Trước hết phải khẳng định, tình hình hiện nay so với thời Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng đã có nhiều đổi thay. Cái lớn nhất, bao trùm và chi phối là nhân loại đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hoá của một “thế giới phẳng”. Với tinh thần của Đại hội X, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang dồn sức, quyết tâm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong bối cảnh thế giới và trong nước như vậy, có không ít ý kiến cho rằng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không còn giá trị. Những loại ý kiến này thừa nhận tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo ra sức mạnh và động lực to lớn trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ bao cấp, khi mà cả dân tộc tập trung “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, phải đề cao lợi ích tập thể; nhấn mạnh vai trò kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể … Còn giờ đây, toàn Đảng, toàn dân tập trung cho dân giàu, nước mạnh; chú ý động lực phát triển xã hội, cùng với đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của các thành phần kinh tế, của các loại lợi ích, trong đó có lợi ích cá nhân…, thì tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không còn phù hợp nữa (!?).
Có thật sự như vậy không? Bài viết này nhằm làm rõ tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn, mang giá trị phổ biến, trường tồn.
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức hàng đầu của Hồ Chí Minh là “trung với nước, hiếu với dân”. Phân tích phẩm chất đạo đức này cần thấy có điểm chung và riêng của trong hai thời kỳ cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cái chung là bất kỳ trong điều kiện, hoàn cảnh nào, nói tới đạo đức mới, đạo đức cách mạng thì phải luôn luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và dân tộc lên trên hết, trước hết. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy cả đời Người chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo- là vì mục đích đó. Quyền lợi Tổ quốc trước đây là độc lập dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước. Còn ngày nay là dân giàu, nước mạnh, sớm đưa nước ta vào hàng các nước phát triển. Trung với nước, hiếu với dân trong tình hình hiện nay là phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc, xây dựng nước ta sớm trở thành một nước cường thịnh, “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Bác Hồ đã từng dạy “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Ngày nay, chúng ta không thể chấp nhận một Việt Nam anh hùng nghèo. Nội lực của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, anh hùng của dân tộc, là tinh thần nhân văn Việt Nam. Dân giàu, nước mạnh theo tinh thần Hồ Chí Minh là người nghèo trở nên đủ, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trước đây cũng như hiện nay là phải đặt lợi ích của nước, của dân lên trên hết. Phấn đấu làm giàu cho đất nước hôm nay cũng phải theo tinh thần “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết làm giàu cho Tổ quốc”. Tuy nhiên, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh dưới góc nhìn đạo đức không có nghĩa là bằng mọi giá, bất chấp luật pháp, nhân phẩm, mà phải bằng trí tuệ, bằng khoa học công nghệ, bằng chính sức lao động chính đáng của ta mà làm giàu cho ta, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. ở đây có vấn đề đặt ra là phải giải quyết đúng đắn, hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và đất nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới lợi ích chính đáng của cá nhân, coi đó là một động lực phát triển đất nước. Nhưng khi buộc phải chọn một giữa lợi ích cá nhân và lợi ích đất nước, thì phải đặt lợi ích của nước, của dân lên hàng đầu. Điều này không phải chỉ ở Việt Nam, hay chỉ là cách giải quyết của những người cộng sản, mà bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, họ đều đặt lợi ích của đất nước, dân tộc họ lên hàng đầu. Với nước ta ngày nay, trung với nước, hiếu với dân còn có một nội dung rất quan trọng nữa là trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ nhân dân và thành quả sự nghiệp đổi mới. Trước đây cũng như hiện nay, chúng ta hiểu nước là nước của dân và dân là chủ nhân của nước. Vì vậy, có một nội dung quan trọng là thực hành dân chủ với dân, tôn trọng, đảm bảo quyền làm chủ thật sự của dân, đoàn kết và phát huy trí tuệ toàn dân tộc. Mỗi người Việt Nam yêu nước, con Rồng cháu Tiên, trên cương vị công tác của mình, phát huy tinh thần trách nhiệm và bổn phận đối với cộng đồng, với Tổ quốc, phấn đấu để thành đạt, cống hiến được nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc, quyết tâm xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp, văn minh, hùng cường.
Thứ hai, về phẩm chất đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Có ý kiến cho rằng khi khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão thì cần đề cao tốc độ, sự tinh xảo, còn đức tính “cần, kiệm” xem ra không phù hợp. Xin được nói ngay rằng, càng những nước phát triển, họ càng đề cao cần, kiệm, liêm, chính. Vì vậy, trước hết về nhận thức, cần phải thống nhất và quán triệt sâu sắc những phẩm chất đạo đức nêu trên trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vẫn còn nguyên giá trị. Nó vẫn là thước đo “chất người”, trình độ “người” của một con người như Bác Hồ đã chỉ ra: “Thiếu một đức thì không thành người”. Về hành động, cần thực hành sáng tạo những phẩm chất đạo đức đó trong tình hình cụ thể hiện nay.
Trước hết, phải chăm chỉ, cố gắng, tích cực lao động sản xuất, siêng học tập, siêng nghĩ ngợi, siêng làm, siêng hoạt động. Điều này có ý nghĩa đối với từng người, từng nhà, từng đơn vị và cả nước. Cần phải đi liền với kế hoạch và dẻo dai, bền bỉ (chuyên) cả năm, cả đời. Cần là như vậy, nên lười biếng là kẻ địch của chữ cần, là kẻ địch của dân tộc. Lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc. Thực hành cần phải đi liền với chống lười biếng.
Nước nào, thời nào cũng phải tiết kiệm. Hiện nay, ta phải nắm vững tinh thần, hiểu đúng và noi gương tiết kiệm của Bác Hồ để thực hành tiết kiệm vật tư, tiền bạc, thời giờ. Càng đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, càng phải tiết kiệm, nhất là tiết kiệm thời giờ. Bởi vì, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, của cải nếu hết còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được. Chiều sâu của tiết kiệm là tiết kiệm “đầu vào” trong quy trình sản xuất, làm ra sản phẩm. Chẳng hạn, một giờ làm xong công việc của hai, ba giờ; một người làm bằng hai, ba người; một đồng dùng bằng giá trị hai, ba đồng. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ, vì xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào. Kiệm phải đi đôi với cần, vì kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển được. Bác Hồ dạy, người yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm.
Liêm là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh lợi. Trong giai đoạn hiện nay, mỗi người Việt Nam, trước hết là cán bộ công chức, phải hiểu chữ liêm theo nghĩa rộng và chiều sâu để chống bất liêm. Từ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hiểu tham nhũng (Bác Hồ thường nói nhũng lạm) có gốc rễ từ quyền lực: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” 20 . “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” 21 . Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư ; dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm)… đều trái với chữ liêm. Vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Tham lam là có tội với nước, với dân. Vì vậy, thực hành chữ liêm là phải kiên quyết chống tham lam. Chống tham lam, tham nhũng mang tính quốc tế, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính phổ biến.
20 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.5, tr. 641.
21 Hồ Chí Minh: Sđd, t.5, tr.104.
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Chính là đứng đắn, thẳng thắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn tức là tà. Có việc chính, việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Giờ đây, hơn bao giờ hết, mỗi người phải nghiêm chỉnh thực hành chữ chính. Đối với mình là chớ tự kiêu, tự đại. Đối với người là chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới, thật thà đoàn kết, thực hành chữ bác- ái. Đối với việc là phải để việc công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Chính đối với việc gần với chí công vô tư. Nhưng thực hành chí công vô tư, cùng với việc để việc công lên trên, lên trước việc tư, còn phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ giặc- giặc trong lòng (giặc nội xâm); là một loại vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh khác nhau; là một trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, hiện nay cần nhận thức sâu sắc rằng, sự thắng lợi của công cuộc đổi mới không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Thứ ba, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với dân. Mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ lòng thương yêu, quý trọng, tin tưởng nhân dân, và trên hết và xuyên suốt là ý thức phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi việc đều do người làm ra; có dân là có tất cả. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Không gắn bó với dân, thì giống như đứng lơ lửng giữa trời, chóng hay chày, nhất định thất bại. Học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giờ đây mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự coi mình là công bộc của dân, phục vụ dân, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chúng ta phải thấm thía lời dạy của Bác Hồ, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc là đều của dân, thì ta phục vụ dân là lẽ thường tình. Mỗi cán bộ, đảng viên, dù bất cứ ở cương vị nào, cũng phải nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; chăm lo dân trí, dân sinh, dân quyền, dân chủ; làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Không chỉ có cơm ăn, áo mặc là của dân, mà mọi quyền hành cũng đều ở nơi dân. Vì vậy, phải nêu cao ý thức, tinh thần phục vụ nhân dân như “một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận”. Khi nào tự thấy không còn uy tín với dân, không hoàn thành trách nhiệm dân giao phó thì vui vẻ từ chức. Đó chính là “văn hóa từ chức” theo tinh thần văn hóa lãnh đạo- quản lý của Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay. Phải tuyệt đối chống thái độ vô cảm với dân, “vác mặt làm quan cách mạng”, “chỉ muốn lên mà không muốn xuống”, không muốn từ chức, mặc dầu không còn uy tín với dân.
Thứ tư, phải nhận thức và hành động đúng theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế trong sáng, thuỷ chung của Hồ Chí Minh trước đây. Chủ nghĩa quốc tế vô sản không phải là một khái niệm đã lỗi thời. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và tình hình quốc tế hiện nay, cần hiểu chủ nghĩa quốc tế vô sản với tầm vóc rộng hơn, đó là một chủ nghĩa quốc tế rộng rãi mang tính nhân đạo sâu sắc, gắn bó mọi dân tộc và con người có lương tri, cùng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Từ trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh đã muốn “Việt Nam làm bạn với mọi nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”. Người coi “bốn bể đều là anh em”. Giờ đây, khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt quan điểm của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Phải quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, phải vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tóm lại, từ truyền thống đạo đức của dân tộc, khai thác, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, mà đỉnh cao là đạo đức Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ tiếp sau một hệ thống quan điểm đạo đức toàn diện, sâu sắc. Những phẩm chất và nguyên tắc rèn luyện đạo đức, đặc biệt là tấm gương đạo đức sáng ngời, mẫu mực của Người đã có tác dụng to lớn trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, đưa miền Bắc và cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đạo đức Hồ Chí Minh luôn mang hơi thở của thời đại và bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam, vì một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Vì vậy, tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người luôn sải bước cùng dân tộc và thời đại.