và bị biến dạng. Chứng này do thiếu canxi, vitamin D và các ion phôtphat gây ra. Do thiếu tiếp xúc với ánh nắng, nên cơ thể không thể sản xuất ra vitamin D, vốn rất cần thiết để bổ sung chất khoáng cho xương (TG).

Thực ra, khoa học tân tiến đã cho rằng vitamin ánh nắng mặt trời có tham dự mật thiết đến việc điều chỉnh những gien liên quan đến nhiều bệnh trải từ ung thư đến đa xơ cứng. Một nghiên cứu của Úc mới đây đã phát hiện ra, chẳng hạn, ở những vĩ độ càng cách xa đường xích đạo, tỷ lệ mắc bệnh đa xơ cứng càng cao hơn vì thiếu tiếp xúc ánh nắng mặt trời.

Theo nghiên cứu được thực hiện ở trường Y San Diego của Đại học California và trường Y của Đại học Creighton ở Omaha, bang Nebraska, ngoài việc chủ động phòng tránh bệnh đa xơ cứng, người trưởng thành bình thường cũng có thể phòng chống tiểu đường loại 1, loãng xương, và tất nhiên cả ung thư bằng cách bổ sung 4.000 –8.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày.

Một thứ đơn giản và rẻ bèo như vitamin D lại có thể có ích lợi lớn như vậy trong việc phòng và chữa nhiều bệnh của thời đại ngày nay và giúp cơ thể duy trì sự cân bằng tự nhiên của nó quả là một chuyện thú vị, ít nhất là như vậy. Có lẽ đây là một trong những lý do tại sao chính phủ Mỹ tiếp tục khăng khăng với người dân rằng mỗi ngày chỉ cần 400 – 800 IU vitamin D (bằng nhõn 10% lượng cần thiết thực sự), và thay vào đó, chính phủ dồn sức chi tiền cho những phương pháp điều trị hái ra tiền hơn. Trong khi đó, khoảng 90% dân số Mỹ đang thiếu vitamin triền miên, và dường như ốm yếu đi theo từng phút. Vitamin D là một mối nguy cơ đặc biệt đối với ngành công nghiệp y dược hiện nay, không phải chỉ vì nó hoàn toàn miễn phí, do tiếp xúc với mặt trời, mà còn vì nó tuyệt đối an toàn và có thể tránh được một số căn bệnh sinh lợi nhuận nhất trong xã hội của chúng ta.

Còn điều gì nữa về vitamin D mà y học chính thống không muốn chúng ta biết? Nếu nó điều hòa quá nhiều khía cạnh của sức khỏe như thế và thiếu hụt mạn tính ở đa số người dân, thì có phải là vô lý không khi cho rằng hẳn sẽ có nhiều bệnh phát sinh từ tình trạng phổ biến này?

Bên cạnh những liệu pháp vitamin này kia có thể nâng cao sức khỏe và chiến đấu với nhiều bệnh tật, điều quan trọng là con người ý thức được về nhiều dạng chất độc trong môi trường ngày nay, một môi trường đã bị “tẩm độc” nhiều hơn trước. Thực phẩm, mỹ phẩm và nhiều thứ khác trong cuộc sống thường nhật đều chứa đầy hóa chất độc hại. Ấy thế nhưng nhiều chất độc trong số chất độc đã biết này lại được nhiều công ty sản xuất, tiếp thị và sử dụng chúng bảo vệ quyết liệt.

Quan trọng là phải lưu ý rằng còn có nhiều nguy cơ đáng lo khác có thể bắt nguồn từ việc uống thuốc bổ sung vitamin D. Nó không chỉ làm tăng hấp thụ canxi, mà còn tăng cả khả năng nhiễm chì, asen và catmi nếu mức canxi, magiê và phôtpho của bạn không đủ. Bởi thế, nếu bạn đang uống thuốc bổ sung vitamin D, hãy đảm bảo ăn đủ những chất dinh dưỡng này (từ thức ăn hoặc thuốc bổ sung). Vấn đề là chúng ta có thể không bao giờ hoàn toàn chắc chắn mình có bao nhiêu chất khoáng này trong máu và trong các mô.

Rõ ràng câu hỏi đặt ra là tại sao việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời lại không được tuyên truyền là phương pháp không tốn một tí chi phí nào nhằm giảm phát sinh ung thư và tử vong? Thậm chí những đèn chiếu UV (tử ngoại) tạo vitamin D cũng rất rẻ so với những phương pháp điều trị khác, mà những phương pháp này thậm chí còn không hiệu quả đối với bệnh nhân ung thư được gần bằng nó.

Tôi khuyên dùng một đèn UV ba ngày một lần để duy trì vitamin D ở mức tối ưu trong suốt mùa đông. Trong những mùa ấm hơn, tôi khuyên bạn nên tiếp xúc với ánh mặt trời tự nhiên. (Để biết thêm chi tiết, hãy đọc cuốn sách của tôi – Heal yourself with sunlight – Tự chữa lành bằng ánh nắng).

Xét một cách toàn diện, chúng ta có thể an tâm khi nói rằng việc chịu trách nhiệm cho chính sức khỏe của bản thân bằng cách tìm hiểu về các vitamin bổ sung và các liệu pháp thực dưỡng, tránh nhiều loại chất độc tồn tại trong môi trường ngày nay, là cách tốt nhất đã được thời gian kiểm nghiệm để phòng tránh và thậm chí là chữa trị ung thư. Nói một cách khiêm tốn nhất, thì đó là lựa chọn khôn ngoan hơn nhiều so với các phương pháp điều trị ung thư hiện đại chính thống còn non trẻ hơn nhiều so với y học tự nhiên, tổng hòa, đã thế tỷ lệ thành công lại vô cùng ảm đạm.

Thành công ở mức đáng buồn của điều trị ung thư

Chỉ cần lấy hiệu ứng giả dược1 làm ví dụ. Một giả dược (placebo gốc La-tinh có nghĩa đen là “tôi sẽ làm hài lòng”) được tính là một yếu tố không thể thiếu trong mọi nghiên cứu khoa học được thực hiện ngày nay. Hiệu ứng giả dược hoàn toàn dựa vào cảm giác chủ quan của một người. Mỗi người tham gia thử nghiệm tính hiệu quả của một loại thuốc đều tin tưởng thuốc đó theo cách độc nhất vô nhị và không thể đoán định được. Một số người có tâm lý lạc quan, tin tưởng, do đó sẽ có đáp ứng giả dược mạnh hơn những người khác. Tuy nhiên, những người khác có thể đang rất chán nản, dễ ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng tích cực với bất cứ loại điều trị nào.

1 Giả dược là thuật ngữ miêu tả việc sử dụng một viên đường giả thuốc hoặc một phương pháp giả điều trị để kiểm nghiệm một loại thuốc hoặc phương pháp điều trị nào đó có hiệu quả hơn tác dụng của niềm tin hay không. Trong một bài báo trên tờ The Guardian (ngày 20-6-2002), Jerome Burne đã viết rằng “nghiên cứu mới cho thấy các giả dược hiệu quả đến bất ngờ, trên thực tế, còn tốt hơn cả một số thuốc truyền thống.” (TG).

Kết quả là, một nghiên cứu có thể chứng minh một loại thuốc cụ thể có hiệu quả cho, ví như, một loại ung thư nhất định nào đó. Tuy nhiên, nếu một thí nghiệm được tiến hành với các đối tượng khác nhau, thì thuốc này có thể trở nên không hiệu quả khi so sánh với đáp ứng giả dược. Vì lý do này, các công ty dược phẩm chỉ thị cho các nhà nghiên cứu mà họ đã trả tiền là chỉ công bố những kết quả có lợi nhất từ nhiều thí nghiệm khác nhau đó. Những phần nghiên cứu mà thuốc không có ưu thế (hoặc ưu thế không đáng kể) so với hiệu ứng của giả dược thì đơn thuần là bị loại khỏi báo cáo cuối cùng của nghiên cứu.

Các công ty dược phẩm báo cáo những phát hiện của họ tới Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) chỉ cần chứng minh thuốc được thử nghiệm có tác dụng ở một số người. Nếu các nhà nghiên cứu tìm đủ người tham gia thử nghiệm có tâm lý lạc quan, dễ tạo ra đáp ứng giả dược tốt với thuốc mới, thì thế nào họ cũng “trúng mánh” và tạo ra một nghiên cứu thuyết phục, thế là một loại thuốc có thể được bán ra thị trường.

Các nhà sản xuất thuốc chẳng cần phải vắt óc nghĩ ngợi nhiều về chuyện này bởi lẽ FDA đồng ý cấp phép cho những thuốc chống ung thư dựa trên tỉ lệ đáp ứng giỏi nhất là từ 10 đến 20% (như vẫn thường xảy ra, chẳng hạn, với các thuốc thông thường như Avastin, Erbitux và Iressa). Thêm nữa, thành công của hầu hết các nghiên cứu lâm sàng về ung thư được đo lường bằng sự teo nhỏ của khối u thay cho tỉ lệ tử vong. Nói cách khác, ngay cả khi hầu hết các đối tượng nghiên cứu đã chết nhưng khối u teo nhỏ đi sau khi được điều trị dồn dập, thì nghiên cứu đó vẫn được tung hô là một thành công lớn, là một đột phá y học.

Song vấn đề nghiêm trọng của các thuốc điều trị ung thư phổ biến hiện nay là chúng nguy hiểm đến nỗi có thể giết chết bệnh nhân trước cả khi ung thư ra tay. Avastin, một loại thuốc như thế, dường như đã gia tăng nguy cơ tử vong của bệnh nhân lên đến 350% khi kết hợp với hóa trị liệu. Điều này liên quan tới một cấp độ cao hơn của những biến cố y khoa đe dọa tính mạng (FAE) do các cục máu đông, thủng ruột, chảy máu não, mù lòa, rối loạn thần kinh. Tất nhiên, đây là những ảnh hưởng được xếp vào loại tai hại nhất của xạ trị và hóa trị.

Ngoài ra, các ca phẫu thuật xâm lấn thường không hiệu quả vì chúng chỉ loại bỏ được những tế bào ung thư mọc lên chứ không loại bỏ được nguyên nhân thực sự cho phép ung thư phát triển. Thế nhưng, một số bác sĩ vẫn ca ngợi tiềm năng của các thuốc thử nghiệm, nhưng các thuốc này chưa được kiểm định tính hiệu quả và thường không an toàn do bản chất hóa dược của chúng.

Cuối cùng, bất cứ nỗ lực nào đối xử với cơ thể như thể nó là một cái máy, chỉ đơn thuần phản ứng với các can thiệp cơ học và hóa học thông thường thì đều gặp phải những trở ngại nghiêm trọng. Cách tiếp cận như vậy không chỉ phản khoa học mà còn vô đạo đức và tiềm ẩn nguy hại. Đối với nhiều bệnh nhân ung thư có hệ miễn dịch đã bị tổn thương, chỉ một liều hóa trị hoặc xạ trị, chỉ một lần phẫu thuật hoặc một viên thuốc thử nghiệm, cũng có thể gây tử vong.

Bác sĩ ung thư kỳ cựu Charles Moertel làm việc tại hệ thống phòng khám nổi tiếng Mayo Clinic ở Rochester, bang Minnesota, đã tổng kết xác đáng nghịch lý trong điều trị ung thư hiện nay bằng những lời sau: “Phác đồ hiệu quả nhất của chúng ta chứa đầy rủi ro, tác dụng phụ, cùng các vấn đề thực tế, và sau cái giá mà tất cả các bệnh nhân được chúng ta điều trị phải trả, chỉ có một số nhỏ trong đó được hưởng một giai đoạn ngắn ngủi khối u thoái triển, thường là không hoàn toàn.”

Số liệu về điều trị ung thư thành công bằng phương pháp hiện đại là rất ảm đạm, thậm chí còn ít hơn nhiều so với cả những tác dụng giả dược yếu nhất. Trung bình, sự thuyên giảm chỉ xảy ra ở 7% bệnh nhân ung thư. Hơn nữa, không có bằng chứng nào cho thấy tỉ lệ thành công 7% thấp đến mức chán nản ấy là nhờ những phương pháp điều trị đã áp dụng; biết đâu sự thực là vẫn thành công bất chấp những biện pháp điều trị ấy. Dễ có khi vậy bởi lẽ không điều trị gì hết còn có tỉ lệ thành công cao hơn cả điều trị. Một phương pháp điều trị bằng thuốc men mà chỉ hứa hẹn làm teo nhỏ tạm thời khối u chỉ ở 10% bệnh nhân thì cũng không phải là phương pháp được kỳ vọng; mà đúng ra, nó là canh bạc nguy hiểm cho tính mạng người bệnh.

Trên thực tế, điều trị bất cứ bệnh nào, kể cả ung thư, đầu tiên bằng giả dược thậm chí còn hiệu quả hơn cả những liệu pháp lạc quan nhất. Hầu hết mọi người đều cho rằng giả dược chỉ có hiệu quả khi bệnh nhân không hề biết đó là giả dược – cái mẹo kinh điển thể hiện sức mạnh của tư duy tích cực.

Nhưng nghiên cứu đáng kinh ngạc của Trường Y Harvard và Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess cho rằng giả dược có thể hiệu quả mà không cần nói dối bệnh nhân. Không giống như những nghiên cứu truyền thống, mà trong đó bệnh nhân không biết họ đang dùng giả dược hay thuốc thật, những người dùng giả dược trong nghiên cứu này đều được thông báo rõ ràng rằng họ chỉ uống những viên đường. Thế mà ở họ lại xuất hiện các dấu hiệu được cải thiện gấp đôi so với những ca dùng thuốc thật.

Tôi đã dành cả đời để cảnh tỉnh rằng phần nhiều y học thực ra chỉ là những suy nghĩ hão huyền. Và lời cảnh tỉnh đó đã được xác nhận bởi những nghiên cứu khoa học đột phá về sức mạnh chữa lành cho đến nay vốn chưa được đánh giá đúng đứng đằng sau kỳ vọng của bệnh nhân. Một nghiên cứu tên là “Ảnh hưởng của kỳ vọng điều trị đối với hiệu quả của thuốc: Lợi ích giảm đau của Opioid Remifentanil”1. có thể hoàn toàn đè bẹp mọi nguyên tắc làm nền tảng cho y học đến nay. Thế nhưng, nghiên cứu này cũng có thể mở cánh cửa dẫn tới con đường hoàn toàn mới trong điều trị bệnh.

1 http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21325618 (TG).

Các nhà nghiên cứu nổi tiếng ở trường Đại Học Oxford, Trung tâm Y khoa Đại học Hamburg-Eppendorf (Đức), Đại Học Cambridge và Đại học Công nghệ Munich, đã phát hiện ra yếu tố tối hậu và có tầm ảnh hưởng nhất quyết định liệu một thuốc điều trị nào đó có hiệu quả hay không chính là tâm trí của người bệnh. Nghiên cứu của họ, được công bố vào ngày 16-2- 2011 trên tạp chí y khoa Science Translational Medicine [Tập 3, số 70, trang 70ra14, DOI: 10.1126/scitranslmed.3001244], đã dập tắt bất cứ nghi ngờ nào cho rằng lành bệnh là do tác dụng giả dược — chứ không phải do điều trị thuốc men hay thậm chí là phương pháp phẫu thuật nào.

Trong phần tóm tắt của nghiên cứu, các nhà khoa học đã viết: “Bằng chứng từ dữ liệu hành vi và tự báo cáo cho thấy niềm tin và kỳ vọng của bệnh nhân có thể định hình cả hiệu quả điều trị và tác dụng bất lợi của bất kỳ loại thuốc nào.” Nhờ chụp hình não, người ta phát hiện ra kỳ vọng phân tán của bệnh nhân đã làm thay đổi hiệu quả giảm đau của thuốc opioid mạnh (thuốc giảm đau) ra sao.

Trong nghiên cứu này, khi các đối tượng tham gia được thông báo rằng thuốc họ nhận được không phải là thuốc giảm đau – mặc dù đó đúng là thuốc giảm đau thật – thì thuốc đó tỏ ra không hề hiệu quả. Trong thực tế, nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng ta có thể thao túng kỳ vọng của bệnh nhân để tăng cường hoặc hoàn toàn xóa sổ tác dụng của thuốc giảm đau. Điều này cơ bản có nghĩa là việc bệnh nhân hết đau hay không hoàn toàn phụ thuộc vào chính anh ta.

Nghiên cứu cụ thể này cũng xác định được các vùng não bị kỳ vọng của bệnh nhân tác động. Theo kết quả của nghiên cứu, “dựa trên bằng chứng chủ quan và khách quan, chúng tôi cho rằng kỳ vọng của cá nhân có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả điều trị của thuốc và rằng những cơ chế điều tiết cảm xúc của bộ não khác nhau tùy theo hoạt động của của sự kỳ vọng”. Lần tới khi bác sĩ kê thuốc cho bạn, hãy thử nói điều này với bác sĩ xem sao nhé!

Rõ ràng là, điều này lẽ ra đã ảnh hưởng lớn đến việc chăm sóc bệnh nhân và thử nghiệm thuốc mới, nhưng tôi không chắc là nó sẽ được xét đến. Nói với bệnh nhân rằng họ có thể tự chữa lành thì chẳng kiếm được tí tiền nào cả. Tuy nhiên, các dạng y học thay thế và bổ sung có thể có lợi ích rất lớn từ việc áp dụng các nguyên tắc này vào các quan niệm chữa bệnh của họ.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét vài điểm đặc biệt của nghiên cứu thú vị này. Một nhóm các bệnh nhân thử nghiệm khỏe mạnh cảm thấy mức độ đau liên tục như nhau khi bàn chân họ bị áp vào một nguồn nhiệt. Họ được yêu cầu xếp hạng mức độ đau của mình theo thang điểm từ 1 đến 100. Trong quá trình đó, tất cả họ đều được đặt một đường truyền tĩnh mạch đưa thuốc vào mà họ không biết. Trải nghiệm đau ban đầu được bệnh nhân đánh giá ở mức trung bình là 66.

Giai đoạn đầu của thí nghiệm, người ta đưa cho bệnh nhân một trong những thứ thuốc tốt và hiệu quả nhất là Remifentanil, nhưng bệnh nhân không biết. Điểm đau của họ giảm xuống còn 55.

Ở giai đoạn thứ hai, người ta thông báo với bệnh nhân rằng họ đang được dùng thuốc giảm đau theo đường tĩnh mạch. Bệnh nhân tin thật mà không nghi ngờ gì, điểm đau hạ xuống còn 39.

Sau đó, thuốc vẫn được đưa vào, không hề thay đổi liều lượng, nhưng người ta thông báo với bệnh nhân rằng đã ngưng hoàn toàn thuốc giảm đau. Do đó, họ tưởng rằng cơn đau quay trở lại, thế là, điểm đau nhảy lên đến 66. Mặc dù bệnh nhân vẫn được truyền Remifentanil, nhưng giờ đây trải nghiệm đau của họ ở cùng mức với lúc bắt đầu thí nghiệm, khi họ chưa được tiếp thuốc.

Giáo sư Irene Tracey, công tác tại Đại học Oxford, đã trả lời phỏng vấn của đài BBC: “Đó là điều phi thường, thật sự rất hấp dẫn. Đó là một trong những thuốc giảm đau tốt nhất mà chúng tôi có và ảnh hưởng của bộ não có thể được gia tăng hoặc hoàn toàn bị xóa sổ nhờ tác dụng của thuốc”. Bà ấy nói thêm rằng trong nghiên cứu này, những người tham gia hoàn toàn khỏe mạnh và họ đã trải qua cơn đau trong một thời gian ngắn.

Những người bị bệnh mạn tính đã dùng nhiều loại thuốc mà không khỏi bệnh sẽ không đáp ứng lắm bởi họ đã thất vọng quá nhiều lần trước đó. Vậy nên, có thể họ đã sẵn lòng biến nỗi hoài nghi của mình (mong đợi tiêu cực) thành một lời tiên đoán tự biến thành sự thật, rằng họ sẽ không khỏi bệnh. Nói cách khác, phục hồi sức khỏe hay khỏi bệnh không phụ thuộc vào cách chữa trị, mà đúng hơn là vào niềm tin của bệnh nhân rằng thuốc hiệu nghiệm hay không hiệu nghiệm với bản thân.

Giáo sư Tracey tuyên bố: “Các bác sĩ cần dành nhiều thời gian hơn cho việc tư vấn và khảo sát về mặt nhận thức bệnh; nếu chỉ chăm chú vào sinh lý học mà không ngó ngàng gì đến tinh thần người bệnh, thì các bác sĩ đã tự tạo chướng ngại vật trên con đường điều trị”.

George Lewith, “Giáo sư Nghiên cứu Sức khỏe” của trường Đại học Southampton, tuyên bố đầy chua xót rằng những phát hiện đó đã đặt ra nghi vấn về giá trị khoa học của nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên hóa: “Nó thực sự sổ toẹt những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên hóa nào mà không tính đến kỳ vọng của người tham gia.”

George Lewith là một người rất nghiêm túc, đã có nhiều thành tích ấn tượng và xuất sắc đóng góp cho nền y học thế giới. Trường Đại học Southampton đã trao cho tiến sĩ Lewith danh vị cá nhân (personal chair) với tên gọi “Giáo sư Nghiên cứu Sức khỏe” (Professor of Health Research). Ông đã công bố hơn 200 bài báo có bình duyệt và 17 cuốn sách. Tờ Times [của Anh], trong một bài đăng ngày 6-9-2008, đã đưa George Lewith vào danh sách Lifestyle 50, một danh sách “50 người có ảnh hưởng nhất đến cách chúng ta ăn, tập thể dục và suy nghĩ về chính mình” do báo này chọn ra.

Điều khiến cho nghiên cứu này trở nên hấp dẫn và quan trọng chính là những hình ảnh não khách quan được chụp trong suốt thí nghiệm cũng cho thấy những vùng nào của não bị ảnh hưởng bởi mong muốn chủ quan của bệnh nhân.

Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những thay đổi đáng kể trong hoạt động thần kinh ở những vùng não liên quan đến việc mã hóa mức độ đau. Tác dụng giảm đau của những mong đợi tích cực có liên quan tới hoạt động của hệ thống điều tiết cảm giác đau nội sinh, trong khi tác dụng của mong đợi tiêu cực lại liên quan tới hoạt động của hồi hải mã và vỏ não trán giữa. Do đó, việc mong đợi tích cực hoặc tiêu cực về kết quả của một phương pháp điều trị cụ thể nào đó sẽ làm thay đổi các chất hóa học của não và quyết định khả năng chữa lành của cơ thể.

Đây là đoạn lấy từ lần in đầu tiên cuốn sách của tôi Timeless Secrets of Health & Rejuvenation (1995), mà hiện nay nó lại có ý nghĩa hơn bao giờ hết: “Cơ chế chữa lành của giả dược tập trung ở niềm tin của bệnh nhân cho rằng một loại thuốc, một ca phẫu thuật, hay một kiểu điều trị nào đó khác sẽ làm nhẹ nỗi đau hoặc chữa lành bệnh tật cho anh ta. Bệnh nhân chỉ cần có một niềm tin sâu sắc hoặc cảm giác chắc chắn về kết quả hồi phục sức khỏe để khởi động một đáp ứng chữa lành. Nhờ tận dụng sự kết nối mạnh mẽ giữa tâm trí và cơ thể đã được mô tả từ trước, bệnh nhân có thể giải phóng các opiod tự nhiên (chất giảm đau kiểu morphin) ở các vùng não được kích hoạt bởi một số quá trình tư duy nhất định. Các chất dẫn truyền thần kinh tương ứng để giảm đau là endorphin. Endorphin mạnh hơn heroin loại nặng nhất khoảng 40.000 lần.”

Nhất trí với điều này, giáo sư Anthony Jones, công tác tại Salford Royal NHS Foundation Trust1, đã tuyên bố: “Công trình nghiên cứu từ phòng thí nghiệm của chúng tôi và công trình của những người khác đã cho thấy kỳ vọng chính là động lực then chốt chi phối nhận thức đau và tác dụng giảm đau của giả dược. Vì vậy nó cho ta sự xác nhận tiếp theo ý tưởng trên về tác dụng của thuốc. Trước đây, điều này đã được chứng minh ở tác dụng giảm đau của nitơ ôxit, nhưng nghiên cứu mới này cung cấp những bằng chứng thuyết phục chứng tỏ hiện tượng này không phải do đối tượng đang nói những điều mà họ nghĩ rằng nghiên cứu viên muốn nghe.”

1 Tổ chức điều hành bệnh viện Hoàng gia Salford ở Anh (BBT).