Cuối thu đầu đông, thời tiết khô hạn kèm cái lạnh se sắt bao phủ khắp nơi làm đất trời cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang thật u ám. Những triền đá tai mèo xám xịt tua tủa lên bầu trời. Đâu đâu cũng là một màu buồn tẻ. Ấy thế mà mùa buồn nhất cao nguyên đá lại mang đến một thứ mật ngọt luyến nhớ, đó là mật ong hoa bạc hà.
Dưới thảm hoa bạc hà tím nhạt, hoa cỏ kim trắng muốt, hoa ngũ sắc xanh, hoa dền đỏ, hoa dong riềng vàng..., một nhóm người đang cần mẫn làm việc, người nào người nấy đội mũ có lưới trùm kín mặt, tay đi găng, bên cạnh là một cái lò khói nghi ngút. Cẩn thận mở nắp tổ ong, nhấc cầu ong ra khỏi tổ, xịt khói cho ong bay đi rồi họ ngồi xuống ngay cạnh tổ lấy con dao nạo gọn sáp để vệ sinh cầu ong, thả chúa, kiểm tra phấn hoa...
Bận rộn và đầy thanh sắc
- Mấy tổ đấy còn trứng không?
- Không.
- Thế thì mất chúa rồi.
- Không, vẫn còn trong rọ.
- Thế thì thả ra.
...
Những tiếng trao đổi vang lên ở một góc thung lũng ấy minh chứng cho nhận định: Đưa vào và thay thế ong chúa là một trong những việc khó khăn nhất của nghề nuôi ong. Trước tiên người ta đưa chúa mới được nhốt trong lồng vào trong tổ và theo dõi trong hai đến ba ngày. Khi thấy hàng loạt ong thợ vây xung quanh ong chúa với cử chỉ thân thiện, chứng tỏ đàn ong đã tiếp nhận chúa mới, người ta sẽ thả ong chúa ra. Nói chung khi đàn ong đã mất ong chúa, việc đưa ong chúa mới vào sẽ dễ dàng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đưa chúa vào, ong thợ cắn chết chúa, không tiếp nhận chúa mới. Trường hợp này là do chúa mới có mùi lạ kích thích khả năng tự vệ của ong. Để khắc phục, trước khi giới thiệu chúa cần phun vào tổ một ít chất thơm hoặc khói hương để đồng nhất mùi của tổ ong và ong chúa mới.
Từ năm 2014 đến nay, cứ đầu tháng 10, nhóm của anh Trần Nghiệp, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Trường Anh, lại từ Tuyên Quang chở ong lên cao nguyên đá Đồng Văn để đón vụ mật hoa cỏ kim, hoa bạc hà. Những người nuôi ong là dân du mục đúng nghĩa. Một người lên trước thám thính các điểm hoa nở, chọn được điểm đỗ họ liền gọi điện về, người ở nhà chất thùng ong lên ô tô tải rồi lập tức lên đường. Điểm dừng đầu tiên của nhóm anh Nghiệp là xã Sủng Trái. Năm nay họ phụ trách 190 tổ ong. Vài tấm gỗ được ghép lại làm phản nằm, đóng cọc, dựng bạt lên che nắng che mưa. Người có thể ăn uống tạm bợ nhưng tổ ong thì phải chỉn chu. Thùng ong được đóng bằng gỗ, hình chữ nhật, mỗi thùng chứa sáu đến mười cầu ong, giống ong nội địa, thuần chủng. Tổ ong được đặt ngay ngắn trên giá đỡ gỗ cao, mái che lá cọ hoặc miếng tôn. Xong xuôi, người ta kéo miếng tôn nhỏ, cửa mở, rào rào, ong thợ từng nắm như vãi thóc túa ra tìm hoa, hút mật. Rồi cứ thế, họ bốc thùng ong và lán trại di chuyển khắp nơi: Ma Lé, Sà Phìn, Lũng Phìn... Ở đâu có nhiều hoa nở mà chưa có người đặt ong thì họ đến. Công việc cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày, hết tìm bãi thả, vệ sinh tổ, lại quay mật. Vòng quay ấy chỉ kết thúc vào ngày 25/12 âm lịch, tàn mùa hoa bạc hà cũng là lúc họ gói ghém đồ nghề xuôi về nhà ăn Tết, nghỉ ngơi sau một mùa vụ tất bật.
Cây bạc hà thuộc loại thân cỏ, lá mọc so le, hình răng cưa. Cây nảy mầm từ mùa xuân nhưng phải đến mùa thu mới ra hoa, hàng trăm bông hoa nhỏ làm thành một bông hoa lớn hình đuôi chồn, những bông hoa nhỏ hình quả chuông chứa rất nhiều mật. Quả chuông mở ra, hoa nở chính là mùa ong đi lấy mật. Vào độ cuối thu hoa bạc hà nở tím trải dài mênh mông lên bạt ngàn đá núi âm u, bầy ong thợ kéo đến hàng đàn mải mê hút mật. Từ sáng sớm đến chiều tối vùng hoa bạc hà luôn rù rì, náo nhiệt trong tiếng ong bay.
Hạt cây bạc hà tháng 12 âm lịch rụng xuống đất, theo gió bay khắp nơi, đậu trên mặt đất, len vào các vách đá tai mèo, giắt lên thân cây... Vì có tinh dầu nên chúng không bị mối mọt ăn, không bị thối. Các loại hạt khác gieo xuống đất bảy ngày là nảy mầm nhưng hạt bạc hà chín tháng sau mới nảy mầm. Chính thổ nhưỡng khí hậu khắc nghiệt, khô hạn của cao nguyên đá Hà Giang đã giúp hạt bạc hà ẩn nhẫn chờ thời để đến mùa xuân thì bung nở. Thời tiết càng khô hạn, cây bạc hà càng nhiều tinh dầu, hoa càng thơm, càng nhiều mật. Cây bạc hà là sự đền bù của thiên nhiên cho cao nguyên đá khắc nghiệt này. Nhưng bạc hà cũng rất “khó tính”, phải ở những nơi người ta làm nương ngô, đất sạch thì cây bạc hà mới lên. Trời se lạnh, có sương xuống là chúng đua nhau xuất hiện, ken dày, xanh đét. Chỗ cây cỏ rậm rạp, không trồng ngô, đất không sạch, bạc hà không lên nhiều. Nhưng cũng chính nương ngô lại gây hại nhiều cho cây bạc hà. Vì cây bạc hà mỏng manh như cỏ nên người H’mông cuốc đất làm nương ngô thường cuốc luôn cả cây bạc hà. Thế nên năm nào cũng mất một lứa bạc hà. Thấy vậy, huyện Đồng Văn nghĩ ra cách hỗ trợ người dân 200.000 đồng/ha/vụ để khi làm nương ngô, họ làm cẩn thận, không cuốc phá mất cây bạc hà.
Cách lán trại của nhóm anh Nghiệp vài ba ki-lô-mét là điểm nuôi ong của anh Thào Chứ Nhù, 33 tuổi, người H’mông ở thôn Sủng Của, xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn, một trong những hộ nuôi ong nổi tiếng của địa phương. Cách đây sáu năm, thấy người dưới xuôi lặn lội vượt đèo dốc chở từng ô tô tải thùng ong lên quê mình mỗi mùa hoa cúc kim, hoa bạc hà, anh thấy lạ rồi lân la tìm hiểu. Thấy thích rồi, anh đút túi năm triệu đồng xuôi xuống huyện Yên Minh mua ong giống về nuôi. Vừa làm vừa học những người nuôi ong trước, dự những lớp khuyến nông do ủy ban nhân dân xã mở, hướng dẫn kỹ thuật tạo chúa, tách đàn, phòng chống dịch bệnh cho đàn ong, phòng chống hiện tượng ong bốc bay, kỹ thuật khai thác và bảo quản mật… cũng phải mất ba năm, anh Nhù mới thành nghề.
Đến nay, vợ chồng anh ngoài trồng hai đến ba cân ngô giống còn nuôi ong quanh năm. Bình thường, anh mang ong đi Mậu Duệ thả cho ăn các loại hoa, đến tháng 10 âm lịch bắt đầu mùa hoa bạc hà thì anh lại chở ong về Sủng Trái ở đến hết tháng 12 âm lịch là hết mùa. Mở một tổ, rút một cầu ong lên kiểm tra, anh Nhù sung sướng reo lên: “Nhiều phấn quá!” Rồi anh lấy ngón tay vừa chỉ cho tôi thấy vừa giải thích: “Cái đỏ đỏ này là phấn đấy”. Kiểm tra một tổ khác, anh reo lên với vợ, chị Giàng Thị Chúa: “Con chúa non này đẹp đấy!” Chị hỏi vọng sang: “Tổ đấy còn đông quân không?” “Đông”, anh đáp. Tiếng ong rì rào làm mật, tiếng gió vi vu, tiếng người nói cười vui vẻ, hạnh phúc trong lao động thật bình dị, thật nên thơ.
Ong người ta nuôi cho ăn đường thì 4 ngày đến 5 ngày là được quay mật nhưng anh Nhù nuôi hoàn toàn bằng mật hoa bạc hà, “Không chăn nên từ hai tuần đến ba tuần mới được quay.” Được cái mật của anh ngon nên người ta gọi điện hỏi ngày quay rồi đến tận nơi lấy hết. Anh bán lẻ 400.000 đồng/ lít, bán cả xách (can 20 lít) thì 7 triệu đồng. Trung bình mỗi năm gia đình anh Nhù thu được 50 triệu đồng từ việc nuôi ong.
Maurice Maeterlinck (1862 - 1949), nhà thơ, nhà viết kịch, triết gia người Bỉ, từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1911, trong khảo luận triết học Đời ong đã viết những dòng rất nên thơ: “Ở nơi đây, cũng như bất cứ nơi nào có đặt những tổ ong, chúng sẽ đem lại cho những cánh hoa, sự tĩnh lặng, bầu không khí man mác, những tia nắng một ý nghĩa mới. Ở đó như thể đang diễn ra ngày hội mùa hạ. Ta có thể nghỉ ngơi ở một ngã tư tươi sáng, nơi những đường bay hội tụ và lan tỏa, từ lúc bình minh ló rạng cho đến khi hoàng hôn buông xuống, chúng mang theo đủ mọi hương vị bận rộn và đầy thanh sắc của làng quê. Ở đó ta có thể thấy một tâm hồn ngời ngời và hạnh phúc, một tiếng nói khôn ngoan và đầy nhạc điệu, một tổ ấm vui nhộn trong thời khắc tuyệt đẹp của khu vườn. Ở đó, trong ngôi trường của đàn ong, chúng ta hiểu ra những mối bận tâm của tự nhiên toàn năng, những mối quan hệ trong sáng giữa ba thế giới của tự nhiên, sự phát triển bất tuyệt của sự sống, đức hạnh của sự lao động hăng say và vô vị lợi, và cũng tuyệt vời như đức hạnh của sự lao động – ở đó có những cô ong thợ anh hùng dạy ta biết quý trọng hương vị ngọt ngào thoáng qua lúc nhàn cư, qua những đường nét nồng nhiệt được hàng nghìn đôi cánh nhỏ của mình vẽ nên như thể nhấn mạnh cái niềm vui sướng gần như không thể diễn tả nổi của những ngày thanh khiết hồi chuyển quanh mình trong không gian, khi chẳng mang theo mình một cái gì, ngoài cái chu trình trong sáng, vẹn toàn, giống như niềm hạnh phúc hết mực trinh bạch.”