Ngày ngày họ âm thầm tách mình khỏi cuộc sống xô bồ để lủi thủi trong đại ngàn, lênh đênh giữa trùng khơi. Họ lấy một nhành lan, bắt một con cá để âm thầm đo, vẽ, chụp ảnh. Chính họ giúp ta hân hoan vì sự đa dạng sinh học của nước nhà hay đau xót trước sự tuyệt chủng của những loài động vật, thực vật.
Âm thầm
Hai mươi mốt giờ, khu bảo tồn thiên nhiên - văn hóa tỉnh Đồng Nai xào xạc gió, rả rích tiếng côn trùng, tiếng tắc kè tắc lưỡi, tiếng của những loài chim đi kiếm ăn đêm… Đèn pin trên trán, ba lô sau lưng, máy ảnh trước ngực, kẹp trên tay phải, hộp đựng mẫu nơi tay trái, chúng tôi vào rừng.
Giữ im lặng, mắt quét kỹ phía trước, trên đầu, hai bên, dưới chân, tay hạn chế vung vẩy, chân bước ngắn, thở đều, tôi lầm lũi theo chân anh Phùng Mỹ Trung, nhà nghiên cứu đa dạng sinh học. Vừa dứt một cơn mưa nên những lối mòn đầy lá mục hăng mùi mốc, trơn như mỡ, lênh láng nước. Chúng tôi cứ bì bõm lội, vén cành, gạt lá mà bước, mà dáo dác kiếm tìm, mà căng tai nghe ngóng. Đi chừng mười lăm phút, anh Trung dừng lại trước một cây dầu rồi khẽ gọi tôi. “Thằn lằn ngón Cát Tiên - Cyrtodactylus cattienensis đấy. Loài này thuộc họ tắc kè Gekkonidae, bộ có vảy Squama… Loài bò sát ăn đêm này thường sống trong các gốc cây lớn hay thảm mục thực vật. Thức ăn là các loài côn trùng nhỏ. Vào đầu mùa mưa, cá thể cái thường đẻ từ hai đến bốn trứng vào các hốc cây, gốc cây. Loài này phân bố ở vườn quốc gia Cát Tiên, Vĩnh Cửu (tỉnh Đồng Nai), núi Dinh (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), vườn quốc gia Phước Bình (tỉnh Ninh Thuận)...”, anh thuyết minh. Cá thể đực này thật dạn dĩ. Bất luận chúng tôi phá rối bằng ánh đèn pin sáng trưng, đèn máy ảnh chớp lia lịa, nó vẫn giương mắt nhìn, ở yên một chỗ. Mười phút sau, khi đã chụp ảnh và ghi chép tỉ mỉ, chúng tôi trả lại sự bình yên cho nó tiếp tục kiếm ăn.
Đến một khoảng đất khá trống trải ngay bên lối đi, anh Trung bảo tôi dừng lại để kể một trong những mối quan hệ cộng sinh rõ nét nhất giữa thực vật và côn trùng trong rừng mưa nhiệt đới Việt Nam. Đó là loài cây ổ kiến, tên khoa học là Hydnophytum formicarum, dân gian thường gọi là bí kỳ nam. Đây là loài thực vật phụ sinh, thân biến dạng thành củ. Phía dưới củ mọc ra những rễ nhỏ và phía trên mang cành lá, cành ngắn mập, màu nâu. Lá mọc đối phiến dày, hình trái xoan, dài từ 6cm đến 9cm, rộng từ 2,5cm đến 6cm, gốc thuôn, đầu tù, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt. Lá kèm sớm rụng. Hoa không cuống, mọc tụ họp từ bốn nhánh đến năm nhánh ở nách lá, màu trắng. Quả nhỏ, hình trụ hơi dài, khi chín màu da cam. Ngay từ khi hạt giống nảy mầm, bén rễ, bám vào sống phụ sinh trên các hốc cây hay hốc đá, loài thực vật này đã có khả năng di truyền từ hàng ngàn năm tiến hóa là tìm cách cộng sinh với một loài kiến để cùng phát triển trong thế giới sinh tồn đầy khó khăn của những loài sống bám. Những chiếc mầm non nhú lên cũng là lúc bộ rễ hút dưỡng chất từ những tế bào chết, lớp mùn của cây chủ mà chúng sống bám. Rồi theo năm tháng, phần thân của gốc được tích tụ dưỡng chất bắt đầu phình ra, cũng là lúc các dưỡng chất xung quanh cây bám phụ ngày càng cạn kiệt. Phần được gọi là củ đã tạo nên các lỗ nhỏ phát triển theo thời gian. Để có được sự giúp đỡ lâu dài, phần củ bắt đầu tiết ra một số chất dẫn dụ loài kiến sống gần đó kéo nhau đến kiếm ăn. Thế là cuộc cộng sinh bắt đầu, củ cây ổ kiến tiếp tục lớn nhanh tạo thành một nơi bảo vệ vững chắc cho loài kiến cư trú. Loài kiến trả ơn bằng cách tiêu diệt côn trùng lạ tấn công loài cây cưu mang mình. Cuộc sống hai bên tiếp diễn cho đến khi bầy kiến phát triển với số lượng lớn và nguồn chất dẫn dụ dần cạn. Loài kiến bắt đầu tổ chức đi kiếm mồi, tha về nuôi bầy và thế là một phần chất thải cũng như thức ăn của chúng được chia phần cho cây. Những nghiên cứu về dược tính cho thấy cây không chấp nhận một số loài kiến đến chỉ mong tấn công phần lớp củ và dưỡng chất mà nó tiết ra. Thế nên nó sản sinh ra những chất độc miễn nhiễm với riêng loài kiến nào có khả năng cộng sinh. Theo kinh nghiệm của người Ê Đê, bí kỳ nam được dùng làm thuốc chữa bệnh gan, vàng da, bệnh của phụ nữ sau khi sinh. Ngoài ra, một vài lát bí kỳ nam đem giã nhỏ, hấp với đường chữa được ho cho trẻ. Bí kỳ nam còn được dùng chữa thấp khớp, đau nhức gân xương, tụ máu bầm. Loài này đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam.
Ngay trên cành cây bí kỳ nam, tôi phát hiện ra một cá thể gà nước họng nâu - Rallina fasciata đang đậu và ngủ ngon lành. Còn anh Trung thì chặc lưỡi mãi vì để sổng một cá thể rắn hoa cỏ nhỏ - Rhabdophis subminiatus. Cá thể đực đó đầu màu ô liu, thân hình khá đẹp, cổ màu đỏ nhạt, thân màu xanh ô liu, bụng màu xám. Anh Trung muốn có một tiêu bản nên gọi tôi trợ giúp. Nhắc đến rắn đã lạnh sống lưng nên tôi vừa vạch đám lá mục vừa run và lóng ngóng để nó chuồn mất. Anh Trung thì tiếc nhưng tôi lại thở phào. Hỏi nó có độc không, anh tỉnh bơ đáp: “Độc nhưng chưa thấy ai chết vì bị nó cắn. Cách đây mấy năm, tại vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà tôi cũng bị một cá thể đực của loài này bổ một cú vào tay khi đang say sưa chụp ảnh nó…”
Lại đi, dừng, chụp ảnh, ghi chép thêm được các loài ếch lá, bướm, bọ que, rắn xanh, ốc, sâu và chích bụi thì đôi chân tôi đã mỏi nhừ, người mệt lử, mồ hôi đầm đìa. Bất thần một cơn mưa đổ ập xuống. Lấy áo mưa quấn quanh mớ đồ nghề rồi chúng tôi cứ dầm mưa, vuốt mặt mà đi. Hai giờ, sau khi đã đi khoảng 15km, bắt được sáu mẫu: một cá thể rắn khuyết Lào - Lycodon laoensis, một cá thể thằn lằn ngón - Cyrtodactylus cattienensis, ba cá thể thằn lằn bóng - Lygosoma bowringii, một cá thể ếch suối - Odorana sp, chúng tôi trở về căn nhà nhỏ nơi bìa rừng.
Thay quần áo, đắp chăn nằm cho ấm người được một lúc, tôi đã thấy ông tiến sĩ Mark Robbins gọi dậy đi tìm chim. Ông là trưởng nhóm nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Kansas, Mỹ và những người cộng sự: chị Sarah Roels, anh Steve Roels, anh Nate Rice, anh Erick A.Garcia-Trejo đã ở đây một tháng để điều tra khu hệ chim. Nghe ông bảo sẽ dẫn đến chỗ có chim hồng hoàng, tôi tung chăn vùng dậy. Ông Mark Robbins, anh Lê Mạnh Hùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật Việt Nam và tôi đi sang hướng đông để thu âm và chụp ảnh chim. Lần đầu tiên sang Việt Nam, lại đến đúng khu hệ chim có giá trị đa dạng cao nên ông Mark Robbins thích lắm. Ngày nào ông cũng dậy từ ba giờ, đi bộ trung bình 12km để nghe tiếng chim, xem chim. Mang theo sách định dạng, sổ, bút, máy ghi âm, máy phát âm, ống nhòm, kính viễn vọng, máy ảnh ống kính dài, chúng tôi âm thầm đi, quan sát, chụp… Cả nhóm sướng tê người khi dụ ra, chụp ảnh, thu được tiếng của cả cá thể đực và cái chim chà vá chân nâu. Đây là loài chim đặc hữu của khu vực này. 7 giờ, về đến lán thì cũng vừa hay anh Nguyễn Đức Tú, cán bộ khu bảo tồn thiên nhiên - văn hóa tỉnh Đồng Nai, dẫn một nhóm đến một bờ suối ở cánh rừng phía bắc để giăng lưới bắt chim về. Lại chụp ảnh, ghi chép, mổ, ướp xác chim…
Tủi phận
Tài nguyên đa dạng sinh học của nước ta rất phong phú. Hệ thực vật có khoảng 14.000 loài thực vật bậc cao có mạch; đã xác định được khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao, 800 loài rêu, 600 loài nấm, 600 loài rong biển. Trong đó có 1.200 loài thực vật đặc hữu, hơn 2.300 loài thực vật đã được sử dụng làm lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, tinh dầu, vật liệu xây dựng. Tỉ lệ số loài thực vật dùng làm dược liệu ở nước ta lên tới 28%. Hệ thực vật có nhiều loài quý hiếm như gỗ đỏ, gụ mật, Hoàng Liên chân gà, ba kích, hoàng đàn, cẩm lai, p’mu… Tính đến nay đã xác định được ở nước ta có 275 loài thú, 1.009 loài và phân loài chim, 349 loài bò sát và lưỡng cư, 527 loài cá nước ngọt, khoảng 2.038 loài cá biển, 12.000 loài côn trùng, 1.600 loài động vật giáp xác, 350 loài động vật da gai, 700 loài giun nhiều tơ, 2.500 loài động vật thân mềm, 350 loài san hô được biết tên… Hệ động vật còn có một số loài quý hiếm như voi, tê giác, bò rừng, bò tót, trâu rừng, hổ, báo, cu li, vượn đen, voọc vá, voọc mũi hếch, voọc đầu trắng, sếu cổ trụi, cò quắm cánh xanh, sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, bò sừng xoắn, gà lam đuôi trắng…
Để có được những con số đó, ngày ngày, các nhà khoa học vẫn âm thầm luồn rừng, lặn biển để quan sát, định dạng loài. Cái nghiệp trót mang ấy để lại cho họ biết bao kỷ niệm vui, buồn.
Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật Việt Nam, đã lên rừng xuống biển hàng trăm chuyến để theo dấu chim, nhưng kỷ niệm đau thương nhất của anh là chuyến dẫn đoàn nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Kansas, Mỹ, đi điều tra khu hệ chim ở khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Trong 20 ngày của tháng 4 năm 2010 ấy, ngoài thời gian làm nghề, anh còn tận tình giúp đỡ những cộng sự nước ngoài những việc vặt: đi chợ mua thực phẩm, mang quần áo ra tiệm ngoài đường lớn giặt ủi. “Trước khi đi đâu tôi cũng dặn đi dặn lại họ là bắt được bất cứ cá thể nào cũng đừng mổ mẫu trước khi tôi về. Ấy thế mà một sáng tôi mang quần áo của cả đoàn ra ngoài khu dân cư đưa cho tiệm giặt, ủi, lúc trở về, họ đã mổ mất một cá thể chim sả hung đực. Tôi tiếc đứt ruột vì đã mười hai năm nay không gặp được loài này”, anh nhớ lại.
Đêm tối mịt mùng, mưa gió và lạnh buốt, ở độ cao 2.900m gần đỉnh Fansipan (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai), hai con người lặng lẽ, mò mẫm, tìm kiếm trong đêm tối mịt mùng. Dưới chân là những vách đá dựng đứng chỉ cần sảy chân thì sẽ không còn cơ hội sống sót. Chỉ có lòng đam mê và niềm hi vọng mãnh liệt mới vượt qua được nỗi sợ hãi. Kết quả là một loài cóc mới được phát hiện ở đây đang được nghiên cứu và sẽ công bố trong tương lai. “Đó là niềm phấn khích tột cùng của tôi trong gần 20 năm nghiên cứu đa dạng sinh học”, anh Phùng Mỹ Trung hào hứng. Nghiên cứu phân loại loài là đam mê ngấm sâu vào từng thớ thịt và khối óc, là món nợ với rừng xanh nên anh Trung tâm niệm phải làm thật nhiều điều để đưa thiên nhiên hoang dã đến với mọi người nhằm nâng cao ý thức của họ trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Thế nên anh đã lập trang web Sinh vật rừng Việt Nam (www.vncreatures.net). Trang web định dạng, mô tả hơn 2.000 loài động vật và thực vật thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau để phục vụ mọi người tra cứu. Ngoài ra, anh còn làm phần mềm SVRMobile chạy trên điện thoại di động giúp tra cứu các loài sinh vật rừng Việt Nam và tìm kiếm đường khi bị lạc trong các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
Theo chân các nhà khoa học đi tìm loài mới, tôi thấy ai cũng tâm tư vì: lương bèo nên khó toàn tâm toàn ý cho công việc. Họ cũng trăn trở vì ở nước ta khoa học mới chỉ dừng lại ở hàn lâm, chưa phục vụ đại chúng nên khó được công chúng đón nhận và ủng hộ về vật chất, tinh thần. Cơ sở vật chất thì thiếu thốn, không có phòng mẫu chuẩn để so sánh, không có các trung tâm, bảo tàng lớn để nghiên cứu… Trong khi đó, làm việc nhiều với các nhà khoa học nước ngoài, anh Trung nhận xét: “Họ làm việc chuyên nghiệp, nhiệt tình và hết mình. Họ làm việc theo nhóm từ ba người đến năm người với chuyên môn hẹp mà sâu. Mỗi người chỉ tập trung vào chuyên môn của họ và hợp tác với nhau rất tốt thông qua trưởng nhóm. Khoa học cơ bản của họ rất tốt và nắm vững kiến thức chuyên ngành. Thiết bị công nghệ cao giúp ích họ rất nhiều trong tác nghiệp và thu bắt mẫu (mỗi cây đèn, vợt, cây bắt rắn… trị giá vài trăm USD/cái với những tính năng tuyệt vời). Họ thân thiện, hợp tác và luôn cầu thị.”
Theo anh Nguyễn Trần Vỹ, cán bộ Viện Sinh học Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh, khó khăn của nghiên cứu chim là khu hệ của chúng rất rộng. Muốn thu mẫu, với những loài chim lớn, nhà khoa học phải giỏng tai nghe, dùng ống nhòm quan sát, chụp ảnh, ghi âm tiếng hót rồi viết mô tả. Còn những loài chim nhỏ, không thể quan sát từ xa được thì dùng lưới mờ bẫy, mô tả xong lại thả. Chưa mô tả được thì mang về nhà phân tích tiếp. Thấy được chim rồi, chụp ảnh chim cho nét càng khó. Chim luôn nhảy nhót, chuyền, bay từ nơi này sang nơi kia. Người chụp phải đặt máy tại một điểm dự đoán trước chim sẽ chuyền tới và có khi phải ngồi gần như bất động một, hai giờ chỉ để ghi được một bức ảnh trong tích tắc. Lang thang đến khắp nơi khảo sát, tìm loài mới là đam mê của anh. Để công bố loài đặc hữu ở vùng Đông Nam Bộ là gà so cổ hung Arborophila davidi Delacour, anh phải trường kỳ ăn mì tôm, uống nước suối, ngủ lều cả tháng trời trong rừng.
Nhưng cũng có những phát hiện rất tình cờ. Năm 2000, một lần đi qua ngôi nhà số 8, phố Chân Cầm, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, Giáo sư Dược học Vũ Văn Chuyên, người được mệnh danh là từ điển sống về thực vật, ngước mắt lên cái trụ cổng. Và may mắn làm sao, ông phát hiện một loài cây quý có từ thời... than đá cách đây ba triệu năm. Đó là cây khuyết lá thông Psilotum nudum Griseb, họ Psilotaceae. Loài cây quý hiếm này vốn là cây cỏ sống lâu năm, sống bám, cao khoảng từ 20cm đến 60cm, không có rễ, chỉ có những rễ giả, còn bộ máy hấp thụ là những lớp lông. Đây là một nguồn gene quý hiếm, độc đáo vì đó là một trong những ngành cây cổ còn lại. Công bố của ông đã làm ngỡ ngàng giới thực vật học trên thế giới. Sau đó, cây này được đưa vào Sách đỏ Việt Nam.
Nhiều loài quý hiếm
Có rất nhiều loài quý hiếm và độc đáo duy nhất chỉ có ở Việt Nam. Những loài như vậy thường có tên loài được đặt theo tên vùng phân bố, địa danh phân bố hay những nhà khoa học Việt Nam đã có cống hiến nhiều cho khoa học. Những loài đó được gọi là loài đặc hữu vì nó chỉ có vùng phân bố rất hẹp và rất dễ bị đe dọa tuyệt chủng bao gồm cả động, thực vật và côn trùng như cá cóc Việt Nam Tylototriton vietnamensis, vọoc mũi hếch Rhinopithecus avunculus, lan lọng Việt Nam Bulbophyllum vietnamense, ve sầu Cúc Phương Euterpnosia cucphuongensis…