• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ung thư không phải là bệnh, mà là cơ chế chữa lành
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 119
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 119
  • Sau

Lừa bịp trong thống kê

Ngành ung thư đang cố gắng sử dụng bằng chứng thống kê để thuyết phục chúng ta phó thác mạng sống của mình vào tay họ. Tuy nhiên, nhiều câu chuyện hóa trị liệu thành công chỉ giới hạn cho các loại ung thư tương đối mập mờ, như u lym-phô Burkitt và ung thư nguyên bào nuôi (ung thư nhau thai), hiếm đến nỗi nhiều bác sĩ lâm sàng chưa gặp bao giờ. Bệnh bạch cầu ở trẻ em chiếm chưa đến 2% tất cả các loại ung thư, và do đó khó có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công nói chung. Số ca hóa trị thành công với bệnh Hodgkin (u lym-phô) được cho là rất ấn tượng chỉ là một lời nói dối vụng về. Những đứa trẻ được chữa khỏi bệnh Hodgkin có khả năng sau này phát triển các khối u ác tính thứ cấp nhiều gấp 18 lần (New England Journal of Medicine, ngày 21-3-1996).

Theo Viện Ung thư Quốc gia [NCI Journal 87:10] các bệnh nhân làm hóa trị có khả năng bị bệnh bạch cầu nhiều hơn gấp 14 lần và bị các loại ung thư xương, khớp và các mô mềm nhiều hơn gấp 6 lần so với những bệnh nhân không thực hiện hóa trị. Nhưng nếu bạn ở Mỹ và có con bị u lym-phô nhưng từ chối điều trị vì những nguyên nhân đã nói rõ ở trên, thì bạn sẽ đối mặt với việc bị pháp luật trừng trị và con bạn có thể bị tước khỏi vòng tay bạn. Tóm lại: cho dù chỉ có 2% – 4% ung thư đáp ứng với hóa trị, hóa trị đã trở thành biện pháp điều trị chuẩn được chỉ định cho hầu hết các loại ung thư. Tỷ lệ người mắc ung thư ở Hoa Kỳ thực hiện liệu pháp hóa trị là 75%.

Nhà nghiên cứu ung thư, bác sĩ J. Bailer đã nói thẳng: “Con số thống kê những bệnh nhân ung thư sống đến 5 năm của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ là rất sai lạc. Vì họ tính cả những chứng không phải ung thư, và, vì chúng ta có thể chẩn đoán ở giai đoạn sớm hơn của bệnh, nên bệnh nhân bị hiểu nhầm là sống được lâu hơn. Nghiên cứu tổng thể ung thư của chúng ta trong 20 năm qua là một thất bại. Ngày càng có nhiều người trên 30 tuổi đang chết vì ung thư hơn bao giờ hết... (Nhưng) ngày càng có nhiều phụ nữ mắc các bệnh nhẹ hoặc u lành đang được tính cả vào trong con số thống kê và được báo cáo là “đã chữa khỏi”. Khi các quan chức chính phủ đưa ra những con số bệnh nhân sống sót và nói rằng họ đang chiến thắng trong cuộc chiến chống lại ung thư, là họ đang sử dụng tỷ lệ sống sót này không đúng cách.” [New England Journal of Medicine, tháng 9/10-1990].

Các con số thống kê chính thức về ung thư đơn giản là bỏ sót những người Mỹ gốc Phi, một nhóm người thực ra có tỷ lệ mới mắc (incidence) ung thư cao nhất. Họ cũng không tính đến những bệnh nhân ung thư phổi, là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến tử vong liên quan đến ung thư ở đàn ông, và phổ biến thứ hai ở phụ nữ. Tuy nhiên, dữ liệu thống kê này đưa vào cả hàng triệu người mắc các bệnh không đe dọa đến mạng sống và dễ dàng chữa khỏi, như các bệnh ung thư cổ tử cung cục bộ, ung thư không lan rộng, ung thư da và ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) – loại ung thư vú không xâm lấn phổ biến nhất. Thậm chí cả các ca tiền ung thư, hầu hết không bao giờ phát triển thành ung thư đầy đủ, cũng được tính vào để làm tăng mạnh tỷ lệ thành công vốn ảm đạm của các liệu pháp hiện đại điều trị ung thư.

Tỷ lệ tử vong năm 1997 thực ra cao hơn năm 1970 là 6%, do đó chẳng có lý nào nói rằng liệu pháp điều trị ung thư hiện đại là khoa học, hiệu quả hoặc xứng đáng với biết bao đau đớn, nỗ lực và tiền bạc bỏ ra. Xu hướng này vẫn còn tiếp tục đến ngày nay, nhưng với tỷ lệ thất bại ít nhất là 93%, liệu pháp điều trị ung thư của y học không thể được coi là điều trị, mà đúng hơn là một nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe của toàn xã hội.