Cả kỳ vọng tiêu cực lẫn tích cực đều dẫn đến những biến cố rất khác thường. Nhiều người đã nghe về những nghiên cứu cho thấy các cơn đau tim thường xảy ra vào những ngày thứ Hai hơn, thường là lúc 9 giờ sáng, nếu muốn chính xác thêm nữa. Hiện tượng này được lý giải rằng đó có lẽ là do những khó khăn và căng thẳng có thể xảy ra trong suốt một tuần làm việc. Tương tự, trước kỳ Giáng sinh, có ít người chết, trong khi sau Giáng sinh, lại có nhiều người lại rủ nhau qua đời hơn.
Một hiện tượng khác được Trường Y tế Công cộng Yale và Viện Lão khoa quốc gia (National Institute of Aging) phát hiện ra: những người trẻ nào có kỳ vọng lạc quan về tuổi già ít có khả năng bị đau tim hoặc đột quỵ khi về già hơn.
Trong một nghiên cứu về lão hóa được thực hiện tại Đại học Yale và cả Đại học Miami, những người trung niên và cao tuổi sống thêm được bảy năm khi họ có thái độ tích cực về tuổi già.
Trong một nghiên cứu kinh điển, 100 người trên 80 tuổi được đưa trở về môi trường của 30 năm trước – từ việc nghe nhạc trên đài phát thanh đến quần áo đều bắt chước thời đó. Trong vài tuần, tất cả những chỉ dấu sinh lý lẫn hóa sinh của lão hóa đều hạ xuống trung bình 15 năm. Tuy nhiên, khi họ trở lại căn nhà và môi trường sống hiện tại, họ già thêm 15 tuổi chỉ trong một ngày.
Trong một bản tin đăng trên CNN.com, Elizabeth Cohen, phóng viên y tế kỳ cựu của CNN, đã viết về hiện tượng tự tiêu biến ung thư do chính bản thân bệnh nhân thúc đẩy của David Seidler, người đã nhận một giải Oscar cho hạng mục kịch bản phim xuất sắc nhất cho bộ phim The King’s speech (Nhà vua nói lắp). Ông Seidler, 73 tuổi, mắc ung thư bàng quang và đã áp dụng một phương pháp hình dung đơn giản để tiêu biến hoàn toàn khối u lớn của mình trong chưa đến hai tuần, ngay trước thời điểm tiến hành cuộc phẫu thuật đã được lên lịch, trước sự ngạc nhiên của bác sĩ của ông.1
1 http://edition.cnn.com/2011/HEALTH/03/03/ep.seidler.cancer.mind.body/ index.html (TG).
Thực sự đã có hàng ngàn ví dụ cho thấy những tưởng tượng, kỳ vọng, hình dung, nhận thức và thái độ... biểu thị bất cứ thứ gì đang được chăm chú ấp ủ trong tâm trí. Y học tâm trí/cơ thể không phải là một kiểu tư duy mê tín hay suy nghĩ viển vông; mà nó là khoa học thực sự, như nghiên cứu sau đây sẽ chứng thực chi tiết hơn.
Bạn có tin rằng chỉ cần nhìn ảnh người yêu thôi cũng đủ xoa dịu phần lớn nỗi đau, chẳng khác gì thuốc giảm đau paracetamol, narcotics, hoặc cocain? Một nghiên cứu của trường Đại học Stanford vừa phát hiện ra điều đó.
Trong công trình được đăng trên tạp chí PLoS ONE vào ngày 13-10-2010, [doi:10.1371], các nhà nghiên cứu đã chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) bộ não của những sinh viên “vướng lưới tình” trong khi họ đang đắm đuối nhìn vào những tấm hình của người yêu, đồng thời chịu đựng các cơn đau do nhiệt áp vào da ở nhiều cấp độ khác nhau. Theo nhà nghiên cứu thần kinh (neuroscientist) Jarred Younger, trung bình cấp độ đau giảm từ 36% đến 44%. Các thuốc giảm đau cũng không hiệu nghiệm hơn là mấy.
Theo một báo cáo trên tờ Hospitalist số ra tháng 9-2006, “nhiều bệnh nhân sẽ chỉ cảm thấy bớt đau được 30% – 50%”. Ngoài ra, thuốc giảm đau có thể có tác dụng phụ, như chóng mặt, buồn nôn, buồn ngủ, táo bón, khô miệng, ra nhiều mồ hôi, suy gan và tử vong. Nói cách khác, bạn không cần đến thuốc giảm đau làm gì cho khổ.
Trong một nghiên cứu khác được đăng trên tạp chí Psychological Science (Khoa học tâm lý) vào tháng 11-2009, các nhà tâm lý học của trường đại học California tại Los Angeles, đã nghiên cứu 25 phụ nữ và bạn trai của họ trong 6 tháng, cho họ trải qua các cấp độ đau khác nhau.
Trong khi chịu đau, người ta yêu cầu những các cô gái hoặc nắm tay bạn trai hoặc nắm tay một người đàn ông lạ, cả hai người đều giấu mặt sau bức rèm. Khi được nắm tay ai đó, dù là bạn trai hay người lạ, các cô gái này đều cảm thấy bớt đau hẳn.
Khi được yêu cầu xem ảnh của bạn trai hoặc của một người đàn ông xa lạ trong khi chịu đau, những người phụ nữ này cảm thấy được giảm đau ít nhất là bằng như vậy. Trên thực tế, nắm tay hay xem ảnh người lạ có khi còn giảm đau nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là hiệu ứng giảm đau không nhất thiết phải liên quan đến chứng “đê mê” vì tình yêu. Tất cả những gì bộ não cần để tiết ra chất giảm đau là cảm giác gần gũi hoặc an tâm mà những người phụ nữ này trông chờ có được khi nhìn thấy bức hình của người mình yêu, hoặc nắm tay ai đó.
Những nghiên cứu này là vô giá trong việc chỉ ra mối quan hệ gần gũi giữa chữa lành và cảm giác của con người. Chúng ta không phải là robot. Để có thể tạo ra kiểu kỳ vọng (tích cực) cần thiết cho quá trình chữa lành ung thư, chúng ta cần những người xung quanh động viên, khích lệ và trấn an. Một chẩn đoán hoặc tiên lượng xấu, có tính đe dọa kiểu “Nếu anh không uống thuốc này, thì anh sẽ chết” hoặc khiến anh ta cảm thấy mình là một nạn nhân bất lực của một căn bệnh quái ác, sẽ không giúp ích gì mà trái lại còn khiến cho sức khỏe anh ta ngày càng đi xuống hoặc cuối cùng dẫn đến tử vong.
Nhiều dược phẩm chỉ hiệu nghiệm vì người ta kỳ vọng nó hiệu nghiệm, chứ không phải vì chúng có bất kỳ hiệu ứng hóa sinh đáng kể nào với cơ thể. Không có niềm tin là mình sẽ nhận được lợi ích trông thấy, thì não bộ của bạn sẽ chỉ chăm chăm ngăn chặn thuốc men phát huy tác dụng.
Như chúng ta đã thấy trong nghiên cứu đầu tiên, việc đưa một liều giảm đau cho bệnh nhân trong khi bảo anh ta đó không phải là thuốc giảm đau, đã chứng minh liều giảm đau đó hoàn toàn vô giá trị. Sức mạnh tâm trí hoặc là đè bẹp những lợi ích tiềm tàng của thuốc, hoặc là kích hoạt những đáp ứng hóa sinh của cơ thể mà chính thuốc đó nhắm đến. Nói cách khác, tâm trí có thể sai khiến não bộ khởi động hay không khởi động những đáp ứng hóa sinh cần thiết cho chữa lành.
Từ nghiên cứu bộ não, chúng ta biết rằng tất cả các quá trình chữa lành trong cơ thể đều được não điều tiết. Nhiều nghiên cứu đã liên tục xác nhận điều này, trong đó có những nghiên cứu về các loại thuốc chống trầm cảm, vốn thường xuyên không vượt được giả dược về mặt hiệu quả. Tất cả những chuyện này cho chúng ta một niềm tin đáng khích lệ là chúng ta có quyền năng với bộ não của mình. Não thực hiện những mệnh lệnh của chúng ta dưới dạng những niềm tin và kỳ vọng, tích cực và tiêu cực, có ý thức và trong tiềm thức. Nói gọn lại, chúng ta là những gì chúng ta tin tưởng. Bởi thế, có lẽ đã đến lúc phải thay đổi cách suy nghĩ về quyền năng mà chúng ta có đối với năng lực chữa lành của bản thân.