C
ó những cuốn sách cũ mà số tuổi của chúng còn nhiều hơn cả tuổi ba mẹ tôi, chúng toát ra thứ mùi giống như soda hoà quện với thuốc lá đã hàng chục năm trời. Trên nhiều cuốn sách còn xuất hiện hàng tá những cái tên độc nhất vô nhị mà người mượn sách trước đây ghi lại, nào là “Milk Hawk” (Chim ưng Sữa) hay “Ben Dover8”. Nhìn những cái tên kì cục ấy tôi không biết là nên bật cười vì sự ngây ngô, thiếu chín chắn của đám bạn đồng trang lứa này hay là nên cảm thấy hổ thẹn thay họ nữa. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng không nhịn được cười trước những phát hiện ấy.
8 Là một lối chơi chữ, nói lái như tiếng Việt, tên gọi Ben Dover được gọi lái từ cụm “bend over” (sẵn sàng làm tình).
Hóa ra là công việc kiểm kê cũng rất thú vị, hay ít nhất là cũng như tôi đã hình dung. Cô Misty lôi ra các bộ ghi chép mượn sách và giấy tờ về sách của năm ngoái mới được nhập kho, khiến tôi không kịp cảm thấy nhàm chán hay đơn điệu gì cả. Cho dù có tẻ nhạt đi chăng nữa thì tôi cũng thấy hài lòng, bởi nếu không thì biết đâu tôi lại đang loay hoay phục vụ suất ăn cho đám bạn học hoặc cọ rửa nhà vệ sinh của họ rồi cũng nên.
“Đã đổ mồ hôi chưa Danielle?” Cô Misty hỏi. Cô ấy bước ra từ phòng nghỉ phía sau, trên tay xách theo hai chai nước. Tôi vui mừng đón lấy chai nước, ực liền một hơi hết nửa chai. Lúc bắt đầu công việc tóc tôi còn buông xoã, nhưng chỉ năm phút sau tôi đã phải cột cao thành tóc đuôi ngựa. Tôi cảm nhận rõ độ ẩm trên cơ thể đang tăng lên, chuẩn bị hô biến bộ tóc xù của tôi thành một cục bông khổng lồ. Thật may là quy định ở chỗ làm có chấp nhận việc mặc quần jean và áo phông. Đây là lối ăn mặc tuyệt vời để giấu nhẹm đi những vệt mồ hôi, nhất là khi diện các bộ tối màu. Và ngay cả khi tình hình tệ hơn nữa thì tôi cũng đã thủ sẵn lăn khử mùi và lọ xịt cơ thể trong cặp rồi.
“Cháu hỏi thật chứ điều hòa ở đây có vấn đề gì vậy ạ?” Tôi hỏi.
“Bên sửa chữa đã hứa là họ sẽ sửa điều hoà trước ngày chúng ta mở cửa,” cô Misty đáp. “Ta đang tính lên mạng học cách làm mấy kiểu điều hoà tự chế xem sao.”
“Thế thì cô nhớ bảo cháu nếu cần thêm sự giúp đỡ, cô nhé,” tôi nói, nhấp một ngụm nước nữa.
“Ôi bé yêu, làm việc với cháu được hai ngày nhưng ta đã chứng kiến đủ sự vụng về của cháu rồi. Mấy việc thủ công có lẽ không phải là tài năng mà Chúa ban cho cháu đâu. Có lẽ cháu thích hợp làm hoa tiêu hơn, đọc các bước hướng dẫn để ta thực hiện,” cô Misty nói.
Cô Misty liếc nhìn một cuốn sách mà tôi đang để mở trên cái ghế đẩu phía sau. Khi nãy tôi vừa gửi cho Zoe và Noah ảnh chụp cuốn sách ấy, trên đó có ghi “I. P. Freely9” và “Dixie Normous10”. Cô Misty cười.
9 Một kiểu chơi chữ, khi đọc lên sẽ đồng âm với cụm I pee freely (Tôi tè bậy).
10 Một kiểu chơi chữ, đồng âm với cụm D-cks enormous (Của quý rất bự).
“Có vẻ như cháu vừa tìm được kho báu trong đống ngổn ngang này đấy nhỉ,” cô ấy nói.
“Đúng rồi cô ạ, ai mà ngờ được là đám sinh viên lại nghĩ ra được những cái tên như thế cơ chứ,” tôi nói.
“Có trời mới biết.” Cô Misty cười. Rồi hai cô cháu quay trở lại công việc của mình trong sự yên lặng. Bầu không khí đó không hề có chút kì cục, tôi và cô Misty còn là một đội ăn ý với nhau nữa. Tôi chịu trách nhiệm đưa sách cho cô Misty và gạch tên chúng khỏi danh sách kiểm kê, còn cô sẽ xếp những cuốn đó lên giá. Đang làm thì bút hết mực, tôi quay trở ra phía quầy hàng trước cửa để lấy cái mới. Đúng là chỉ ở đây mới có những “cuốn sách thực sự” mà mọi người chú ý muốn mua chứ chẳng phải như đống sách phía trong chỗ tôi. Tôi liếc nhìn quyển sách mà một chị đang đọc, bên ngoài bìa lại là hình Fabio, tôi bèn cầm một cuốn tương tự lên xem. Lần này tôi thấy ảnh một con tàu hỏng ở phía xa xa, còn Fabio và chị nữ chính đang đứng trên bờ biển đầy cát với ngọn lửa rực cháy. Tên cuốn sách là Tình yêu bỏ lại (Love Castaway). Tôi rùng mình. Trông nó thật kinh khủng.
Bên cạnh những “cuốn sách thực sự” là hàng tá những tập vở ghi chép, giấy nhớ và một số phần mềm máy tính cùng nhiều đồ dùng linh tinh khác. Ngày mai giống như ngày Black Friday của cửa hàng chuyên sách giáo khoa và đồ dùng học tập này vậy, mọi đầu sách đều được giảm giá hai mươi lăm phần trăm để đón chào kì học mới sẽ bắt đầu vào tuần tới. Cô Misty nói rằng ngày mai sẽ có khoảng năm nhân viên và sẽ luân phiên như thế trong suốt tuần lễ khuyến mại này. Bởi vì tôi là người mới, nên phần lớn công việc của tôi là đi thu lại sách hoặc làm công việc kiểm kê - nhiệm vụ mà tôi ưa thích.
Tay cầm bút, tôi quay trở lại chỗ cô Misty. Cô ấy nhìn đồng hồ rồi lại quay sang nhìn tôi. “Giờ cô phải đến lớp học bơi đón con gái,” cô nói. “Lẽ ra Porter sẽ phụ trách quầy đăng ký, nhưng tình hình này thì thằng bé đến muộn rồi. Cháu sẵn sàng nhận đào tạo cấp tốc chứ, Danielle?”
Tôi gật đầu và theo cô ấy đến phía trước cửa hàng. Gọi là quầy thu ngân - đăng ký nhưng chỗ này lại khá cũ kĩ, đơn sơ, mọi thứ chẳng có gì ngoài một chiếc chìa khoá mà cô Misty dặn tôi “phải bảo vệ bằng cả tính mạng.” Sau khi viết cho tôi một vài mẩu hướng dẫn trong cuốn tập ghi chép trên giá đồ, cô Misty cảm ơn tôi và nhanh chóng rời đi.
Tôi dựng đứng người khi chuông cửa reo và Porter bước vào. Hắn ta bước thong dong, bỏ cặp sách ở phòng phía sau, rồi đi qua quầy thu ngân - đăng kí nơi tôi đang đứng. Hắn làm thái độ phớt lờ không thèm đếm xỉa hay gật đầu chào tôi khiến tôi rất khó chịu. Tuy nhiên tôi im lặng không nói gì, bởi tôi muốn chứng minh cho hắn ta thấy rằng mình không phải đứa chấp vặt và hẹp hòi. Tôi túm ngẫu nhiên một cuốn sách trên giá và đi đến phía trước căn phòng nơi Porter đang viết nguệch ngoạc vào cuốn sổ ghi chép mà trong đó có chứa những hướng dẫn đăng kí và thông tin thu ngân. Tôi cố tỏ vẻ bình thường nhất để thu hút sự chú ý của hắn, nhưng hắn lại chỉ chăm chăm nhìn vào cuốn sổ ghi chép. Trông tôi chẳng khác nào một chiếc xe đồ chơi hỏng đang chạy lăng xăng quanh gian trước của hiệu sách, nhưng buồn một nỗi là dù tôi đã khéo léo tìm đủ mọi cách, anh ta cũng đều không thèm ngước mắt lên nhìn.
“Ừm… cô Misty bảo tôi phụ trách việc này một lúc, vì thế nên trên cuốn sổ mới có mấy dòng hướng dẫn đó,” tôi nói. Cậu ta ngước lên từ trang sách và gật đầu trước khi lại bắt đầu viết vào trong cuốn sổ ghi chép.
Tôi thở ra như kiểu một quả bóng bị xì hơi. Tôi đặt quyển sách lại kệ nhưng lại đặt nhầm sang kệ khác, và bước qua phía quầy hàng.
“Anh đang viết gì thế?” Tôi hỏi.
Giờ thì hắn bắt đầu mỉm cười. “Những quan sát.”
“Như kiểu quan sát về cửa hàng á?”
Tôi hỏi. Hắn gật đầu. “Cũng đại loại là như thế.”
“Thế thì hãy chắc chắn là anh có ghi về cuốn sách với trang bìa có hình Fabio gớm guốc đằng kia. Ai lại đi mua thứ tào lao đấy chứ?” Tôi hỏi.
Porter lại viết thêm gì đó, tôi liếc vào tập vở.
“Có phải anh vừa viết là tôi rất ồn ào không?” Tôi hỏi.
“Chỉ có kẻ ồn ào mới đang nhìn lén thôi,” hắn nói, khóe miệng lại nhếch lên cái nụ cười đầy giễu cợt và châm biếm.
Tôi khoanh tay trước ngực. “Hừm, tôi quay về với công việc kiểm kê đây. Chúc anh vui vẻ với những gì viết trong cuốn sổ phán xét đấy.”
“Chắc chắn là thế rồi,” lại một lời đáp chọc tức nữa. Tôi quắc mắt lần nữa và quay trở lại khu sách giáo khoa lần thứ một ngàn. Suýt chút nữa thì tôi quay lại chỗ hắn với khoảng hai mươi lời chỉ trích thậm tệ, nhưng rồi lại thôi, và tiếp tục quay lại vị trí của mình.
***
Cuối cùng thì ngày Black Friday với sức tàn phá ghê gớm cũng đến. Trong những dịp này, hiệu sách giống như “nguồn tiếp tế” cho đám đông khổng lồ những kẻ đói sách. Cô Misty cứ liên tục đi đi lại lại khắp cửa hàng, mang cho chúng tôi hàng tá những thứ linh tinh từ phòng nghỉ phía sau mà cô ấy nghĩ là cần thiết. Lần này cô ấy quay lại với năm thanh kẹo và chia cho tôi cùng bốn bạn nhân viên khác.
“Cháu sẽ cần đến thứ này đấy. Hãy để dành đến giờ giải lao,” cô nói.
Tôi gật đầu, đút thanh kẹo vào túi quần sau. Cũng vì thế mà tôi phải chú ý cẩn thận hơn nhiều để tránh làm nát nó, vì sẽ chẳng tốt đẹp gì nếu trên quần bỗng nhiên dính vệt kẹo nâu nâu cả. Còn có một cô bạn khác tên là Megan mà tôi chưa từng gặp trước đó, hôm nay cùng làm công việc như tôi, phía trước quầy có Porter, ngoài ra còn có hai gã con trai khác tên là Jason và Chris phụ trách việc lưu thông và tìm sách. Khá ngạc nhiên là mọi thứ diễn ra như kiểu đã có tổng duyệt kĩ lưỡng từ trước, trong khi cô Misty thường ngày không phải thuộc tuýp người giỏi tổ chức cho lắm.
Trong giờ mở cửa đầu tiên, mọi thứ vẫn như những gì tôi dự liệu. Điều hòa vẫn chưa hoạt động được, ngay cả khi ngày nào cô Misty cũng hối thúc bên sửa chữa, còn tôi thì vẫn luôn chân luôn tay, chạy từ gian phòng phía sau để lấy sách kê thêm lên giá hoặc giúp mọi người tìm sách. Thế mà các vị khách hàng “thượng đế”, dù chỉ đứng chọn sách, cũng không ngừng ca thán về nhiệt độ, khiến tôi chỉ muốn phang ngay vào đầu họ những cuốn sách quý giá họ đang cầm mà thôi. Đám nhân viên chúng tôi gần như không nói với nhau lời nào - chúng tôi đều có những nhiệm vụ riêng đã được giao phó, và chẳng ai muốn bị quấy rầy cả. Đôi khi tôi liếc nhìn ra phía quầy thủ tục của Porter và thấy anh ta đang cười - là cười thực sự ấy - với những khách hàng khi họ rời đi. Thật nực cười làm sao, hắn ta có thể cư xử lịch lãm và tử tế với mọi người, trừ tôi.
Đã gần đến trưa, bụng tôi réo ầm vì đói. Thanh kẹo bị tan chảy mà cô Misty cho tôi đã ngốn cách đây một tiếng rưỡi trước rồi. Thật mừng khi cô Misty quay lại chỗ tôi và Megan và bảo tôi nghỉ ăn trưa khoảng ba mươi phút. Tôi rối rít cảm ơn cô ấy và chạy vụt ra phía căn phòng phía sau. Tôi vồ lấy cái túi màu nâu nhàu nhĩ viết nguệch ngoạc tên tôi trên đó và ngồi xuống một chiếc bàn cũ kĩ ở góc phòng trữ đồ. Chưa bao giờ tôi thấy món súp hâm trong lò vi sóng lại ngon như lúc này. Trong lúc lò vi sóng đang hâm lại món pho mát trộn với bông cải xanh, tôi nghe thấy tiếng ai đó bước vào.
Porter lấy ra một chai nước rồi ngồi yên bên bàn. Tôi cũng ngồi xuống cùng với món súp của mình, và chúng tôi cứ ngồi im lặng như thế một lúc.
“Ở phía ngoài ấy công việc thế nào?” Tôi hỏi, không thể ngăn mình lại. Lần nào cũng thế, cứ xuất hiện sự im lặng kì cục lúc có người bên cạnh là tôi phải phá vỡ bầu không khí ấy bằng mọi giá.
“Cảm ơn, cũng ổn,” anh ấy nói, uống thêm một ngụm nước nữa.
“Thế thì tốt rồi.” Tôi gật đầu. Không hiểu là gã này không biết cách nói chuyện hay là hắn ghét mình một cách vô cớ nữa?
“Vậy anh đã viết thêm gì vào cuốn sổ đó chưa?” Tôi lại hỏi.
“Ý em là viết thêm gì về em chưa đấy à?” Hắn hỏi, lại phô ra cái điệu cười hơi nhếch mép chế nhạo nữa.
Tôi đỏ mặt. “Không, về mọi thứ ấy. Ý tôi là, hôm nay có nhiều người đến cửa hàng như vậy thì đâu có thiếu thứ để quan sát.”
“Chắc là chỉ có vài thứ thôi,” hắn nói. Hắn uống nốt chỗ nước còn lại rồi đứng dậy. “Tôi quay lại ngoài kia đây.”
“Quả là thanh niên dũng cảm, không cần cả ăn trưa,” tôi nói.
Anh ấy nặn ra một nụ cười mỉm trước khi rời đi, còn tôi vẫn ngồi lại tận hưởng món súp bông cải xanh nhiều pho mát ngon chưa từng thấy của mình.
Đến khoảng ba giờ chiều thì công việc bắt đầu thư thả hơn, cô Misty quay lại chỗ tôi và Megan đang kê thêm sách lên quầy và vỗ tay.
“Được rồi, Megan, em có thể về nhà rồi,” cô ấy nói.
Megan thở phào nhẹ nhõm, còn tôi thì đau đáu chờ cô Misty nói với tôi điều tương tự. Nhưng thật xúi quẩy cho tôi, cô Misty có một ý khác.
“Danielle, em không ngại ở lại đóng cửa hàng đúng không?”
Tôi nghiến răng. “Dạ đương nhiên là không ngại ạ.”
“Tốt! Porter vẫn đang xử lí đơn đăng kí, và ta đã bảo thằng bé là cháu vẫn đang xếp sách lên giá ở phía sau đây,” cô ấy nói. Tôi gật đầu và nhìn cô ấy rời đi mà muốn khóc cả dòng sông. Tôi đã bảo với Zoe là tối nay xong việc hai đứa sẽ tới tiệm Moe, nhưng tình hình này chắc sẽ phải muộn hơn so với lịch hẹn rồi. Gần đây Zoe rất bận rộn trong công việc và giúp mẹ làm hòa với cô em gái, mãi đến tối nay mới có cơ hội để hội chị em được hàn huyên.
Tôi cố giấu cảm giác ngao ngán khi nhìn vị khách cuối cùng dành thời gian quý báu của anh ta tìm đúng được cuốn sách và vẫy tay chào khi anh ấy rời đi. Tôi thở dài khi nhìn vào Porter, nhưng anh ta lại đang chăm chú với cuốn sổ. Tôi mừng thầm trong bụng, nhanh chóng lật tấm biển ngoài cửa thành “Đóng cửa”. Tôi vừa mới định bước đi, thì có ánh đèn xe rọi vào qua cửa trước, một chiếc xe mới đang tiến vào khu đỗ xe.
“Trời, đừng có đùa với chị đây chứ,” tôi nén giận, mở cửa. “Xin lỗi quý khách, nhưng chúng tôi đến giờ đóng cửa rồi.”
Không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà đứng trước mặt tôi lúc ấy là Luke Upton trong diện mạo sáng chói ngời ngời, trên tay còn cầm một hộp pizza lớn, nhìn tôi chằm chằm từ lối đi bộ, anh khẽ cười.
“Thì ra là em làm ở đây,” anh ấy nói. “Porter đã gọi pizza à?” Tôi hỏi.
Điều này khiến anh ấy phá ra cười. “Em có thể nghĩ như thế. Porter là bạn cùng phòng với anh. Hắn vừa phàn nàn với anh là hắn đói sắp chết rồi và phải chờ để khóa cửa, thế nên là anh đành sắm vai anh bạn cùng phòng tốt bụng mang đồ ăn đến cho hắn.”
Tôi tròn mắt. “Bạn cùng phòng ư?”
Porter mở cửa, và cả hai đứa chúng tôi đều dựng đứng khi chuông cửa reo. “Tôi thấy có vẻ như hai người đã biết nhau trước rồi. Danielle, đây là Luke. Luke, đây là Danielle.”
“Dani Cavanaugh ư?” Anh ấy hỏi. Cuối cùng Luke cũng gọi tên tôi, và giây phút ấy tôi cảm nhận được cơn lạnh toát khẽ chạy dọc sống lưng mình. Anh ấy nhìn tôi như thể vừa tìm được con gấu bông mà mình đánh mất, còn tôi thì không thể làm gì khác ngoài việc đứng cười. Chúng tôi đều có nhiều câu hỏi đến mức không ai nhận ra rằng sự im lặng đó đã kéo dài đến mức nào.
“Này này, có ai ở đây không? Tôi đang chờ một câu trả lời đấy,” Porter nói.
“Sao cơ?” Lúc này tôi mới giật mình mà đáp lại.
“Tôi hỏi là hai người có biết nhau không,” Porter nói, quay sang nhìn Luke.
“Có,” Luke nói. “Lúc mình còn sống ở đây, hai đứa từng là hàng xóm.”
Ngay cả lúc Luke trả lời câu hỏi của Porter, mắt chúng tôi cũng không hề rời nhau, giống như kiểu anh ấy đang cố gắng lý giải xem tại sao mình lại chưa từng nhận ra tôi trước đó. Phải công nhận là bức ảnh chụp lúc tôi còn học lớp sáu có lẽ sẽ dọa ma được đám trẻ con, nhưng tôi không nghĩ là mình thay đổi nhiều lắm từ lần cuối cùng hai đứa gặp nhau đâu. Có lẽ là vì tôi không phải là đứa để lại nhiều ấn tượng cho anh ấy.
Tôi hơi xị mặt, và Porter ho khẽ - có lẽ là do tác dụng phụ của bầu không khí có phần kì cục và không thoải mái đang lan tỏa giữa chúng tôi.
Porter nhìn xuống đồng hồ đeo tay của mình rồi quay sang nhìn tôi. “Thật ra tôi còn có việc phải đi. Luke, cảm ơn cậu vì đã mang pizza tới đây, nhưng mình có hẹn với Emilie ở tiệm Moe lúc mười giờ rồi.”
“Ồ,” Luke nói. “Không sao đâu anh bạn ạ.”
“Đừng bỏ phí chiếc pizza,” Porter nói. “Hay là hai người mở bữa tiệc nhỏ mừng ngày hàng xóm đoàn tụ đi? Sẽ thú vị lắm đấy.”
“Được, được,” Luke nói, khẽ vỗ vào cánh tay Porter. “Bảo Emilie là mình hỏi thăm nhé.”
“Chắc chắn rồi,” Porter nói, gật đầu chào tôi. “Nếu em không đi lại nhiều thì những bóng đèn cảm biến chuyển động trong tiệm sẽ tắt đấy. Chìa khóa thì ở phía sau. Lúc nào kết thúc thì đóng cửa nhé.”
“Ừ...” Tôi đáp.
“Hai người tự nhiên nhé,” Porter nói, lông mày ngọ nguậy.
“Tạm biệt, anh bạn,” Luke nói, đẩy gã bạn Porter đang cười cợt ra mép lối đi bộ. Hai người chúng tôi nhìn theo chiếc xe Jeep của Porter lao đi bằng tốc độ đáng sợ rồi mất hút ở góc đường. Khi đã thấy anh ta an toàn nhập vào đường, Luke quay lại với tôi. Anh ấy lắc đầu rồi cười thầm, không rõ là vì Porter hay là vì cái tình huống mà chính mình vừa mới rơi vào. Mà có lẽ là cả hai. Mấy ngón tay của Luke cứ liên tục gõ gõ lên chiếc hộp pizza một lúc trước khi anh quyết định phá vỡ sự im lặng.
“Em có thích xúc xích không?” Anh ấy hỏi.
Tôi cười khúc khích. “Ý anh là phần topping11 của pizza? Có ạ.”
11 Phần nhân trên mặt bánh pizza.
“Ôi trời.” Anh cười. “Bình thường anh không mấy khi nhắc đến mấy thứ bóng gió về tình dục trong lần hẹn đầu tiên đâu.”
“Hẹn hò ư?” Tôi hỏi.
Trước mắt tôi là anh chàng Luke đỏ mặt vì ngượng nhưng thừa sức quyến rũ, và anh đang chìa tay ra phía tôi. “Anh nghĩ là một buổi hẹn hò sẽ bù đắp lại cho việc anh cư xử như một thằng tồi ở bữa tiệc hôm đó. Anh không quên em, và lẽ ra anh nên nhận ra em ngay lúc đó mới phải.”
“Và để đáp lại thì em nên nắm tay anh à?” Tôi cười.
“Đúng thế,” anh đáp, nắm lấy tay tôi. “Anh sẽ dẫn em tới buổi hẹn. Địa điểm là ở đâu nhỉ?”
“À ra là thế,” tôi cười. “Có vẻ như nãy giờ em chưa làm đúng cung cách hẹn hò rồi..”
Anh ấy dùng lưng đẩy cánh cửa bật mở rồi mở lối cho tôi vào trước. Lúc tôi bước qua không may vấp vào chân Luke, và trong lúc loạng choạng tôi đã ngã nhào vào hộp pizza. Cứng quá. Tôi hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại và xem xét vết xước quái quỷ đang rỉ máu trên cánh tay mình.
“Ôi không,” anh ấy nói. “Em không sao chứ?”
“Không sao, do em hậu đậu quá thôi ạ,” tôi đáp. “Hình như có đồ sơ cứu ở phòng nghỉ. Em sẽ quay lại ngay.”
Tôi luống cuống tìm tới phòng phía sau, lục tung các giá sách để cố tìm được bộ sơ cứu mà cô Misty đã mô tả trong buổi đào tạo đầu tiên. Khỉ thật, lúc này mới nhìn được kĩ vết xước, nó cắt sâu vào da quá. Nghĩ đến lời cáo phó sẽ được viết là qua đời do ngã vào hộp pizza và tiểu cầu máu không tốt thì đúng là đến chết cũng không hết nhục mặt mà. Mãi tôi mới tìm thấy một vài tờ khăn giấy trên bàn nghỉ để cầm máu tạm thời, nhưng chẳng mấy chốc những tờ khăn giấy đó đều ướt đẫm do máu chảy quá nhiều. Sao tôi lại chảy nhiều máu đến mức này chứ? Có thể chính đám hoóc-môn trong người tôi là thủ phạm khiến máu bơm nhanh bất thường, hoặc là do tôi bị rối loạn tự miễn dịch. Tôi túm lấy một sấp khăn giấy nữa thì điện thoại đổ chuông.
“Ôi Chúa ơi, Zoe,” tôi gào qua điện thoại.
“Bà có biết là mình đang leo cây đợi bà bao nhiêu lâu rồi không?” Con bé giận dỗi.
“Mình rất xin lỗi,” tôi nói. “Mình định nhắn tin cho bà từ sớm rằng mình phải trực đến giờ hiệu sách đóng cửa, và mình đang bị chảy rất nhiều máu, và mình cũng đang trong tình huống kiểu như một cuộc hẹn hò ngay bây giờ nữa...”
“Đợi đã, cái gì cơ? Tại sao bà lại chảy máu? Một buổi hẹn hò ư?” Con bé gần như hét lên qua điện thoại.
“Mình bị thương do ngã vào hộp pizza,” tôi đáp. “Hộp pizza của Luke Upton.”
Lần này thì con bé thực sự la toáng lên. “Cái gì cơ, bà đang hẹn hò với Luke á? Được đấy, bà dám cho bạn thân leo cây mà đi hẹn hò với giai đấy. Ôi đau lòng quá đi!”
“Chuyện mới chỉ xảy ra cách đây mười phút thôi. Làm ơn đừng dỗi mình nhé. Tối mình sẽ gọi lại cho bà sau và kể chi tiết. Aha, đây rồi!” Tôi reo lên khi nhìn thấy bộ đồ sơ cứu. “Zo, mình thực sự phải đi đây. Mình hứa, mình hứa, mình hứa là sẽ gọi lại cho bà.”
“Sao cũng được, mình quá tự hào về bà ấy chứ, không nổi điên được đâu,” con bé thét lên. “Mình thật không thể tin nổi là vụ “bám đuôi” của chúng ta lại được đền đáp như thế!”
“Tạm biệt Zoe.” Tôi cười.
“Nhớ dùng bao cao su đấy!!!” Con bé cố hét lên trước khi tôi dập máy. Tôi tìm thấy cuộn băng cứu thương lớn rồi quấn quanh cánh tay mình, và phải đến lúc ấy tôi mới thấy máu ngừng chảy ra. Tạ ơn Chúa. Tôi đặt hộp sơ cứu về chỗ cũ và liếc nhanh qua tấm gương cạnh cửa trước khi rời đi. Chà, Luke đã chọn được thời điểm hoàn hảo cho cuộc hẹn hò này đấy. Cả ngày nay người tôi ướt đẫm mồ hôi, tóc tai thì bù xù một mớ nhuộm vàng loăn xoăn trên đầu cũng ướt mồ hôi. Đây là màu tóc mới nhất mà Zoe lôi tôi ra làm chuột bạch, và nó khác xa với màu tóc nâu hạt dẻ tự nhiên của tôi, nhưng tôi được trấn an là màu tóc mới này khiến đôi mắt tôi to hơn. Tôi liếm ngón tay và cố gắng vuốt cho mượt lại những sợi tóc loăn xoăn quanh mặt, nhưng vào thời điểm này thì điều ấy cũng chẳng ích gì. Cả ngày dài ướt đẫm mồ hôi đã khiến cho lớp trang điểm trên mặt bay hết từ bao giờ, khiến tôi trông chẳng khác gì gấu trúc Bắc Mỹ cả.
“Xin lỗi anh, em mất nhiều thời gian quá,” tôi nói, đi vòng qua góc cửa. Luke đã bày sẵn pizza trên sàn nhà ngay trước chồng vở viết và kéo thêm hai thùng sách đặt cạnh nhau để làm chỗ ngồi. Bên cạnh hộp pizza còn có một sấp giấy in Luke đã để sẵn, anh còn cười đầy vẻ tự hào khi thấy tôi nhìn vào đó.
“Vì không tìm được đĩa bày nên anh đã mượn tạm vài tờ giấy in để dùng đấy,” anh nói. “Tay em sao rồi?”
Tôi ngồi trên cái thùng đối diện với anh, và ơn Chúa là mình đã cầm cự được vết thương chí tử. “Dạ khá hơn nhiều rồi ạ.”
“Tốt.” Nói rồi Luke mở hộp pizza và lấy cho tôi một miếng, bên dưới còn lót thêm ba mảnh giấy. Tôi thấy rõ lớp dầu mỡ đang thấm qua giấy, nên liền túm thêm ba tờ nữa để chế thành một chiếc đĩa cứng và dày hơn. Ăn pizza lúc này quả là tuyệt hảo, dù cho ngày nào tôi cũng thèm thuồng món hành tây tẩm bột chiên ở tiệm Moe. Từ giờ trở đi, thưởng thức pizza trong hiệu sách có lẽ sẽ là một thú vui ưa thích mới của tôi.
“Vậy là,” tôi nói. “Có một chuyện mà em đã suy nghĩ suốt cả tuần nay rồi, đó là tại sao anh lại quay lại đây. Chẳng phải là có vô số trường gần Cincinnati hơn mà anh có thể theo học hay sao?”
Anh nuốt miếng pizza đang ăn dở rồi nhìn tôi. “Đúng là có nhiều thật, nhưng lạ một cái là trong tất cả các trường đại học cộng đồng ở bang Ohio này chỉ có duy nhất trường ở Denton là có chương trình bóng bầu dục chất lượng tốt. Hơn nữa là anh đã từng bị chấn thương hồi cuối cấp, nên họ cho phép anh đến đây nhờ nguồn học bổng và tập luyện với cả đội. Họ là những người duy nhất vẫn còn muốn nhận những món hàng đã hỏng.”
“Em tin là họ rất may mắn mới có được anh.” Tôi nói. “Cảm giác thế nào khi quay trở lại nơi mình từng sống sau cả quãng thời gian dài như thế?”
“Chắc chắn là không tránh được cảm giác kì cục khi sống ở đây nhưng lại không về lại ngôi nhà của mình,” anh nói. “Anh chỉ ứng tuyển chơi thôi, nhưng hóa ra lại nhận được cơ hội vô cùng tốt đó. Ngoài ra, anh cũng nghe bảo rằng đám con gái ở DCC vô cùng hoang dã lúc trên giường.”
“Thật à? Đó cũng là lí do mà em đăng ký vào đây đấy,” tôi nói.
Anh ấy cười. “Anh không nhớ là trước đây em hài hước đến thế.”
“Đấy là vì mỗi lần có anh ở bên em gần như không thể nói được gì!” Tôi nói. “Anh không biết là anh có ảnh hưởng thế nào đến cô hàng xóm mười một tuổi đâu.”
“Em đang nói là bây giờ anh không còn ảnh hưởng như thế nữa à?”
“Em đã học được cách kiềm chế rồi,” tôi nói, cắn một miếng thật lớn. “Olivia bây giờ thế nào rồi ạ? Em không nghe được tin gì về con bé nhiều năm nay rồi.”
“Con bé sắp bước sang năm cuối trung học, nói thế là em đủ biết mọi thứ sẽ thế nào rồi đấy,” anh nói.
Tôi gật đầu. “Cô ấy vẫn tham gia vào mọi hoạt động mà con người có thể làm được chứ ạ?”
“Lớp trưởng,” anh đáp, lắc đầu. “Ai cũng yêu quý con bé.”
“Đó cũng là những gì em vẫn nhớ. Thật buồn khi chúng em sống với nhau bao nhiêu năm trời và rồi sau đó hoàn toàn mất liên lạc với nhau. Chúa ơi, hồi mười tuổi chúng em còn từng vạch ra kế hoạch tổ chức đám cưới và thề danh dự sẽ là phù dâu của nhau,” tôi nói. Tôi nhớ là hai đứa đã chôn cuốn sách kế hoạch đó phía sau cái Nhà trọ Cóc. Tôi sẽ phải cất giữ nó để sau này không bị phát giác.
“Lúc chuyển khỏi đây thật khó khăn biết mấy,” anh ấy nói, nhìn quanh. “Nhất là với con bé.”
“Nhưng dẫu sao thì ai cũng thích nghi được rồi,” tôi nói, nghĩ lại quãng thời gian khó khăn khi phải làm quen với những người bạn khác. Zoe là người bạn tốt đầu tiên của tôi sau Olivia... và đó là một năm sau khi con bé rời khỏi đây. Tôi giống như bị lơ lửng giữa các nhóm bạn lúc bấy giờ, và điều này thật khó khăn khi bắt đầu vào trung học. Tôi nhớ quãng thời gian có một cô bạn tốt mà mình có thể chia sẻ mọi bí mật với nó và mẹ nó cũng như người mẹ thứ hai của mình. Tôi thậm chí còn tâm sự với mẹ Carrie Upton còn nhiều hơn với mẹ mình nữa.
Chúng tôi nghe thấy một tiếng click nhỏ phía trên đầu rồi đèn trong phòng tắt ngấm. Bố khỉ mấy bóng đèn cảm biến chuyển động! Tôi nhón người dậy và quơ tay xung quanh y như mấy tên người hơi căng phồng đứng phất phơ trước cửa các đại lý xe hơi. Khi đèn sáng lại, Luke bắt đầu cười khúc khích, là cười khúc khích thực sự ấy, vì cái điệu bộ ngớ ngẩn mà tôi vừa làm ra.
“Đây là một vài động tác tốt nhất của em rồi đấy,” tôi nói.
“Nhắc nhở là không bao giờ mời em đi khiêu vũ,” anh ấy nói, nụ cười dịu dần.
“Thôi đi ạ, chuyện ấy không thành vấn đề nhé,” tôi nói. Tôi ngồi xuống và để nỗi ngượng ngùng về khoảnh khắc đó chìm dần. Ở đây rất nóng đúng không? Quả thực là rất nóng.
“Em thì sao?” Anh ấy hỏi. “Tại sao em lại học ở DCC?”
Tôi thở dài. Tôi không chắc là mình muốn thành thật với anh ấy ở mức nào. Nếu nói ra hết sự thật, chắc chắn là anh ấy sẽ nghĩ tôi là đứa thất bại ngay trong cả việc hoạch định tương lai của chính mình. Tôi có thể nói dối và bảo rằng tôi muốn hoàn tất các môn đại cương tại trường công để tiết kiệm chi phí hơn. Hay là tôi muốn ở nhà với ba mẹ đang ngày một già yếu và tận mắt chứng kiến sự nghiệp diễn xuất của em trai mình nở rộ. Nhưng nếu Luke còn nhớ bất cứ điều gì về quá khứ của tôi, rằng chính tôi là người luôn cảm thấy lạc lõng trong gia đình mình và dành hầu hết thời gian rảnh ở nhà cô chú Upton, thì anh ấy sẽ không bao giờ tin điều đó đâu.
“Em vẫn đang cố gắng để xác định xem mình muốn gì,” tôi đáp. “Và em cũng cắt giảm các chi tiêu cho cuộc đời sinh viên.”
“Quá hợp lý,” anh ấy nói. Chúng tôi lại ngồi trong im lặng một lúc rất lâu, đủ để mùi của đống sách cũ cùng với pizza đầy dầu mỡ ngập tràn mũi. Tôi tin chắc rằng với sự kết hợp giữa mùi sách ẩm mốc và mùi mồ hôi ám trên quần áo cả ngày nay, thì người ngợm tôi lúc này đang tỏa ra thứ mùi kinh khủng lắm. Thật may vì Luke không diện đồ gì quá đặc biệt, anh mặc chiếc quần soóc bóng chày và một chiếc sơ mi Clemons High Cougars. “Tay của em sao rồi?”
“Tốt hơn rồi ạ,” tôi nói, nhìn xuống vết thương. Máu đã ngừng thấm qua lớp gạc và không còn nhức nhiều nữa. Tôi túm lấy một miếng pizza khác từ hộp và thay chiếc đĩa giấy ngấm đầy dầu mỡ bằng một cái mới. Tôi đã không nói với anh ấy rằng chúng tôi có khăn giấy ở phía phòng sau. Anh ấy quá tự hào với chỗ giấy in của mình.
“Anh và Porter đã gặp nhau thế nào?” Tôi hỏi.
“Bạn cùng phòng ngẫu nhiên ấy mà,” anh đáp. “Gã ấy rất dễ chịu... và cũng nhộn như quỷ sứ ấy. Có đôi chút tâm trạng, điều này chắc em cũng thấy rồi.”
“Ồ, đúng vậy,” tôi nói. Tôi định lôi ra một số ví dụ điển hình về sự tâm trạng của gã ấy trong vài ngày ngắn ngủi mà chúng tôi biết nhau thì Luke cắt ngang.
“Chúng ta đã nói quá nhiều về anh rồi. Hãy nói về cuộc sống của em từ lúc gia đình anh rời khỏi đây đi?”
Tôi đã thờ ơ một cách tệ hại. Về cơ bản là tôi cũng vượt qua được thời cấp hai và cấp ba, được che chở dưới chướng của một vài đứa bạn ít ỏi. Tôi tham dự vào một câu lạc bộ thiết kế hồi năm hai trung học và giúp thiết kế các mẫu áo phông cho nhiều nhóm khác nhau trong trường. Tôi xem các chương trình thực tế cùng với Zoe vào cuối tuần. Tôi đánh nhau với cô chị họ có-mối-thù-truyền-kiếp hai lần mỗi tháng, và đôi khi giúp mẹ tôi làm bữa tối. Ngoài ra tôi cũng trở thành nữ xế cho nhóc em và giúp nó làm bài tập toán.
“Không có gì thú vị đâu,” tôi đáp. “Anh biết đấy, trường học, gia đình - mọi thứ đều khá bình thường.”
“Bây giờ Noah bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?” Anh hỏi.
“Mười bốn rồi,” tôi đáp. “Thằng bé cũng sắp bước sang năm đầu trung học rồi. Em cũng không tin được là nó trưởng thành nhanh đến thế.”
“Và thằng bé vẫn khỏe chứ?” Anh hỏi.
Lúc còn bé Noah rất hay ốm. Mãi sau bác sĩ mới phát hiện ra là thằng bé cần làm phẫu thuật cắt bỏ a-mi-đan và phẫu thuật tai trong, sau đó thằng bé mới khỏe dần. Cũng vì thế mà lúc nào mẹ cũng đối xử với Noah như một đứa trẻ phép màu bởi nó luôn khỏe mạnh và trưởng thành hơn từng ngày. Bà cư xử như thể thằng bé mắc ung thư hoặc bệnh gì đó trầm trọng kiểu thế ấy.
“Vâng, thằng bé rất khỏe. Hiện giờ thằng bé còn đang nhận đóng quảng cáo cho vài công ty trong thị trấn nữa ạ,” tôi cười.
“Thật á! Quá tuyệt vời,” Luke nói.
“Và có đôi chút kì cục nữa,” tôi cười. “Tuy nhiên mẹ em rất thích điều này. Em cũng vui khi thấy mẹ phấn khích với một thứ gì đấy.”
“Anh cá là họ rất vui vì em học gần nhà như vậy,” anh nói. Tôi thở dài. “Còn hơn cả gần. Em vẫn sống ở nhà em thôi mà.”
“Như thế thì em sẽ không phải thuê nhà. Sẽ tiết kiệm được khối tiền để xung vào quỹ pizza đấy,” anh nói. “Nếu có lúc nào đó em cần tìm nơi để trốn một thời gian thì nhà anh luôn rộng cửa đón em nhé. Hai thằng tụi anh sống trong khu phức hợp ở Hillis.”
Tôi khẽ đỏ mặt. “Thật là tốt ạ. Lúc đó em sẽ đến làm phiền anh.”
“Anh rất mừng vì đã gặp em ở bữa tiệc hôm đó,” anh nói. Bụng dạ tôi chợt bồn chồn, và tôi cảm nhận rõ mặt mình đang chuyển sang một sắc đỏ khác. Tôi không nhận ra là lúc này chúng tôi ở rất sát nhau, chỉ cách nhau có vài xen-ti-mét.
“Em cũng vậy.” Chúng tôi nhìn nhau đắm đuối một lúc rất lâu trước khi tôi khẽ ho và cả hai đều ngồi về vị trí cũ. Tôi nhìn xuống điện thoại để xem giờ, và tôi khẽ la lên. “Ôi thôi xong, đáng lẽ em nên có mặt ở nhà từ một tiếng trước rồi mới phải.”
“Quá giờ giới nghiêm à?” Anh hỏi. Tôi thề là đã thấy anh ấy nháy mắt.
“Thật vui vì được gặp anh hôm nay ạ,” tôi nói. Anh ấy đứng dậy khỏi chiếc thùng đang ngồi và chìa tay ra để tôi nắm lấy và đứng dậy.
“Anh cũng rất vui,” anh nói. Chúng tôi đứng trong sự lấp lửng kì cục giữa việc ôm hay hôn, và tôi không thể đọc được xem anh ấy đang muốn điều gì từ phía tôi. Tôi chìa tay ra và nắm chặt tay anh ấy, trong bụng thì đang đấm đá chính mình vì quá xấu hổ.
“Cảm ơn hộp pizza của anh nhé,” tôi nói, quay mặt đi. “Em phải đi rồi.”
Mặt tôi đỏ bừng bừng, và tôi bắt đầu bước ra phía trước cửa hàng. “Đợi đã! Không phải là em phải khóa cửa sao?” Anh ấy la lên phía sau tôi.
“Chết tiệt,” tôi chửi thầm. “Vâng, vâng em có ạ.”
Anh ấy đẩy những chiếc thùng sang một phía phòng và cầm theo chỗ pizza còn thừa lại. Tôi tìm chùm chìa khóa ở phía phòng sau và thầm tạ ơn vì thấy chúng chưa đầy một phút. Chúng tôi không nói gì với nhau khi tôi dẫn anh ấy đi về phía trước cửa hàng và ra bên ngoài. Trong lúc tôi khóa cửa, anh vẫn kiên nhẫn cầm chỗ pizza và đứng đợi tôi.
“Cho anh xin số điện thoại của em được không?” Anh hỏi. “Em biết đấy, để phòng khi anh cần người giúp sức xử gọn chiếc pizza?”
“Dạ vâng, tất nhiên là được rồi ạ.” Tôi đỏ mặt. Anh ấy rút điện thoại ra, tôi hồi hộp nhập số điện thoại của mình một cách nhanh nhất có thể. “Em nên để tên là Dani hay Danielle đây?”
“Danielle đi,” anh đáp. “Nhớ không, Dani là cô bé sợ không dám nói chuyện với anh.”
“Được đấy.” Tôi trả lại điện thoại cho anh, và chúng tôi lại đứng đó không biết phải làm gì tiếp theo.
“Chúc ngủ ngon, Danielle,” anh nói.
“Ngủ ngon, Luke,” tôi đáp. “Lái xe an toàn nhé.”
“Chắc chắn rồi.”