Con đường hạt muối, con đường trekking đẹp nhất Việt Nam: Tà Năng - Phan Dũng, nối hai đỉnh núi thiêng Bidoup - Chư Yang Sin và nhiều cung đường khác ở Nam Tây Nguyên thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài nước. Tác giả của chúng là Mull K’Vâng, chàng trai 40 tuổi mang trong mình hai dòng máu K’ho của mẹ và Ê Đê của cha.
Lục hết tất cả trong ba lô để mang hết bánh, kẹo, sữa… tặng trẻ em trong các thôn vùng sâu vùng xa; vác gần 30kg hành lý trên lưng vẫn mang theo túi để nhặt rác trong rừng; ánh mắt đầy ngậm ngùi khi gặp những người còn nghèo khó; nụ cười mãn nguyện khi chuyện trò tâm đắc với những người hiền minh giữa rừng già…, K’Vâng khiến những người đã đi rừng cùng anh không thể quên đc.
Ám ảnh
Thân thiết với K’Vâng đã gần chục năm, cùng rong ruổi trên nhiều cung đường, tôi luôn bất ngờ trước sức đi, sức cảm của anh. Hẹn gặp anh ở nhà (bon Neur C, thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng) khó hơn ở rừng. Bước chân của anh luôn rong ruổi khắp núi đồi bát ngát. “Mình là một phần của rừng. Đi rừng bằng kỹ năng vốn có, niềm tin và cả tình yêu”, K’Vâng chia sẻ. Một tuần anh ở rừng đến năm ngày, đi thăm bạn bè, đi để khảo sát mở tour mới, và hầu như hai ngày cuối tuần đều có lịch dẫn khách trekking (đi bộ dài ngày, một hình thức du lịch mạo hiểm dã ngoại ngoài trời ở những nơi hoang dã).
Nghề làm du lịch đến với K’Vâng như một câu chuyện dài và đầy tình cờ. Mọi chuyện bắt đầu từ giờ học địa lý, khi K’Vâng là học sinh lớp 9 trường THCS Liên Đầm (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). “Bài học hôm đó cô dạy về nạn mất rừng ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Từ cửa sổ phòng học nhìn thẳng qua ngọn đồi - nơi bà con phát rừng làm lúa rẫy, tôi dễ dàng thấy giữa nương lúa xanh những vệt dài ngoằn ngooèo màu trắng. Đó là sản phẩm của nhiều trận mưa lớn kéo trôi bùn đất. Nỗi buồn xâm chiếm tôi. Những vệt trắng dài trên lưng đồi ấy thật sự ám ảnh”.
Nỗi ám ảnh ấy tiếp tục đầy lên trong K’Vâng khi anh chứng kiến hàng đoàn người sáng mang gùi và cây xà gạc đi vào rừng, chiều chiều lại lầm lũi trở về, những thứ kiếm được chẳng đáng là bao. Họ đi qua quốc lộ 20 với những cửa hiệu sáng trưng ánh điện trở về buôn làng u tịch trong màu tối. Những băn khoăn ấy cứ len lỏi trong đầu của đứa trẻ tên K’Vâng ấy nhưng anh chưa thật sự định hình được nó là gì và mình nên làm gì.
Nhưng chính những ám ảnh ấy đã đưa K’Vâng vào một lối rẽ mới. Bắt đầu từ năm 1991, vùng Liên Đầm thắng lớn nhờ cà phê. Đời sống người dân dần thay đổi. Nhiều hộ giàu lên. Giấc mơ từ cà phê đã thành hiện thực. Hai tiếng cà phê lại tiếp tục hấp dẫn đối với nhiều người. Bốn anh chị em của K’Vâng và nhiều bạn của anh cũng nghỉ học hăng say đi phát rẫy trên dấu tích xưa của cha ông để cà phê mọc lên tươi tốt. Nhưng nỗi ám ảnh ngày trước, những vệt trắng trên lưng đồi đã giúp K’Vâng bình tâm, kiên trì chọn việc học.
Các thầy cô giáo ở trường THPT dân tộc nội trú tỉnh Lâm Đồng vẫn còn nhớ K’Vâng là cậu học trò khó ai qua được ở môn tiếng Anh. Thế nên anh thi đỗ vào khoa ngoại ngữ trường Đại học Đà Lạt một cách dễ dàng. Năm 2005, ra trường, với chính sách hỗ trợ việc làm cho con em đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên, K’Vâng vào làm việc tại Khu du lịch Đankia - Suối Vàng tại bộ phận quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, trực tiếp phụ trách một số tiểu khu quanh khu vực hồ Đankia. Đó cũng là quãng thời gian giúp anh học hỏi và hiểu về rừng sâu sắc hơn. Cũng trong chính thời gian ấy, nỗi ám ảnh tuổi thơ lại lặp lại khi tận mắt anh thấy việc lấn chiếm rừng để canh tác của bà con không tạo hiệu quả kinh tế mà lại vi phạm pháp luật. Việc làm chẳng khác nào sự “gặm nhấm” rừng. Năm năm ở Đankia đã cho anh những kiến thức phong phú về rừng để sau này, vào tháng 4/2011 khi Khu du lịch Đankia - Suối Vàng thuộc quản lý của Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, lãnh đạo vườn đã đề nghị anh về làm việc.
“May mắn là khi về làm việc tại vườn, tôi được cử đi tập huấn ở Nhật Bản về làm du lịch sinh thái theo chương trình của Dự án JICA (Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản). Khóa tập huấn đã hỗ trợ rất nhiều cho tôi về phương pháp thu thập, sưu tầm, hệ thống, đánh bóng báu vật địa phương để đưa vào kinh doanh du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà”. Môn học “Treasure hunting for ecotourism” (Truy tìm báu vật địa phương để phát triển du lịch sinh thái) đã khai mở cho anh biết bao điều lý thú. Người dạy môn này là Giáo sư Masanori Shitani giảng dạy tại Đại học Bunkyo, Nhật Bản, chuyên gia du lịch sinh thái của JICA, đã từng tham gia phát triển du lịch cộng đồng tại Ấn Độ, Mông Cổ, Iran.
Khi tham gia lớp học, những gì thầy giáo nói về báu vật địa phương là toàn bộ những gì về văn hóa, những gì đặc sắc nhất của dân tộc, của buôn làng mình cứ hiện lên trong đầu K’Vâng. Anh nhớ lại: “Lúc đó tôi như bừng tỉnh, trời ơi sao mình lãng phí quá vậy? Trời ơi sao trước giờ mình không để ý? Và lúc đó tôi khao khát những báu vật của cộng đồng được khôi phục, gìn giữ và tạo ra giá trị.”
Cả một chặng đường dài và khi tham gia khóa đào tạo của JICA, gặp thầy Shitani, K’Vâng thực sự đã rẽ qua một hướng mới, một hướng đi mà trước nay anh cũng không nghề nghĩ tới là làm du lịch.
Độc, lạ
Trong tất cả những tour K’Vâng dẫn khách đi đều thấm đẫm những văn hóa đặc trưng của người K’ho, Raglai, Cil, Ê Đê... trên đất Nam Tây Nguyên.
Facebook của anh luôn đầy ắp hình ảnh, câu chuyện về những cung đường, ngọn núi, buôn làng, con người có thật được kể mộc mạc, tình cảm bằng tiếng K’ho, tiếng Anh, tiếng Việt. Đọc chuyện, xem ảnh, cảm được tình cảm, hồn cốt của nhân vật, của người viết, của vùng đất, nhiều người đam mê xê dịch liền đề nghị được theo chân K’Vâng. Đi rồi tâm đắc thì họ lại chia sẻ và giới thiệu cho bạn bè.
Để chuẩn bị mỗi hành trình, K’Vâng luôn đi trước, tìm hiểu và nhất là thu thập những câu chuyện từ chính những người già trên cung đường đó kể lại. Anh gọi đó là đi xem “sức khỏe của con đường”. Với sự giúp đỡ của những người bản địa, K’Vâng nắm chắc sự đa dạng sinh học và những tác động của cả thiên nhiên và con người lên con đường đó. Nằm lòng “lí lịch”, “sức khỏe” của con đường nên K’Vâng biết đi tới đâu thì dừng nghỉ ngơi, tới địa điểm nào sẽ dừng cắm trại, kiếm củi nhóm lửa, kiếm nước nấu cơm ở đâu và thậm chí đứng nghỉ ngơi dưới gốc cây nào là an toàn, cây nào có cành mục nguy hiểm. “Biết được cung đường khỏe hay không thì sẽ không bao giờ bị bất ngờ hay bị động trên cung đường đó”, anh đúc kết. Trong ba lô của K’Vâng luôn có những vật dụng truyền thống của người K’ho. Thân thuộc nhất là con dao nhỏ xíu gọi là pis chot. Ấy thế mà nó lại là con dao đa năng của người K’ho. Sự đa năng của nó phụ thuộc vào đôi bàn tay. Và tôi chắc chắn rằng với người K’ho, bất cứ cái pis chot nào cũng sẽ thành đa năng bởi họ có đôi bàn tay đa năng. Cái gùi, cái xà gạc, các hoa văn trên cây nêu, cái cần hút rượu cần, cái tẩu thuốc… tất cả đều được làm nên từ đôi bàn tay khéo léo điều khiển pis chot của người H’ho. Riêng K’Vâng còn dùng pis chot để gọt cành dẻ làm gậy cho khách leo núi, làm cọc cắm lều… Trong ba lô của K’Vâng còn có hũ muối bằng ống tre. Muối được trộn với hạt tiêu rừng (lilu) để chấm rau rừng luộc, chấm thịt nướng, để nêm cháo… K’Vâng cũng luôn có cây xà gạc để phát cây dọn đường đi và để đối phó với những bất trắc trong rừng như bản năng của người K’ho.
K’Vâng rất tự hào về dân tộc mình. Với anh văn hóa của dân tộc có trong từng hơi thở. Và anh tìm mọi cách để chia sẻ niềm đam mê ấy với du khách. Anh cho biết: “Cách làm của mình là không chia sẻ nhiều thông tin mà để khách phải thật sự hòa mình vào đời sống của người bản địa. Ví dụ khi mình tổ chức nhóm khách gia đình thưởng thức ẩm thực Lạch tại nhà sàn của Cil Mom Blui ở bon Đơng 1, thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, Paul, một du khách, đã hào hứng học và hát những bài dân ca của người Lạch. Mình không giới thiệu là dân ca Lạch rất hay nhưng khi ngồi bên bếp lửa bập bùng uống rượu cần, nghe mọi người ca hát, tâm hồn của họ lập tức đồng điệu. Hoặc trong các bài viết trên Facebook, các chủ đề thuyết minh mình luôn sử dụng những câu chuyện, lời khuyên, phương pháp canh tác thuận tự nhiên, cách chữa bệnh bằng thuốc nam... của ông bà tổ tiên. Dần dần, du khách hiểu và trân trọng tâm hồn, văn hóa của người bản địa.”
Câu hỏi đầu tiên của nhiều người khi liên lạc với K’Vâng để đặt tour luôn là “Cung đường ấy có gì đặc biệt?”. Câu trả lời của anh luôn là “bạn cứ đi đi rồi sẽ thấy có rất nhiều điều đặc biệt ở đó”. Nhiều người đã không đặt tour khi nhận được câu trả lời tưng tửng ấy nhưng cũng có nhiều người thêm háo hức tìm hiểu. “Sau những chuyến đi chúng tôi có những người bạn mới. Lúc chia tay chúng tôi đều có lời hẹn trở lại để tiếp tục tìm hiểu những điều thú vị của rừng, của văn hóa. Và những lời hẹn quay lại đều thành hiện thực bởi chúng tôi tin và yêu K’Vâng”, Hải Đăng, một khách du lịch thường xuyên của K’Vâng, chia sẻ.
Đi tìm giá trị cốt lõi
“Tôi không làm du lịch đơn thuần, mà đang thực hiện giấc mơ của mình. Là giấc mơ đi tìm giá trị cốt lõi - đó chính là những gì nguyên sơ của cuộc sống bà con mình ngày xưa. Tây Nguyên chứa đựng vô vàn điều thú vị về văn hóa, phải làm sao cho bạn bè biết Tây Nguyên mình giàu và đẹp lắm. Thay vì tới nước này nước nọ, tôi muốn dành nhiều thời gian cho những ngọn núi. Chỉ riêng Tây Nguyên thôi tôi đã thấy mênh mông lắm rồi. Tôi tự xác định cho mình và chia sẻ cho cả những người đồng hành rằng đi rừng là đi từng ít một. Đi để hiểu chứ không phải để chinh phục, để check in. Đi để cảm nhận mình là một phần ở đó”, K’Vâng tâm sự.
Có một câu nói của người già mà K’Vâng rất tâm đắc: “Choh chom mono mom bla” (Xa xưa các ngọn núi nằm cạnh nhau). Câu nói đó đã mở ra cho K’Vâng rất nhiều điều. Đó không đơn thuần là sự lý giải hiện tượng tự nhiên rằng trải qua những cuộc vận động của trái đất mà các ngọn núi mới bị chia tách. Mà ý của người già nói đến sự gần nhau về tình cảm của các tộc người. Đó là lý do mà đi tới đâu K’Vâng cũng tìm gặp những người già. Qua bất cứ buôn làng nào của người K’ho, Srê, Cil, Lạch, Raglai, Ê Đê…, anh luôn dùng ngôn ngữ, tình cảm chân thành của dân tộc mình để tìm ra sự đồng điệu. Đã nhiều lần chứng kiến điều đó, dù không hiểu nội dung cuộc trò chuyện, nhưng nhìn ánh mắt rạng ngời, nhìn cách họ ôm nhau, chào hỏi nhau, chăm chút nhau, tôi tin rằng họ hiểu nhau.
Trên con đường đi tìm báu vật địa phương, anh nhận ra báu vật quý nhất chính là con người. Chính thế nên trong thời gian làm việc tại vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, anh là nhân tố chính xây dựng hai nhóm du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (CBET) ở xã Đa Nhim và xã Đa Chais của huyện Lạc Dương. Thực hiện dự án “Tăng cường năng lực quản lý dựa vào cộng đồng”, trải qua nhiều năm liền tìm người, hướng dẫn và cả đồng hành, K’Vâng đã có những người cộng sự tin cậy như: Cil Phi Crieu Thani, Cil Phi Crieu Ha Trái, Liêng Hot Ha Kim… Nếu như Ha Kim hiểu từng cây rừng thì Thani lại biết rất nhiều câu chuyện của người xưa gắn với rừng và cả ý nghĩa tên mỗi ngọn núi, con dốc, dòng suối. Anh kể về những ngọn núi, cây pơ mu, cây thông hai lá… cây nào cũng có linh hồn, núi nào cũng có lịch sử như con người. Đó là lý do bà con không chặt cây bừa bãi. Và không chỉ với du khách, ngay cả với gia đình, bà con hàng xóm mình, Thani cũng là người diễn giải về rừng đầy uy tín. Thani nói: “Mình muốn bà con không chặt rừng làm nương rẫy bừa bãi nhiều như trước đây nữa. Nếu mình có 2, 3 mẫu đất mà không có tiền đầu tư, không có kiến thức để sản xuất, thì cũng không bằng người chỉ có 5, 6 sào mà đầu tư hiệu quả”. Còn Ha Trái, có lần dẫn đoàn, một thành viên vô tình vứt rác xuống, mọi người đi tiếp còn Ha Trái lặng lẽ đi về cuối đoàn và nhặt rác đút vào túi áo. Cử chỉ không lời của chàng trai người K’ho ấy đã làm cả đoàn thức tỉnh.
Giờ đây, đã nghỉ việc ở vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà để theo đuổi việc kinh doanh riêng thì K’Vâng càng có điều kiện tìm kiếm những trái tim thổn thức với rừng. Ya Tha - người hướng dẫn viên đặc biệt trên cung đường trek được xem là đẹp nhất Việt Nam Tà Năng - Phan Dũng là một ví dụ. Khi K’Vâng đặt chân đến mảnh đất này, sự tương đồng về ngôn ngữ, văn hóa và suy nghĩ “mọi ngọn núi gần nhau” đã giúp anh được bà con ở những buôn làng nơi đây đón nhận. Những câu chuyện của anh đã thay đổi suy nghĩ của những người như Ya Tha. Thế nên dù cha là thợ săn khét tiếng nhưng Ya Tha lại đi làm hướng dẫn viên du lịch. K’Vâng đã hoàn toàn yên tâm để Ya Tha dẫn khách bởi hơn hết anh thuộc về chính mảnh đất này.
Nhận xét về hơn 20 cộng sự của mình, K’Vâng, nói: “Họ đều là linh hồn của mỗi vùng đất. Ngoài những hiểu biết vốn có về rừng, họ còn không ngừng học hỏi, hoàn thiện mỗi ngày bởi rừng luôn chứa nhiều bí ẩn. Họ tìm tới các già làng để thu thập những câu chuyện về phong tục, văn hóa, tri thức bản địa của chính dân tộc mình. Đó không chỉ là cách làm tốt công việc, tăng thêm thu nhập mà quan trọng hơn đó chính là cách họ giữ rừng và giữ gìn văn hóa của cha ông”.
Văn hóa sẽ biến mất nếu không tạo ra được kinh tế. Chỉ khi nào người dân sống được bằng văn hóa thì khi đó văn hóa mới được gìn giữ tốt nhất. Du lịch không phải chỉ khai thác cái xác của phong cảnh. Hiểu vậy nên K’Vâng không ngừng bồi đắp hồn cốt cho những chuyến đi. Mỗi tour của anh đều được tích hợp văn hóa. Ở đó, du khách ngắm cảnh đẹp, tắm không khí rừng, học tri thức bản địa để sinh tồn trong rừng, tiêu thụ sản vật bản địa... Khám phá thiên nhiên - trải nghiệm văn hóa - phát triển cộng đồng là ba chân kiềng bền vững để K’Vâng, Ha Trái, Thani, Ha Kim, Ya Tha, Blui… và nhiều người khác kiếm sống bằng chính văn hóa của cha ông, trao truyền văn hóa dân tộc.
Nhà văn Nguyên Ngọc, người thấm đẫm hồn cốt Tây Nguyên đã nói: “Du lịch chính là con đường quan trọng và hiệu quả để đưa các dân tộc bản địa Tây Nguyên trở lại vị trí trung tâm đồng thời khôi phục được nét văn hóa đặc sắc của Tây Nguyên”. K’Vâng đã quy tụ được nhiều người cùng chí hướng để đi vững chắc trên con đường ấy.