C
ảm giác lúc phải quay lại nhà chẳng bao giờ vui vẻ như lúc chuồn đi. Tôi thả con bé Zoe say mèm về nhà nó, rồi lái xe của con bé về nhà mình một cách chậm rãi nhất có thể. Tôi đã đi lòng vòng quanh nhà ít nhất năm lần trước khi dừng lại bên ngoài lối cổng vào nhà. Một ánh đèn nhỏ hắt ra từ phía cửa sổ phòng bếp, cũng tức là ba mẹ tôi đang xem ti vi ngoài phòng khách. Họ đang đợi tôi về. Tôi hít một hơi thật sâu, mở cửa xe, rồi bước về nơi định mệnh đang chờ sẵn - nơi ba mẹ đang giận dữ chờ tôi về.
Khốn thật, ngôi nhà đang yên tĩnh bỗng nhiên bị tiếng bước chân tôi làm hỏng. Họ mà nghe thấy thì chết. Đúng lúc đó, tiếng bước chân dội lại càng ngày càng lớn. Ba và mẹ xuất hiện trong bộ đồ ngủ cùng với gương mặt không chút cảm xúc. Họ ra hiệu cho tôi qua ngồi bên ghế sofa ở phòng khách. Ba tắt ti vi và đứng trước mặt tôi với một điệu bộ mà tôi không thể gọi tên, nhưng vẫn đầy quyền uy. Ông khoanh tay và quay sang nhìn mẹ trước khi lên tiếng.
“Ba nghĩ là việc lẻn khỏi nhà vốn là điều không thể chấp nhận được,” ông nói. “Con đã đi đâu?”
“Con đến nhà Zoe,” tôi nói, vân vê đầu ngón tay để tránh phải đối diện với ba mẹ.
“Trên người con toàn mùi rượu đấy,” mẹ nói. “Mẹ biết thừa là Sara sẽ không bao giờ để con uống nhiều như thế ở nhà cô ấy.”
“Chúng con đã ở đó, nhưng rồi lại đi chỗ khác. Con thề là con không uống, cũng không say. Con bị người khác đổ bia lên người,” tôi phân trần.
“Đây là lời biện minh cho mọi chuyện xảy ra ban tối đấy ư?” Mẹ hỏi.
“Không, con chỉ đang cố làm rõ chuyện này để lát nữa nó không bị tính vào bản án xử tội của con thôi,” tôi đáp.
Vừa mới nói ra câu ấy tôi đã thấy hối hận ngay lập tức. Tôi thấy tay mẹ siết chặt vì giận dữ. Bà hít thật sâu rồi thở ra bằng miệng, quay sang nhìn ba ý bảo ba tiếp tục cuộc đối chất này.
“Ba nghĩ là cả ba và mẹ đang rất bối rối, Danielle ạ,” ba nói. “Có bao giờ con nói dối ba mẹ đâu? Lúc nào ba mẹ cũng dạy con phải trung thực cơ mà?”
“Không phải là con không muốn thành thật,” tôi nói. Ba giơ tay ám chỉ tôi dừng lại.
“Con khiến mẹ con mua bao nhiêu là đồ dùng trong phòng kí túc, lại còn cả vé xe cho con nữa... sao con có thể để mọi chuyện đến nông nỗi này chứ?” Ba hỏi.
“Chúng ta sẽ khắc phục sai lầm này từ ngày mai. Có thể rất khó khăn, nhưng sáng mai ba sẽ gọi cho trường Ohio để hỏi về quy trình xin xem xét lại quyết định. Chúng ta có thể đổi chuyên ngành của con, để phù hợp với yêu cầu hơn. Ba chắc chắn là sẽ có...”
“Ba mẹ đừng sửa chữa gì cho con cả,” tôi ngắt lời ba. “Con làm mọi chuyện ra nông nỗi này, con sẽ tự chịu.”
“Danielle, con biết là mẹ giúp đỡ đám học sinh vào được trường phù hợp. Mẹ không thể để con gây ảnh hưởng đến uy tín của mẹ được.”
“Thôi nào Karen...” Ba ngắt lời mẹ.
“Con biết là chuyện này nghiêm trọng đến mức nào phải không Danielle? Chúng ta phải chữa cháy ngay lập tức, và đích thân ta sẽ giải quyết việc này,” mẹ nói.
“Không!” Tôi vừa nói vừa lắc đầu.
“Không ư?” Mẹ hỏi, tay khoanh trước ngực.
“Con sẽ học lại môn đó ở trường DCC học kì này, con sẽ kiếm việc làm để bù lại khoản chi phí tổn thất,” tôi nói.
“Đừng nói là con vào trường DCC đó để chứng minh là con không cần ta giúp đấy?” Mẹ hỏi.
“Con muốn tự mình giải quyết việc này. Con làm mọi thứ rối tung lên thì chính con sẽ khắc phục nó,” tôi gần như hét lên.
Mẹ nhìn chằm chằm vào tôi một lúc lâu. Tôi cảm nhận được mẹ đang đổi ý, hình như là tìm ra những lời đau đớn nhất để nói. Nhưng không, bà nhìn sang ba và nói: “Em về phòng đây,” rồi đi một mạch không ngoái đầu lại. Tôi và ba ngồi yên trong phòng khách, đợi cho đến khi nghe tiếng cửa phòng ba mẹ đóng sầm lại. Lồng ngực tôi như thắt lại, thở hắt ra những nhịp run rẩy, và cảm nhận rõ vị mặn đang cay xè nơi khóe mắt.
“Con có chắc đây là điều con muốn làm không, con gái?” Ba hỏi.
Tôi gật đầu, nhưng chưa bao giờ cảm thấy không chắc chắn như bây giờ. Quyết định của tôi có đúng đắn hay không? Tôi có nên để mẹ can thiệp và tìm cách khác để giúp tôi được nhận vào trường hay không?
“Chắc không cần ba nói thì con cũng đoán được hình phạt của mình rồi đúng không nào? Hãy ngoan ngoãn nhận lệnh cấm túc và chịu trách nhiệm đưa đón Noah trong thời gian tới nhé,” ba nói. “Ba mừng vì con có kế hoạch của riêng mình, cũng mừng vì cuối cùng con đã có trách nhiệm với bản thân. Nhưng ba cũng phải nói, lẽ ra con nên nói điều này cho ba mẹ, chúng ta đã không đau tim nhiều như thế.”
Ba bỏ về phòng, còn tôi ngồi trơ lại nhìn vào bức ảnh gia đình treo trên mặt lò sưởi. Giá mà tôi có thể viết ra dòng chữ “đây là một sự dối trá” ngay dưới những nụ cười của chúng tôi. Mẹ trưng bày ảnh ở đó để cố tỏ ra là cuộc sống gia đình vẫn bình thường suốt những năm mẹ mải mê theo đuổi công việc bất thường của mình. Tôi nhớ đã có lần, cỡ đâu khoảng năm năm trước, người ta đến phỏng vấn gia đình tôi sau khi những thành công đầy ấn tượng của mẹ xuất hiện trong bản tin truyền hình địa phương. Bà bắt chúng tôi phải tươi cười, còn việc đối đáp ra sao để mình bà lo. Nếu họ có hỏi chúng tôi điều gì, chúng tôi phải thể hiện thái độ lạc quan về công việc của bà. Chúng tôi không được phép nói đến những chuyện như bị cấm túc trong phòng khi có khách đến, hay bị đánh thức giữa đêm chỉ vì những cuộc gọi khẩn từ những ông bố bà mẹ đang tuyệt vọng. Tôi rất ghét những lần như thế. Tuy là công việc của mẹ bắt đầu lúc tôi và Noah còn là học sinh, nhưng thực tế, số thời gian chúng tôi được ở gần mẹ còn ít hơn số lần tôi gặp cô bạn thân sống xa thị trấn tận mười lăm phút lái xe.
Cả buổi tối tôi đã cố nén nước mắt, đến lúc này thì không thể kìm chế thêm được nữa. Tôi gục mặt xuống đầu gối, tay ôm mặt, cứ thế để mặc nước mắt rơi.
“Dani?” Tôi nghe có tiếng vọng từ trên lầu xuống. Noah rón rén xuống ngồi cạnh tôi. Nó chìa ra cánh tay cho tôi gục vào vai. Thằng bé mới chỉ mười bốn tuổi, mà những lúc thế này nó giống như một ông chú bốn chục tuổi. Nó luôn biết phải làm gì, nói gì để an ủi động viên tôi. Tôi không hiểu nổi sự thông minh và khéo léo này của nó là từ đâu ra.
“Mẹ nói với em về chuyện chị làm ô uế thanh danh gia đình rồi à?” Tôi hỏi.
“Em chỉ biết mấy chuyện lặt vặt thôi,” thằng bé đáp.
“Chuyện này làm chị đau khổ suốt thời gian dài vừa qua, Noah ạ. Và mọi thứ lại tệ hơn cả trăm lần khi chính Claire là người phanh phui chuyện ấy,” tôi nói.
Thằng bé ôm chặt vai tôi hơn. “Chị không phải là người đầu tiên giữ bí mật với cha mẹ của mình. Mọi người sẽ vượt qua chuyện này thôi. Chị cũng sẽ vượt qua. Đây đâu có phải chuyện gì khủng khiếp như tận thế.”
“Chị không nghĩ là mẹ sẽ vượt qua nổi chuyện này,” tôi nói, lại nấc nghẹn cả người.
“Rồi mẹ sẽ ổn thôi. Cả mẹ và chị đều cố chấp và cứng đầu, nên có thể sẽ cần một chút thời gian để vượt qua, nhưng tin em đi, kiểu gì cũng ổn thôi,” thằng bé trấn an tôi. “Hơn nữa chẳng phải chị có kế hoạch rồi còn gì. Mẹ mình thì luôn sẵn sàng cho những kế hoạch tỉ mỉ như vậy.”
Thằng bé cúi người xuống, để ép tôi phải nhìn thẳng vào mắt nó. “Chị biết là mọi chuyện rồi sẽ ổn mà, đúng không?”
“Mong là vậy,” tôi nói.
Thằng bé ngoác miệng cười, bỏ tay khỏi vai tôi.
“Đợi đã.” Tôi túm lấy cằm nó rồi nâng lên ngang tầm mắt của mình. “Cười lại xem nào. Em còn dính mì rau cải bó xôi ở răng kìa. Em không đánh răng tối nay à?”
“Chắc là em quên thôi,” nó nói, tay nhặt bỏ miếng rau bám trên răng.
“Bẩn quá đi mất,” tôi vừa nói vừa đánh vào cánh tay nó.
“Có muốn hun cái không?” Nó hỏi lém lỉnh.
“Không!” Tôi vừa hét vừa chạy lên lầu. “Tránh xa chị ra!”
***
Tôi không cảm thấy xấu hổ gì khi phải lái chiếc xe phế thải, nhưng khổ nỗi là nó luôn khiến tôi đau đầu mỗi lần khởi động. Phải mất đến ba phút ngồi chôn chân ở lối cổng để khởi động được bộ động cơ xe. Đã thế lại còn cả đống đồ gia dụng vốn mua để dùng trong kí túc đang chất đầy phía sau xe nữa, chúng nhiều đến mức tôi không thể nhìn được phía sau ra sao.
Tôi đã quyết định thực hiện theo kế hoạch mình đã vạch ra, với điểm khởi đầu là trường Đại học Cộng đồng Denton. Hôm nay tôi sẽ đến đăng kí các lớp học và ứng tuyển vào bất kì công việc nào còn trống. Ba và mẹ không yêu cầu tôi phải tìm việc, nhưng nếu vẫn phải sống ở nhà thêm một học kì nữa, thì chắc chắn tôi phải làm gì đó để tránh mặt họ nhiều nhất có thể. Lúc vừa vào được khu đỗ xe, điện thoại trong túi tôi rung lên. Là tin nhắn của Zoe.
Zoe: Tốt hơn hết là bà đang giữ xe của mình.
Tôi: Lát mình sẽ lái xe qua đó. Trở lại giường đi, công chúa ngủ trong rừng.
Lúc tôi thả con bé về nhà đêm qua nó dễ dàng leo lên giường. Mẹ con bé chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình nếu thấy Zoe khác bình thường. Lúc ở bữa tiệc con bé hình như cũng không uống nhiều lắm, nhưng Zoe là một cô gái nhỏ nhắn - cao chưa đầy năm feet7. Tôi khá chắc chắn rằng chỉ cần một lượng cồn nhỏ cũng đủ để hạ gục con bé. Nó mà còn thế thì không biết tôi sẽ ra sao nếu ngốn hết dù chỉ một xíu xíu cái dung dịch pha nước của mình. Tôi đã cố gắng để gột sạch chất cồn bên trong, nhưng phần bia dư lại vẫn dính quanh đó, khiến “nước” mà tôi uống thậm chí còn kinh khủng hơn cả bia. Lại còn bị Luke cười vào mặt vì cách ứng khẩu kì quặc của mình nữa.
7 Đơn vị đo độ dài (viết tắt là ft), 1 foot = 30.48 cm; 5 feet = 152.4 cm.
Lại nhắc đến Luke. Liệu bây giờ anh ấy đã biết mình là ai chưa? Hay là tự mình lừa phỉnh bản thân rằng anh đã biết về điều đó? Mà thôi vậy, cũng có phải là tôi chưa từng làm trò ngốc nghếch trước mặt anh ấy đâu. Lúc chúng tôi vẫn còn là hàng xóm, Olivia - em gái của Luke - và tôi là bạn tốt của nhau. Chẳng biết từ bao giờ chúng tôi lại chơi búp bê ở sân sau nhà con bé, nhưng phải đến năm chúng tôi mười một tuổi thì nó mới hết thú vị. Lúc ấy Luke đã mười hai tuổi và luôn làm chúng tôi khiếp sợ. Tôi nhớ có buổi chiều tôi sang chơi với Olivia, nhưng khi vào đến sân sau thì chỉ thấy mình Luke ở đó.
“Liv có ở đây không anh?” Tôi hỏi Luke.
Anh ấy lắc đầu. “Không có. Nhưng may quá có em ở đây. Để anh cho em xem cái này.”
Tim tôi như lỡ một nhịp, tôi cố giấu đi bộ mặt đỏ bừng vì ngượng ngùng của mình. Luke vừa bảo là anh ấy muốn cho mình xem thứ gì đấy mà không có mặt Olivia ư? Ngoại trừ những lúc Olivia vào trong nhà lấy kem que Popsicles hoặc đi vệ sinh ra, thì trước nay có được mấy lần hai đứa tôi nói chuyện riêng với nhau đâu. Cả đám con gái khối lớp sáu đều bị Luke hớp hồn, thậm chí chúng tôi còn đồng loạt tán thành rằng đứa nào mà hôn được Luke sẽ có quyền khoe khoang cả đời. Ôi có khi nào cơ hội đang đến với tôi không?
Anh ấy rảo bước qua đám cỏ um tùm mọc quanh hàng rào, còn tôi lóc cóc theo đằng sau. Anh quỳ gối, đưa người về phía một đống đá ở góc cuối sân, tôi cũng bắt chước nhìn theo.
“Cái gì thế anh?” Tôi hỏi Luke.
Anh ấy chỉ vào giữa đống đá. “Em không nhìn thấy à? Có con cóc bị anh nhốt lại kia kìa.”
“Eo ôi!” Tôi hét inh tai.
Luke cười ầm ĩ một cách đầy tự mãn. “Sao thế, em không thích cóc à, Danielle?”
“Dani,” tôi rít lên vì giận dữ. Mặt đỏ tía tai, tôi quay ngoắt mông rời khỏi đó. Rõ ràng là anh ấy biết tôi chúa ghét người khác gọi mình bằng tên đầy đủ như thế, lại còn đứng cười khúc khích đằng sau, tôi càng tức giận và định bụng đi thẳng về nhà mình.
“Dani, đợi đã,” anh nói, chạy theo bên cạnh tôi. Bụng dạ tôi sôi lên lần nữa, tôi quay sang đối mặt với anh, cảm giác khóe mắt càng cay xè. “Em khóc đấy à?”
“Không!”
“Anh không cố ý làm em nổi giận...”
“Phải rồi, anh đâu có cố ý,” tôi ngắt lời rồi quay đi lần nữa. Tôi không thể đứng đó thêm một phút nào nữa, chứ đừng nói đến việc để chàng trai trong mơ nhìn thấy mình khóc lóc. Không gì bù đắp được chuyện đó cả.
“Liv cùng ba anh đi xem nhà mới rồi,” anh ấy nói. Tôi liền đứng chết chân trên lối về, tim như ngừng đập. “Gia đình anh sắp chuyển đi rồi.”
Nước mắt bắt đầu lăn dài trên hai má, và tôi biết là mình sẽ khóc nấc lên mất. Tôi cần phải bỏ chạy ngay để Luke không phát hiện thấy tôi trong bộ dạng ấy. Mặt Luke đanh lại, tôi biết là anh ấy cũng rất buồn. Anh đã sống ở đây mười mấy năm trời, thậm chí còn ở đây trước khi gia đình tôi chuyển đến. Luke vỗ vào vai tôi một cách kì quặc, và một tiếng nấc nhỏ bật ra từ khóe môi tôi.
“Anh và mọi người sẽ thường xuyên trở lại đây mà.” Luke nói.
Tôi nhìn thẳng vào mắt anh, không biết rằng nước mắt nước mũi đang lem nhem trên mặt. “Anh hứa chứ?”
“Anh hứa,” Luke đáp.
Và trong suốt một thời gian họ vẫn giữ lời hứa ấy. Trong vòng hai năm sau cú sốc chuyển nhà, Olivia và Luke vẫn về thăm mọi người trong khu suốt mùa hè. Có một mùa hè khác Liv về đây một mình, đó là khi Luke bắt đầu theo nghiệp chơi bóng và anh không thể xa nhà lâu đến như vậy nữa. Sau mùa hè đó, cả hai anh em nhà họ đều bận rộn với cuộc sống và các hoạt động ở trường trung học, và họ không còn quay lại Denton, không quay lại ngôi nhà gỗ đỏ với nhà trọ Cóc vẫn còn nguyên nơi góc sân sau.
Tôi chất đống đồ gia dụng vốn dùng cho sau này lúc ở kí túc vào đầy hai xe đẩy hàng, và cảm giác rõ những ánh nhìn soi mói từ những người mua hàng khác đang găm thẳng vào tôi. Trước hết, họ soi mói vì cả đống đồ lỉnh kỉnh đều có gắn logo trường Ohio, tiếp nữa là vì độ hỗn tạp màu sắc của cả đống đồ đó. Nhưng điều cuối cùng mà họ soi mói chính là tôi đang mang trả lại toàn bộ chỗ đồ ấy. Lẽ ra tôi nên sao chép lá thư từ chối rồi phát cho mọi người thay cho lời giải thích hoàn cảnh hiện tại mới phải. Như thế vừa giúp họ bớt soi mói lại vừa giữ lại cho tôi chút thể diện ít ỏi.
Cô bé trực quầy trả đồ có lẽ là người không vui nhất. Con bé đang thổi bong bóng kẹo cao su liền chép miệng thở dài khi nhìn thấy hai giỏ đồ tôi đẩy theo.
“Chắc chị không được hoàn đủ tiền với chỗ đồ này đâu” là câu đầu tiên mà con bé nói với tôi. Nghe chừng như nó nghĩ rằng câu nói ấy sẽ khiến tôi thay đổi quyết định và mang hai xe đồ này về chất lại đầy trong chiếc xe phế thải của mình ấy.
Tôi gật đầu, con bé chậm rãi kiểm tra từng vật phẩm và hoàn ngược tiền vào thẻ của mẹ tôi. Ít nhất là việc này sẽ giúp họ tiết kiệm về lâu dài. Con bé nhặt đến miếng lót đệm ngồi toa- lét có gắn mác Ohio mà tôi khá thích, và tôi vươn người để túm lại nó.
“Chị muốn giữ lại món đồ này,” tôi nói.
Con bé nhướn cao đôi mày rồi nói “Được thôi” bằng cái giọng không để đâu cho hết khó chịu. Hứ, chả lẽ một thiếu nữ như mình không được phép lưu luyến cái miếng đệm ngồi toa-lét à?
Lúc nhận lại món đồ cuối cùng là một cái cốc có in hình logo của trường Ohio, con bé bắt đầu in biên lai, vừa làm lại vừa thổi kẹo cao su thành bong bóng to đùng. “Cảm ơn quý khách đã mua hàng của chúng tôi.”
“Ồ, đúng là vinh dự thật,” tôi đùa lại. Con bé đảo mắt ngay khi tôi rời khỏi quầy hàng.
Tôi quẳng lại miếng đệm ngồi toa-lét vào phía sau chiếc xe phế thải, rồi khởi động xe, cũng may là lần này không gặp nhiều vấn đề lắm lúc nhấn ga. Đến giờ phút này thì rào cản giữa quá khứ gắn chặt với trường Ohio và tương lai của tôi đã không còn nữa, tôi tự thấy bản thân đang dồi dào năng lượng và sẵn sàng chinh phục mọi trở ngại mà DCC mang đến cho mình. Khi tìm hiểu sơ qua về các lớp học và việc đăng ký nhập học tại DCC, tôi phát hiện ra là mình chỉ cần đến văn phòng đào tạo của trường để đăng ký thông tin cá nhân. Tôi không cần phải trải qua bất kì quá trình hay thủ tục đánh giá nào để được nhận vào trường... chỉ cần thể hiện rõ nguyện vọng học tập thì tôi sẽ là sinh viên của trường. Điều này lại càng khiến tôi vững tin hơn, bởi tôi biết rằng chính mình mới là người định đoạt tương lai của mình, chứ không phải ông thầy Anh ngữ trù dập học sinh hay là một lá thư từ chối với độ dài một trăm năm mươi chữ.
Khu bãi đỗ xe ở tòa nhà đào tạo của trường DCC khá trống trải. Chỉ có lác đác vài chiếc xe ở mấy góc khu bãi, phần lớn là xe của các thầy cô cố vấn và thư kí giáo vụ có mặt để trợ giúp sinh viên. Tôi cầm theo bảng điểm và tấm bằng tốt nghiệp tiến thẳng vào phía trong. Những lớp gạch của tòa nhà trông như đuối sức bởi sức mạnh của những cơn tuyết dày đánh phá suốt mùa đông. Bang Ohio là nơi thường phải chịu những thay đổi khắc nghiệt nhất của thời tiết, mùa hè thì nóng ẩm kinh người, mùa đông lại lạnh thấu da thịt và dày đặc tuyết rơi. Cũng may là khuôn viên trường không rộng lắm, nếu không thì quãng đường đi bộ từ bãi xe vào lớp học những ngày thời tiết khắc nghiệt xem chừng sẽ cực nhọc lắm đây.
Ngồi trực tại bàn tiếp tân là cô giáo vụ có mái tóc vàng búi cao trên đầu. Cô ấy đang mải mê đọc cuốn tiểu thuyết lãng mạn, bên ngoài bìa là hình ảnh của Fabio. Tóc anh ấy đang tung bay trong gió, đôi tay cơ bắp và chắc khỏe đang ôm lấy một cô gái bán khỏa thân, hai người họ đang đầm mình dưới nước một cách tình tứ. Chí ít thì cô giáo vụ cũng đang tận hưởng niềm vui của riêng mình. Tôi phải hắng giọng một lúc cô ấy mới rời mắt khỏi cuốn sách và nhìn tôi. Cô ấy thoáng đỏ mặt vì ngượng rồi nhanh chóng gập mép trang sách mình đang đọc dở.
“Xin lỗi em,” cô mở lời. “Em cần cô giúp gì nào?”
“Dạ thưa cô, em muốn đăng ký nhập học tại trường mình ạ,” tôi trình bày, trên tay vẫn cầm khư khư bộ hồ sơ của mình.
“À dĩ nhiên là được rồi.” Cô ấy đón lấy bộ hồ sơ của tôi, nhấp một vài nhấp chuột trên màn hình máy tính, rồi lấy tay với điện thoại. “Thầy Ollenburg? Ngoài này có em học sinh muốn đăng ký nhập học, thầy có rảnh không?”
Cô ấy dập điện thoại rồi trả lại sấp giấy tờ cho tôi. “Em cứ đi dọc theo lối hành lang này, văn phòng của thầy ấy là phòng thứ hai bên tay trái nhé.”
Tôi có đôi chút chán nản khi bước dọc theo lối hành lang toàn một màu trắng ảm đạm. Bên ngoài trông có vẻ cũ nhưng cũng rất độc đáo, còn bên trong thì lại được làm lại hoàn toàn với những dãy tường trắng và một vài hoa văn trang trí nho nhỏ. Tôi rẽ sang phòng thứ hai bên tay trái và phát hiện ra dấu vết đầu tiên của sự tư hữu ở ngay ngoài văn phòng của thầy Ollenburg - một dải dài các ngôi sao treo lủng lẳng trên tay nắm cửa. Ô kính trên cánh cửa bị phủ kín bởi lớp giấy sẫm màu với vô số những ngôi sao dạ quang lấp lánh. Tôi gõ vào ô kính và lặng lẽ đợi, nhưng không ngờ cánh cửa đột ngột bật mở.
“Ôi Chúa ơi!” Tôi la lên vì quá kinh ngạc.
Thầy Ollenburg cười. “Xin lỗi em, thầy không nghĩ là cánh cửa lại khiến em giật mình. Mau vào đây đi!”
Bên trong căn phòng hoàn toàn chẳng giống những gì tôi hình dung. Trên trần nhà là hàng tá những hành tinh được đặt theo quỹ đạo và rải rác khắp căn phòng là vô số các vật dụng linh tinh khác có trong Star Wars hoặc Star Trek. Những ngôi sao bằng nhựa được dán quanh phòng – à không, là khắp mọi nơi. Thậm chí ngay cả trên khung ảnh gia đình thầy cũng dán loại sao nhựa bé xíu xíu.
“Thầy là Ollenburg, nhưng em có thể gọi thầy là thầy Jeff,” thầy ấy nói, hai tay đan vào nhau.
“Em là Danielle Cavanaugh,” tôi đáp. Thầy ra hiệu mời tôi ngồi xuống.
“Xem nào… quyết định đăng kí nhập học vào phút cuối đây hả, Danielle?” Thầy ấy hỏi.
“Dạ vâng, em mất hơi nhiều thời gian trong việc cân nhắc ạ,” tôi nói. Tôi không muốn và cũng thấy không cần phải đào quá sâu vào lý do ẩn đằng sau việc này, tôi chỉ cần đăng ký được thôi.
“Thôi được rồi. Em có mang theo bảng điểm không?” Thầy nhận bộ giấy tờ từ tay tôi, xem một lượt các điểm số. Thầy đặt chúng xuống rồi bắt đầu nhập các thông tin vào trong máy, cũng giống như cô giáo vụ đã làm lúc ở ngoài kia. “Em có hứng thú đặc biệt với lĩnh vực nào không?”
“Em muốn theo học chuyên ngành truyền thông,” tôi đáp. Thầy gật đầu rồi nhập thêm thông tin. “Nhưng em cũng cần phải học lại lớp Văn học Anh nâng cao từ lúc học trung học. Thêm nữa là em cũng muốn hoàn thành một số môn toán khi theo học ở đây.”
Thầy ấy xem xét bảng điểm một lúc trước khi nhìn lại tôi.
“Anh văn nâng cao ư? Bên trường mình không có môn ấy, nhưng có một môn khác tương tự và cũng có cùng số tín chỉ, đó là môn Lý thuyết Văn học. Trong kì này môn học sẽ đi sâu vào nghiên cứu về nền văn học nước Mỹ. Có rất nhiều em tân sinh viên cũng theo học lớp này,” thầy nói. “Em có định chuyển tín chỉ không?”
“Dạ có ạ. Em muốn tích lũy để sau này đăng ký vào trường Ohio.” Tôi đáp.
“Chà, tuyệt vời đấy!” Thầy nói. “Thầy rất thích các em sinh viên có kế hoạch rõ ràng.”
Giá mà thầy ấy biết rằng cái kế hoạch mà thầy đề cao này mới chỉ được tạo nên cách đây chưa đầy hai mươi tư giờ đồng hồ. Thầy Ollenburg lục tìm trong ngăn tủ hồ sơ và rút ra một mẫu đơn, điền vào trong đó những thông tin như thầy vừa nhập vào máy tính. Trong lúc đợi, tôi lại nhìn chăm chú vào hệ mặt trời trên trần nhà, và phải thú thực là trông chúng vô cùng ấn tượng.
“Em cũng thích thiên văn học à?” Thầy ấy hỏi. Tôi rời mắt khỏi trần nhà.
“Cung hoàng đạo và chiêm tinh học thì có được tính vào đó không thưa thầy?” Tôi hỏi lại.
“Thầy nghĩ là có. Không gian và vũ trụ luôn đặc biệt hấp dẫn đối với thầy. Chúng tồn tại hàng tỉ năm trước chúng ta và sẽ tiếp tục hàng tỉ năm sau nữa. Chúng khiến ta cảm thấy mình thật nhỏ bé và tầm thường,” thầy nói. “Và chính chúng cũng khiến ta muốn ghi lại dấu ấn riêng của mình và lưu truyền nó trường tồn mãi với thời gian, em có thấy thế không?”
Tôi gật đầu. Bởi tôi thấy như thế. Đây chẳng phải là điều mà ai cũng mong muốn hay sao? Sống ở đời ai mà chẳng mong có được người đời vẫn nhớ đến. Để tin rằng vũ trụ bao la, Chúa trời hay bất cứ thế lực siêu nhiên nào đó luôn định sẵn cho riêng ta một kế hoạch? Lúc còn bé, tôi đã luôn thích viết truyện tranh. Tôi và Noah cùng ngồi ở phòng khách, tôi viết nội dung, còn thằng bé vẽ minh họa. Tôi từng nghĩ rằng tập truyện ấy sẽ là mục tiêu của cuộc đời, nhưng càng lớn, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn. Nói đơn thuần nhất là vì những cuốn sách của chúng tôi quá nhảm nhí. Giờ thì Noah đã nghỉ phi vụ ấy và đang dần trở thành diễn viên. Claire đang sống với giấc mơ của chị ấy là trở thành phóng viên cho tờ tạp chí Ánh sáng Tuổi teen - họ đều đang để lại dấu ấn của riêng mình. Tôi phải làm sao mới để lại cho mình một dấu ấn riêng nếu tôi cứ sống ở Denton, Ohio trong suốt phần đời còn lại chứ?
“Danielle, thầy vừa mới đăng ký cho em hai môn Khoa học máy tính, môn Giải tích và môn Lý thuyết Văn học. Em có hứng thú với điều gì khác nữa không?”
“Dạ, một công việc ạ,” tôi buột miệng nói. “Thầy có thể giúp em tìm một công việc gì đấy mà vừa học vừa làm được không ạ?”
Thầy Ollenburg gật đầu và lại lách cách bấm máy tính lần nữa. “Các bạn sinh viên khác phần lớn đều đã xin ứng tuyển các công việc trong khuôn viên trường cách đây hàng tháng trời rồi, nhưng để thầy xem có còn công việc nào không.”
Vào lúc này tôi có thể làm mọi việc, kể cả phục vụ bữa trưa hay nhân viên vệ sinh cũng đều được hết. Tôi cần một lí do chính đáng để rời khỏi nhà... và tất nhiên cũng là để đỡ đần chi phí cho ba mẹ. Thầy ấy nhướn mày, một nụ cười nhỏ khẽ lướt qua trên gương mặt thầy.
“May cho em này, hiệu sách Denton còn trống một vị trí. Chắc là cô cậu nào đó vừa bỏ việc tuần này - những vị trí này nhanh có người thay lắm đấy,” thầy nói. Thầy nguệch ngoạc vài nét chữ lên một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. “Một là em hãy đến trực tiếp hoặc, hai là gọi điện hỏi xem mình ứng tuyển vào vị trí đó có được không. Họ đang cần người lắm, nhất là thời gian này các cô cậu sinh viên bắt đầu rục rịch mượn sách để chuẩn bị cho kì học mới vào tuần tới.”
Tôi túm lấy mảnh giấy có ghi số điện thoại của hiệu sách và cảm ơn thầy Ollenburg vì mọi sự trợ giúp mà thầy dành cho tôi. Thầy ấy cũng viết cho tôi các thông tin trực tuyến cá nhân trên danh nghĩa là sinh viên trường DCC để tôi có thể in lịch học và nộp học phí. Hiệu sách ở ngay bên đường gần khu tòa nhà đào tạo, nên tôi quyết định đi bộ qua đó để tránh phải mất công khởi động chiếc xe phế thải của mình tận hai lần mới về được nhà. Hiệu sách Denton nằm trong một dải trung tâm thương mại nhỏ vẫn lưu giữ được những nét kiến trúc gốc của tòa nhà và không hề bị tu sửa lại bên trong. Bước chân vào hiệu sách, có cảm giác giống hệt như bước vào một gian hàng cổ nào đó với mùi bụi bặm đặc trưng và những đốm ẩm mốc lốm đốm trên trần nhà. Một chiếc chuông nhỏ khẽ rung khi tôi bước chân vào trong hiệu sách, lúc này tương đối trống, phía sau là một người phụ nữ đang sắp xếp lại các giá sách. Cô ấy bước xuống khỏi chiếc thang đang ngồi và tiến về phía cửa trước lúc biết tôi vào.
“Chào em!” Cô nói. Mái tóc buộc đuôi ngựa của cô ấy đẫm mồ hôi, và tôi khá cảm thông với điều ấy - đến tôi mới vào còn bị đổ mồ hôi do trong này thiếu điều hòa. Một chiếc quạt trần không mấy chắc chắn rọi thẳng xuống bàn tiếp tân, và dĩ nhiên là nó chẳng có mấy tác dụng. Tháng Tám ở Ohio lúc nào cũng khó chịu. “Em cần gì nào?”
“Thầy cố vấn nói rằng ở đây đang cần tuyển người ạ?”
“Ồ đúng rồi,” cô ấy nói, vòng ra bên ngoài quầy lễ tân. “Qua đây rồi nói. Cô đang cần để lại những cuốn sách này về vị trí.”
Tôi theo cô ấy ra phía sau các giá sách khi cô ấy điền vào các danh sách kiểm kê và đặt lại sách lên giá. Thỉnh thoảng tôi lấy sách trong các thùng các-tông giúp cô ấy trong lúc nói chuyện.
“Tiện thể giới thiệu luôn, tên cô là Misty,” cô ấy ngoái đầu qua vai nói với tôi.
“Em là Danielle Cavanaugh,” tôi đáp lại. Hôm nay tôi đã nói câu này nhiều đến mức mà tôi nghĩ rằng lẽ ra mình nên đeo một cái bảng tên.
“Em là tân sinh viên đấy hả?” Cô Misty hỏi. Tôi đáp lại bằng thứ giọng đậm chất tuổi teen, “Ừm...hmm!”
Cô ấy bảo tôi đưa thêm sách, và tôi nhanh chóng làm theo yêu cầu. “Cô sẽ nói thẳng với em, Danielle ạ. Mọi người đang rất cần giúp đỡ, và cô thì không giỏi mấy chuyện phỏng vấn đâu. Em có thể đến đây vào trưa mai, cô sẽ hướng dẫn công việc cho em. Phần lớn là em sẽ chỉ thực hiện công việc kiểm kê để cái lưng già yếu của cô không la lối như lúc cô làm một mình thôi.”
“Thật thế ạ?” Tôi cười. “Em cảm ơn cô nhiều ạ!”
“Không có gì đâu,” cô đáp lại. Chuông lại kêu và cô Misty lại leo từ thang xuống. Cô tiến thẳng ra phía trước cửa hàng trong khi tôi liếc quanh những hộp sách được xếp thành từng chồng.
“Tốt quá, em đến rồi,” cô Misty nói với người vừa mới bước vào, rồi họ cùng quay lại chỗ tôi.
Trước mặt tôi là một anh chàng trạc tuổi, cũng có thể là lớn tuổi hơn tôi một chút, đang mặc chiếc áo phông có in hình một nhóm nhạc nào đó mà tôi không nhận ra, đang đứng bên cạnh cô Misty. Anh có mái tóc xoăn bồng bềnh và hàng mi dài khiến đứa con gái như tôi phải ghen tị. Chúng tôi đều nhìn nhau khắp một lượt. “Porter, đây là Danielle. Con bé sẽ thay vị trí của Freddie, cậu nhóc vừa bỏ việc hôm qua ấy.”
“Chào. Porter Kohl,” anh ấy mở lời đồng thời chìa tay ra. Tôi đưa tay ra bắt và chờ một trong hai người ấy nói thêm điều gì đó.
“Cô sẽ dạy Danielle cách kiểm kê ngày mai, vì thế em sẽ đứng ở quầy đăng ký nhé,” cô Misty nói.
“Cũng được ạ,” cậu ta đáp. Cách cậu ấy trả lời kèm theo vẻ đùa cợt châm biếm khiến tôi khá ấn tượng. Thật ra thì nghe nó còn khá chân thành nữa, chỉ có các ông hoàng bà hậu xứ khuyển nho mới có thể hiểu được điều ấy. Chuông cửa lại reo lần nữa, và cô Misty bỏ lại hai đứa chúng tôi.
Porter và tôi đứng nhìn nhau chằm chằm. “Vậy anh sống ở gần đây à?” Tôi hỏi. Trông hắn có nét gì đấy vừa lạ mà vừa quen, tôi không rõ là đã từng gặp ở đâu rồi nữa.
“Tôi ở Valley View,” hắn ta đáp. Trời, từ Valley View đến đây cũng phải mất cỡ ba mươi phút. Chắc cảm giác quen quen mà tôi vừa thấy xuất phát từ sự kiện nào đó rồi, ví như lần tôi bị đám bạn kéo đi dự một sự kiện thể thao chỉ vì chúng nó nghĩ rằng tôi cũng thích xem cảnh đám bạn học cướp bóng nhau chẳng hạn. Nhìn lòng bàn tay Porter xoa vào quần, tôi thầm mong sao cô Misty sớm quay lại đây và giải thoát chúng tôi khỏi sự kì cục này.
“Hay đấy,” tôi đáp, nhanh chóng nhận ra hai chữ này là thứ kém hay ho nhất và tôi hối hận khi nói ra điều ấy. Vốn tôi chỉ muốn tỏ rõ cho anh bạn đồng nghiệp này thấy là tôi không hề kì cục trong khoản tương tác xã hội, nhưng trả lời kiểu này thì có khác nào chứng minh điều ngược lại đâu cơ chứ.
“Em cũng là sinh viên trong trường hả?” Anh ấy hỏi.
“Đúng thế!” Tôi đáp. “Đúng hơn là tôi mới là sinh viên trường này từ hai mươi phút trước.”
“Hay đấy,” hắn đáp lời, miệng còn nhếch mép cười khi nhại lại cách dùng từ của tôi.
“Ờm, được rồi, tôi đi đây,” tôi đáp, tay vớ lấy ba lô đặt dưới chân kệ sách. “Rất vui khi được quen với anh, và tôi tin là mình sẽ gặp lại nhau ở đâu đó.”
Nói tôi bán sống bán chết rút lui khỏi đó cũng chẳng phải quá lời. Tôi thấy cánh cửa ngay trước mắt mình như đang vẫy tay mời gọi tôi đến với sự tự do cùng chiếc xe phế thải, nhưng tay tôi vừa mới chạm đến nắm tay cầm ở cửa thì đã bị Porter gọi với lại.
“Đợi đã, Danielle!” Tôi quay lại với khuôn mặt đỏ bừng, hắn đi về phía tôi, trên tay cầm theo bảng điểm của tôi. “Em quên giấy tờ này.”
Tôi giật lại bảng điểm với điểm F to đùng ngay giữa trang giấy, mặt mũi lại càng đỏ tía vì ngượng. “Cảm ơn anh.”
“Không có gì thưa Freddie phiên bản 2.0,” hắn nói rồi đút tay vào túi quần. “Hẹn gặp em ngày mai.”