H
è đến, ở các chợ Huế vẫn thường bán một loài cá nhỏ lăn tăn. Mấy o bán cá ở chợ Bến Ngự gần nhà tôi gọi là cá mờm; nhưng tôi nhớ ở quê tôi kêu là cá duội, rồi có người còn gọi là cá cơm duội hay cá ruội.
Mà hồi trước, làm chi có cá duội còn tươi như bây giờ, cho dù làng tôi cách mấy làng biển chỉ vài cây số mà thôi. Đơn giản vì hồi đó đường toàn cát, xe máy không có như bây giờ. Đi lại khó khăn như thế, lại gặp trời nắng to nữa nên mấy loài cá to chút như cá trích, cá ngừ, cá nục... thì còn để tươi mà gánh đi bán đường xa; chứ nhỏ nhoi như con cá duội mà các o làng biển gánh vô tới mấy làng ruộng thì ương hư mất rồi. Nên những buổi chiều, cánh đàn ông đi biển đánh được một ghe cá duội là cánh phụ nữ sẵn sàng một bếp củi dương to để bắc cá lên bếp hấp ngay, và sau đó cho vô từng cái trách (còn gọi là cái trét, cái sanh), gánh đi bán.
Cái trách có thể hiểu nôm na là một cái xoong nhỏ và cạn đáy, chỉ dùng để kho cá, mang đi bán đường xa. Một đôi triêng gióng của một o làng biển có thể gánh được mấy chục cái trách chồng lên nhau. Những gánh cá duội vào buổi chiều hè muộn chạy dọc khắp các xóm làng, không nghe mùi tanh của cá tươi mà lại thơm mùi cá hấp.
So với các loài cá biển to thì cá duội khá rẻ, mỗi nhà mua vài trách để cho buổi ăn tối và kho lại vào hôm sau. Cá trong trách cũng đã chín rồi nên người mua có thể lấy đôi đũa gắp lên một nhúm mà nếm thử coi cá còn tươi hay đã cộ (cũ). Tất nhiên sẽ có lời bình cá không tươi, hay: “Cá trách ni răng thấy ít hơn trách nớ rứa o hè?” O bán cá cũng sẽ nói cho trách cá của mình rằng: “Ngầy nói ơn say chưa tề, cá mới đi vô đã chiều chơ cá cộ mô mà cá cộ...” Có thể hiểu “Ngầy nói ơn say” là: “Người nói rứa là oan cho tôi.” Cái từ “ơn say” của mấy o làng biển năm nao chắc bữa nay đã không còn ai dùng đến nữa...
Mà cái cảnh mua bán ở làng quê ngày trước là phải rứa, này qua nói lại, thêm bớt dăm ba nhúm cá rồi cũng qua cả, chẳng ai nỡ nếm cá rồi mà không mua. Đến khi sao hôm vừa mọc ở đằng Tây thì gánh cá cũng vừa bán xong. Mấy o bán cá thu dọn mấy cái trách vô triêng gióng rồi nhẹ nhàng đếm lại tiền, có khi mua ít gạo hay ít rau ở làng ruộng chuẩn bị cho những bữa cơm mà chồng con đang chờ họ. Mấy gánh cá của mấy o làng biển đi rồi, cũng là lúc mùi cá duội kho, cá duội nấu canh cũng đã thơm ngạt ngào từng chái bếp nhà quê. Bữa cơm chiều sẽ có món ngon từ cá duội...
Cá duội đã hấp qua có màu trắng ngà, kho với ớt bột, một lớp đỏ phủ trên màu của cá. Kho xổi với ớt tươi thấy cũng ngon mắt với những sắc màu trắng xanh vàng đỏ trong một xoong cá kho. Cá duội nấu canh khế chua, thêm mấy ngọn rau chanh thanh và ngọt. Cá duội nấu canh me đất cũng thấm và thanh ngọt vị me vườn cá biển. Có một ưu điểm của loài cá biển này, đó là không có xương nên từ con nít đến ông bà già đều dễ ăn...
Cá duội không chỉ ăn tươi mà còn có thể chế biến thành mắm hay phơi khô để dành cho mùa đông. Mắm cá duội là một loại mắm ngon của biển quê, dùng để chấm thịt heo luộc kẹp rau sống hay hấp mà ăn với cơm nóng đều ngon cả. Cá duội phơi khô, sau đó rang lên, trộn với khế chua hoặc xắm với nước mắm tỏi ớt là một món rất bắt mồi...
Mua được ít cá duội tươi đầu mùa từ chợ Bến Ngự. Trưa nay, bữa cơm nhà tôi có tô canh cá duội tươi với khế chua và rau chanh. Hương vị quê nhà ùa về như những buổi chiều năm cũ, khi sao hôm vừa mọc, gió Lào vừa tắt, bữa cơm dưới đèn giữa sân nhà ríu rít tình thân!